(Thị trường) - Trung Qu ốc cố biến Việt Nam
thành một thị trường tiêu thụ hàng hóa chất lượng trung bình, thậm chí chất
lượng kém của họ.
PGS.TS Nguyễn Văn
Nam, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thương mại (Bộ Công thương) nói như vậy
khi trao đổi về vấn đề nhập siêu từ Trung
Qu ốc.
PV: - Bộ Công thương vừa cho biết, tính đến 10
tháng đầu năm nay, Việt Nam đã xuất siêu 1,9 tỷ USD. Tuy nhiên, theo thống kê
từ Tổng cục Hải quan, trong 9 tháng qua, Việt Nam đã nhập siêu từ Trung Qu ốc 20,17 tỷ USD. Nếu đà
nhập siêu này vẫn duy trì ở mức này, hết năm nay, còn số nhập siêu từ Trung Qu ốc có thể chạm hoặc vượt
mốc 27 tỷ USD, tăng gần 3,3 tỷ USD so với mức nhập siêu cả năm 2013.
Thưa ông, trong
khi vấn đề xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Qu ốc đã được chỉ rõ là do đối tác làm khó,
việc nhập khẩu vẫn tăng mạnh như vậy biểu hiện mối quan hệ của nền kinh tế Việt
Nam - Trung Qu ốc
như thế nào? Lựa chọn hiện nay của Việt Nam có phù hợp không và vì sao?
PGS.TS
Nguyễn Văn Nam: -
Việt Nam nhập siêu từ Trung Qu ốc
đã từ lâu và mức độ ngày càng tăng. Các doanh nghiệp nhập siêu từ Trung Qu ốc chủ yếu là doanh
nghiệp trong nước chứ không phải doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Các sản phẩm Việt
Nam nhập từ Trung Qu ốc
bao gồm hàng tiêu dùng và một lượng lớn phụ tùng, nguyên phụ liệu, đặc biệt là
các thiết bị toàn bộ của các dự án nhà máy, công trình Việt Nam mà Trung Qu ốc đấu thầu được, từ
nhiệt điện đến hóa chất, nhà máy đường, thép, xi măng... Thậm chí, Việt Nam còn
chủ động đi mua thiết bị toàn bộ, nói là hàng EU nhưng thực ra toàn là hàng Trung Qu ốc.
Mối quan hệ giữa
nền kinh tế Việt Nam-Trung Quốc, nói theo kiểu thế giới, là mối quan hệ
bắc-nam, giữa một nước phát triển và một nước kém phát triển. Xét về kinh tế
hiện nay, mặc dù Trung Qu ốc,
Việt Nam đều gọi là những nước đang phát triển nhưng so với Việt Nam, Trung Qu ốc trình độ phát triển
cao hơn rất nhiều. Trong mối quan hệ này Việt Nam ở thế yếu.
Đó là điều người ta
vẫn hay nói. Còn một điều mà người ta ít nói đó là chính sách, thủ đoạn ngoại
thương của Trung Qu ốc
cao tay hơn Việt Nam nhiều. Trung
Qu ốc cố biến Việt Nam thành một thị trường tiêu thụ hàng hóa
chất lượng trung bình, thậm chí chất lượng kém của họ. Bởi vậy, cả một thời kỳ
dài Việt Nam nhập thép, xe máy... Trung
Qu ốc và giờ là nhập đồ điện, điện tử Trung Qu ốc. Ô tô Trung Qu ốc trước đây không vào
nổi Việt Nam nhưng một hai năm trở lại đây tăng mạnh. Trong 10 tháng qua, lượng
ô tô Việt Nam nhập khẩu nguyên chiếc từ Trung Qu ốc tăng 200% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nếu nhìn bề ngoài
chỉ thấy đấy là các doanh nghiệp Trung
Qu ốc rất giỏi kinh doanh nhưng thực chất ở đây có hẳn chủ
trương, chính sách của chính quyền Trung
Qu ốc. Dĩ nhiên các cơ quan chức năng Việt Nam không thể nào
chứng minh được vì làm việc với Trung
Qu ốc không bao giờ biết được văn bản của họ. Họ luôn bảo đó
là do địa phương, cơ sở làm, họ không biết.
Ô tô nguyên chiếc nhập từ |
Nói đi thì phải nói lại, bản thân doanh nghiệp Việt Nam ăn xổi ở thì, chỉ biết lợi ích trước mắt, không có chiến lược phát triển lâu dài, cho nên cứ thấy mua hàng
Đằng sau đó, các nhà quản lý Việt Nam gần như vô trách nhiệm,
bất lực, các bộ, ngành dù biết nhưng không hề có chủ trương, chính sách gì cụ
thể để ngăn chặn, thậm chí còn tiếp tay. Vấn đề nhập thiết bị đồng bộ Trung Qu ốc để làm các dự án cầu
đường, các dự án nhà máy nọ kia không có sự phê duyệt từ bên trên làm sao mà
vào được.
Khi dư luận căng thẳng, báo chí nói nhiều thì bao giờ cơ quan
quản lý Việt Nam đều có phản ứng bằng một chỉ thị hay một công văn và coi như
thế là hết trách nhiệm. Công văn có ý nghĩa gì đâu, có công văn đâu phải đã
xong chuyện? Vấn đề là tổ chức thực hiện thế nào, có chương trình, kế hoạch cụ
thể để ngăn chặn nhập khẩu những công nghệ lạc hậu.
Nhiều người cho rằng tiềm lực kinh tế Việt Nam còn yếu, không
có tiền, công nghệ kém nên buộc phải lựa chọn như thế. Đấy chỉ là cách nói mà
thôi, là cách để giải thích sự tham lam, tiêu cực của bộ máy. Đây là quan hệ
bắc-nam giữa 1 người giàu và 1 người nghèo. Nhưng người nghèo khi làm cái gì
cũng phải tính toán kỹ lưỡng để phát triển lên chứ không phải đi hót rác cho
người khác.
PV: - Nhiều chuyên gia đã chỉ rõ, cùng
với việc chuyển đầu tư dệt may, giày da từ Trung Qu ốc sang Việt Nam, đang có một làn sóng nhập
công nghệ rác thứ hai từ Trung
Qu ốc. Điều đó liệu có lý giải cho con số nhập siêu nói trên
hay không? Ông bình luận như thế nào về thực tế này?
PGS.TS Nguyễn Văn Nam: - Sự chuyển hướng này
không phải do Trung Qu ốc
mà là những nhà đầu tư nước ngoài như Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc... Trước
đây họ đầu tư vào các lĩnh vực dệt may, giày da ở Trung Qu ốc nhưng bây giờ lương
công nhân Trung Qu ốc
đã tăng cao lên còn Việt Nam vẫn rẻ hơn 1/3, 1/4 lần nên họ chuyển hướng sang
đầu tư vào Việt Nam.
Không chỉ vậy, các nhà đầu tư nước ngoài còn có được xuất xứ
của Việt Nam. Việt Nam sắp vào TPP, ký hiệp định với Liên minh Hải quan Nga,
Belarus, Kazakhstan, ký với EU hiệp định thương mại tự do... Hàng Việt Nam vào
các thị trường này sẽ được dỡ bỏ hàng rào thuế quan. Đấy là lý do các nhà đầu
tư nước ngoài chuyển hướng đầu tư từ Trung Qu ốc sang Việt Nam và đó là một xu hướng.
Đối với Trung
Qu ốc, họ không đầu tư thực sự vào Việt Nam. Họ biết được lợi
thế của xuất xứ thị trường Việt Nam nên lợi dụng làm những đầu tư ảo để dán
mác, dán nhãn Việt Nam vào hàng của họ để xuất đi Mỹ, EU... Cái này đã có từ
lâu, Mỹ, EU có một thời kỳ phản đối Việt Nam xuất hộ hàng cho Trung Qu ốc. Như vậy, Trung Qu ốc biến Việt Nam thành
một anh chuyên đi xuất khẩu hộ.
Một "lợi thế" khác của Việt Nam khiến các nhà đầu tư
nước ngoài chuyển hướng là môi trường quản lý của Việt Nam rất lỏng lẻo nên họ
làm được nhiều trò như trốn thuế, chuyển giá...
Những điều này rất nguy hiểm nhưng các nhà quản lý của Việt
Nam hầu như chưa có biện pháp xử lý nào rõ ràng, đúng mực để ngăn chặn ngoài
chuyện hô hào, nào là kiểm soát, nào là đừng bỏ trứng vào một giỏ. Doanh nghiệp
Việt Nam lại thiếu tầm nhìn, ham lợi ích trước mắt cứ lao vào để mà nhập.
PV: - Xét về lợi ích, Việt Nam đang là
đối tác "vàng" của Trung
Qu ốc khi đang có dự định nhập về những sản phẩm Trung Qu ốc muốn thải đi trong
quá trình tiến lên nền sản xuất phát triển hơn của họ. Tuy nhiên, trong mối
quan hệ với nền kinh tế này, Việt Nam dường như lại luôn chịu lép vế. Để
xảy ra tình trạng đó, lỗi là do phía doanh nghiệp Việt Nam hay từ phía nào,
thưa ông? Xin ông phân tích cụ thể về vấn đề này.
PGS.TS Nguyễn Văn Nam: - Đấy là lỗi của các
nhà quản lý Việt Nam và đây mới là yếu tố quan trọng. Doanh nghiệp Việt Nam dẫu
có thế nào, nếu quản lý nghiêm thì họ có dám làm không?
PV: - Trong khi đó, đứng từ góc độ của
Việt Nam, chỉ đi sau tiếp nhận công nghệ Trung Qu ốc, hiện Việt Nam đang bó tay với những đơn
hàng của các doanh nghiệp FDI lớn trên địa bàn, kết quả chỉ tham gia trong
chuỗi sản xuất với vai trò gia công (vụ việc Samsung, doanh nghiệp ôtô Nhật,
Hàn Quốc... đầu tư ở Thái Lan, Malaysia thay vì Việt Nam).
Điều này chứng tỏ năng lực sản xuất của Việt Nam đang ở
mức nào thưa ông? Liệu Việt Nam có thể hội nhập được khi cứ mãi phụ thuộc vào Trung Qu ốc như vậy?
PGS.TS Nguyễn Văn Nam: - Việt Nam cứ hô hào
công nghiệp hóa-hiện đại hóa nhưng làm lại rất ít hoặc không làm, không có
chính sách cụ thể gì. Ngay cả mấy khu công nghiệp hỗ trợ cứ hô thế nhưng đã làm
được khu nào ra hồn? Hay việc hô hào khi đầu tư ngoại vào phải đảm bảo tỉ lệ
nội địa hóa bao nhiêu phần trăm đến nay cũng bó tay. Như công nghiệp ô tô, lúc
đầu yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa 20, 30% nhưng thực chất chỉ làm được 7-8%.
Rõ ràng Việt Nam thiếu những chính sách cụ thể, thiết thực,
khả thi để triển khai, có tác dụng rõ ràng. Chính vì vậy mà năng lực công
nghiệp của Việt Nam không tăng lên được. Những sản phẩm làm được đều phụ thuộc
vào đầu tư nước ngoài, còn trong nước chỉ là gia công, lắp ráp, từ ô tô đến dệt
may, giày da, điện tử...
Do Việt Nam không có một chính sách nuôi dưỡng những công ty
lớn chuyên sâu những lĩnh vực ấy, mà công ty Việt Nam hễ có tý tiền là bỏ tiền
vào ngân hàng, đầu tư bất động sản tức đầu tư ngoài ngành, gọi là đa dạng hóa
nhưng nghề của mình thì không nâng cao được.
Việt Nam cứ nói hội nhập nhưng hội nhập này mang lại lợi ích
rất ít là vì tác động lan tỏa của đầu tư nước ngoài đối với công nghiệp Việt
Nam rất thấp. Chưa nói công nghệ cao, khó như công nghiệp ô tô, điện thoại di
động, những cái đơn giản nhất như dệt may thôi, Việt Nam cũng không tiến được
bao nhiêu dù đã bao nhiêu năm đổi mới. Cái kém cỏi ở đây không phải từ doanh
nghiệp mà từ chính sách nhà nước, từ quản lý nhà nước.
Bởi vậy, nếu hội nhập Việt Nam cũng chỉ là anh cửu vạn, kẻ bị
bóc lột lao động chứ chẳng làm gì hơn được, chất xám ở Việt Nam cứ tiếp tục
chảy máu bởi trong nước có dùng gì đến chất xám đâu, chỉ dùng lao động chân tay
mà thôi. Việt Nam sẽ ngày càng kém cỏi đi, còn tăng trưởng chỉ tí ti, chủ yếu
phụ thuộc vào đầu tư công.
PV: - Cũng ý kiến trên cho rằng, Việt Nam
dù đặt quyết tâm vẫn khó thoát khỏi việc nhập công nghệ lạc hậu bởi lẽ: về giá
bán, Trung Qu ốc
sẵn sàng bán giá siêu rẻ; về yêu cầu kỹ thuật để vận hành, công nghệ Trung Qu ốc rất dễ tính, phù hợp
với trình độ nhân lực thấp như Việt Nam. Nếu đồng tình với quan điểm trên, liệu
có thể hiểu, việc "thoát Trung" phải dựa vào nội lực của bản thân nền
kinh tế mà điều này đang thiếu ở Việt Nam?
PGS.TS Nguyễn Văn Nam: - Trung Qu ốc bán rẻ là một chuyện,
họ còn sẵn sàng đút lót. Cái "chết" của Việt Nam là biết thua lỗ vẫn
cứ ngậm tăm mà làm vì đó là tiền chùa, tiền nhà nước, còn tiền 'hoa hồng' thì
đút túi riêng.
Nước nào cũng phải dựa vào nội lực kinh tế để đi lên nhưng
phải có chính sách cụ thể, sát sao. Vấn đề của Việt Nam là biết như thế nhưng
không có một chính sách cụ thể nào, chỉ hô khẩu hiệu. Nước khác chỉ mất 10 năm
là bứt lên được, còn Việt Nam 30 năm vẫn chưa thể bứt lên được.
PV: - Xin cảm ơn ông về
cuộc trao đổi!