Xã luận Tự do Ngôn luận số 211
(15-01-2015)
Hôm
14-1, sứ quán Việt cộng bên Tàu đã tổ chức họp báo về việc kỷ niệm 65 năm thiết
lập quan hệ ngoại giao Việt–Trung (18/1/1950-18/1/2015). Theo đại sứ Nguyễn Văn
Thơ, đây là dịp quan trọng để hai nước nâng cao hơn nữa mối “quan hệ hữu nghị
truyền thống” và “hợp tác chiến lược toàn diện”. Lý do:
Trung Quốc vừa là láng giềng lớn, vừa là nước cùng chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam!
Trung Quốc vừa là láng giềng lớn, vừa là nước cùng chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam!
Phản
ảnh Cam
kết hợp tác toàn diện tháng 2-2011, Nguyễn Văn Thơ nói: “Đảng, Chính phủ và nhân dân VN trước sau như
một luôn xem trọng việc phát triển quan hệ mọi mặt với Trung Quốc, coi đây là
một trong những ưu tiên hàng đầu, nhất quán và lâu dài trong chính sách đối
ngoại của VN”.
Đại diện Hà Nội nêu rõ: hai nước cần (1) tăng cường các cuộc tiếp xúc, thăm viếng cấp cao cũng như giao lưu giữa các bộ ngành và địa phương, đặc biệt thế hệ trẻ, nhằm củng cố niềm tin chính trị và niềm tin chiến lược; (2) tiếp tục thúc đẩy hợp tác kinh tế thương mại, sớm thành lập hai nhóm công tác về cơ sở hạ tầng và tiền tệ; (3) tiếp tục giải quyết vấn đề Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng lợi ích song phương và luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); (4)
tăng cường tuyên truyền về tình hữu nghị, sự hiểu biết và mối quan hệ giữa hai dân tộc, nhất là cho giới trẻ”. (Theo Thông tấn xã VN 14-01-2015). Thiệt là trong lịch sử bang giao giữa các quốc gia và dân tộc tự cổ chí kim, từ đông sang tây, nhất là trong mấy ngàn năm Việt sử, chưa hề có mối quan hệ thắm thiết, sâu sắc, toàn diện như vậy!?!
Đại diện Hà Nội nêu rõ: hai nước cần (1) tăng cường các cuộc tiếp xúc, thăm viếng cấp cao cũng như giao lưu giữa các bộ ngành và địa phương, đặc biệt thế hệ trẻ, nhằm củng cố niềm tin chính trị và niềm tin chiến lược; (2) tiếp tục thúc đẩy hợp tác kinh tế thương mại, sớm thành lập hai nhóm công tác về cơ sở hạ tầng và tiền tệ; (3) tiếp tục giải quyết vấn đề Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng lợi ích song phương và luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); (4)
tăng cường tuyên truyền về tình hữu nghị, sự hiểu biết và mối quan hệ giữa hai dân tộc, nhất là cho giới trẻ”. (Theo Thông tấn xã VN 14-01-2015). Thiệt là trong lịch sử bang giao giữa các quốc gia và dân tộc tự cổ chí kim, từ đông sang tây, nhất là trong mấy ngàn năm Việt sử, chưa hề có mối quan hệ thắm thiết, sâu sắc, toàn diện như vậy!?!
Để
chuẩn bị cho tinh thần này, ngày 27-12-2014, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ/VN
-Nguyễn Thiện Nhân- và Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Hội nghị Hiệp thương chính trị
TQ -Du Chính Thanh- đã cùng khai trương "Học viện Khổng Tử", một cơ
quan tuyên truyền cho Tàu cộng. Sau đó, tại “hội nghị của Chính phủ với địa phương triển khai Nghị quyết
của Quốc hội về nhiệm vụ kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm
2015” ngày 29-12, bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh đã khẳng định: “Tôi
thấy lo lắng lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ con đến người già
có xu thế ghét Trung Quốc. Ai nói tích cực cho Trung Quốc là ngại. Tôi cho
rằng, cái đó là nguy hiểm cho dân tộc”.
Nhân
kỷ niệm 65 năm bang giao Trung-Việt, hãy thử nhìn lại mối quan hệ giữa hai lân
bang này, mà đúng hơn là giữa hai cộng đảng. Một mối quan hệ luôn thể hiện
trong ý đồ xâm lăng, kiểu cách “cá lớn nuốt cá bé” như từng chứng kiến trong
lịch sử các quốc gia CS: Nga đối với các tiểu quốc Liên bang Xô viết, Liên Xô
đối với các nước Đông Âu, và Tàu cộng đối với các nước châu Á cộng sản.
Ngày 13-1-1950, Bộ trưởng Ngoại giao VN, Hoàng
Minh Giám, rồi ngày 18-1-1950, Bộ trưởng Ngoại giao TQ, Chu Ân Lai thay mặt
chính phủ hai nước gửi công hàm công nhận lẫn nhau và đề nghị thiết lập quan
hệ, từ đó ngày 18-1 được coi là ngày kỷ niệm chung. Nhưng cũng chính từ hôm này,
mộng xâm lăng bành trướng muôn thuở của Đại Hán “tiến lên một tầm cao mới”. Lợi
dụng sự viện trợ quân sự to lớn để giúp Hà Nội đánh Pháp rồi đánh Mỹ, mà thực
chất là đánh phe quốc gia và chế độ tư bản, lợi dụng lòng tin tưởng mù quáng
của Hồ Chí Minh và đảng Việt cộng vào tình đồng chí vô sản (hay là niềm tín
thác sáng suốt của tên Tàu đội lốt Việt Hồ Tập Chương), lợi dụng sự ngu dốt về
lịch sử chống giặc của tiền nhân và sự coi thường khí phách kháng Tàu của dân
tộc, Mao Trạch Đông đã phá vỡ Ải Nam Quan, tiền đồn chốt chặn ngàn đời của nước
Việt để không những đem lực lượng quân sự mà cả lực lượng chính trị, kinh tế,
văn hóa ngõ hầu xâm lược Việt Nam, biến nó lại thành An Nam, và xa hơn là thành
tỉnh Âu Lạc.
Bước
xâm lược đầu tiên thể hiện qua cuộc Cải cách ruộng đất tiến hành theo đường lối
Tàu và dưới sự chỉ đạo của Tàu, vừa nhằm tước đoạt đất đai cho cộng đảng, vừa
nhằm phá vỡ cơ cấu xã hội và đạo đức dân tộc, vừa nhắm làm kiệt quệ kinh tế của
Hà Nội để phải nhận sự viện trợ của Bắc Kinh trong cuộc chiến mở xuống phía Nam
chủ nghĩa CS. Tiếp đến là thể hiện qua cuộc Trăm hoa đua nở theo tinh thần
“Bách gia tranh minh” của Trung Nam Hải, vừa nhằm mục đích cải biến trí thức
thành “cục phân” (vì mù quáng thần phục đảng) vừa nhằm mục đích tiêu diệt văn
hóa Việt để văn hóa Tàu dễ tràn vào.
Cuộc
thống trị kiểu “cá lớn nuốt cá bé” tiến thêm một bước với công hàm Phạm Văn
Đồng năm 1958 nhằm tước bỏ chủ quyền nước Việt trên Hoàng Sa lẫn Trường Sa để
giao cho kẻ ngoại thù mà cả mấy ngàn năm, biên giới phía Nam chỉ đến Hải Nam
đảo. Giao cho chúng ngõ hầu được chúng viện trợ quân trang, quân dụng và cả
quân đội để tàn phá chính đất nước của Tổ tiên (“dẫu đốt cả dãy Trường Sơn” như
HCM từng nói), tàn sát chính đồng bào cùng huyết tộc (“đánh Mỹ cho tới người
Việt cuối cùng vì Trung Quốc” như Lê Duẩn từng khẳng định). Cuộc chiến tranh
tương tàn càng kéo dài bao lâu thì cuộc xâm lăng của Trung Nam Hải càng tiến
sâu chừng ấy.
Đến
năm 1974, khi Tàu cộng ngang nhiên xâm chiếm Hoàng Sa của đất nước, phá vỡ cuộc
kháng cự anh dũng của VNCH, vào chính ngày kỷ niệm bang giao Trung-Việt
(18-01), thì như để đánh dấu tình hữu nghị răng môi, tình đồng chí vô sản, Hà
Nội hí hửng tuyên bố: “Thà để Hoàng Sa thuộc Trung Quốc hơn là thuộc Ngụy
Sài Gòn. Bạn giữ cho ta rồi có ngày sẽ trao lại”?!? Xâm lăng VNCH xong, Hà
Nội bắt đầu bị Bắc Kinh đòi nợ chiến phí. Khốn nạn một điều là Trung Nam Hải
không đòi tiền (mà có đòi thì Ba Đình chẳng biết lấy đâu đủ để trả) cho bằng
đòi dâng đất, một điều mà vua chúa Việt chưa từng làm trong lịch sử, thậm chí
còn cấm đoán với lời răn đe tru di tam tộc (Trần Nhân Tông). Nhưng Việt cộng
thì cần gì biết tinh thần lẫn giáo huấn đó, nên năm 1988, lúc Tàu cộng chiếm
thêm Gạc Ma thuộc Trường Sa quần đảo, chính tên bộ trưởng quốc phòng thân Tàu
là Lê Đức Anh đã cấm binh sĩ kháng cự, coi chúng như kẻ thù, thậm chí Bộ Chính
trị sau đó còn cấm loan tin (rồi sẽ nhiều lần cấm tưởng niệm), khiến cho 64
chiến sĩ hải quân mãi mãi là những oan hồn tức tưởi vì bị hy sinh cho thứ tình
hữu nghị không ai hiểu nổi!
Sau
khi mất chỗ dựa vật chất và tinh thần từ anh cả Liên Xô và khối Đông Âu cộng
sản, Hà Nội lại chạy sang Bắc Kinh mà mình từng coi là kẻ thù kể từ cuộc chiến
biên giới 1979, để khấu đầu tạ tội, tái nhận giặc làm cha, xin nối lại mối bang
giao, tình hữu nghị (1990). Thế là Tàu cộng lợi dụng cơ hội để biến quan hệ
đồng chí anh em thành quan hệ chủ tớ, đại quốc chư hầu. Tại Hội nghị Thành Đô,
các tên cáo già Giang Trạch Dân và Lý Bằng đã ra oai trước những chú cừu non Đỗ
Mười, Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng và biến ba tên này thành đám đồng lõa, tay
sai cho cuộc xâm lấn ngày càng sâu rộng, tặng cho Hà Nội vòng kim cô 16 chữ
vàng ngày càng siết chặt đầu dân Việt và bảng mật ước ghê gớm ngày càng ngoạm
dần đất Việt (xem dưới).
Và đó
là Hiệp ước phân định biên giới năm 1999 nuốt trọn Ải Nam Quan, 2/3 thác Bản
Giốc, gần 1000 km2 đất liền; Hiệp ước phân định lãnh hải năm 2000 triều cống
cho Tàu trên dưới 10.000 km2 vịnh Bắc bộ; Tuyên bố Việt-Trung năm 2001 rồi 2008 (do Nông
Đức Mạnh) cho Tàu cộng vào yếu huyệt Tây Nguyên di dân, ém quân, cấy người qua
vỏ bọc khai thác bauxite. Tuyên bố tai hại này được Nguyễn Tấn Dũng biến thành
hiện thực qua Quyết định số 167 ngày 01-11-2007, cho phép các nhà thầu TQ thực
hiện dự án kéo dài từ 2007 đến 2025. Và đó là việc để cho thường dân Tàu đi vào
VN sinh sống, lập làng xã, xây phố thị từ Nam chí Bắc; để cho thương lái Tàu đi
vào VN lường gạt nông dân, phá hoại nông nghiệp khắp nơi mọi chốn; cho chuyên
gia Tàu đi vào VN trúng thầu đến 90% các công trình xây dựng cơ bản (đường,
điện); cho doanh nhân Tàu thao túng nền kinh tế tụt hậu và giết chết các công
ty xí nghiệp èo uột của dân Việt.
Trên
mặt chính trị và văn hóa, Tàu cộng không ngừng khống chế Việt cộng, lèo lái Bộ
chính trị, xâm nhập Trung ương đảng để thảo ra Cam kết hợp tác toàn diện tháng
2-2011; đẻ ra nhiều kế hoạch làm lợi kẻ thù như cho Tàu cộng thuê mấy trăm ngàn
hecta rừng quốc phòng, nhiều vị trí chiến lược như Vũng Áng, Cửa Việt, Hải Vân,
Cam Ranh; tạo ra nhiều nội ứng cho giặc như phó thủ tướng gốc Tàu Hoàng Trung
Hải; tung ra những đòn tàn bạo trấn áp các cuộc xuống đường chống Tàu, những
đòn bắt bớ kết tội các công dân lên tiếng tố Tàu; soạn ra những sách vở, tài
liệu làm nhân dân quên đi hiểm họa Tàu trong quá khứ lẫn hiện tại; và gần đây
nhất là lập ra viện Khổng Tử (đang lúc trên thế giới ngày càng xóa sổ nó) để
tuyên truyền cho chính sách Tàu.
Để
kết luận về những gì được mất sau 65 năm bang giao Trung-Việt, tưởng không có
gì hơn là nhắc đến bài viết mới đây của đại tá Phạm Quế Dương, "VN sẽ là Quốc gia tự trị hay là một tỉnh của
TQ?”. Trong bài này, vị sĩ quan phản tỉnh viết: theo tài liệu được tiết lộ bởi
Thiếu tướng Hà Thành Châu, Chính ủy Tổng cục công nghiệp Quốc phòng, tỵ nạn
chính trị tại Hoa Kỳ từ ngày 08-4-2013, phải chăng tại cuộc họp tại Thành Đô
năm 1990, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã khấu đầu trước Đặng Tiểu Bình: “Nhờ
TQ mà Đảng CSVN mới nắm được chính quyền, mới thắng được đế quốc Pháp và đế
quốc Mỹ, diệt được bọn tư bản phản động. Công ơn TQ to lắm, bốn biển gộp lại
cũng không bằng. Do thế, nhà nước VN đề nghị TQ bỏ qua hiểu lầm, xóa bỏ các bất
đồng đã qua. Phía VN sẽ làm hết sức mình để vun bồi tình hữu nghị lâu đời vốn
sẵn có giữa hai đảng do Mao Chủ Tịch và Hồ Chủ tịch dày công xây dựng trong quá
khứ. VN sẽ tuân thủ đề nghị của TQ là cho VN được hưởng “Quy chế tự trị trực
thuộc chính quyền trung ương Bắc Kinh” như TQ từng dành cho Nội Mông, Tây
Tạng,Tân Cương, Quảng Tây”. Phải chăng có kế hoạch sáp nhập VN vào TQ dự
kiến qua ba giai đoạn : Giai đoạn 1: 15-7-2020: Quốc gia tự trị; Giai đoạn 2:
05-7-2040: Quốc gia thuộc trị; Giai đoạn 3: 05-7-2060: Tỉnh Âu Lạc.
Phải
chăng đó sẽ là thành quả bang giao Trung-Việt được làm nên bởi những kẻ cũng da
vàng máu đỏ, cũng con Hồng cháu Lạc, nhưng chưa bao giờ có ý thức quốc gia, tự
hào dân tộc và tình nghĩa đồng bào? Hỡi quốc dân đất Việt, còn đợi gì nữa?
BAN
BIÊN TẬP