NGUYỄN THƯỢNG LONG.
“Có thể nói, trong lịch sử Việt Nam cận đại, năm 1945 là năm hội tụ những bước ngoặt, những biến cố trọng đại nhất liên quan đến số phận của cả dân tộc. Từ thời điểm đó… đất nước đi vào chính đạo văn minh hay là tự lạc vào mê lộ của thứ chính trị chỉ đem đến những đọa đầy xa lạ với phẩm chất và truyền thống giống nòi? Câu hỏi đó đến nay đã quá đủ dữ liệu để trả lời”.
THÁNG 8 – 1945… BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
ĐẦU TIÊN & SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẾ QUỐC VIỆT NAM.
Có quá nhiều người Việt Nam hôm nay không hề biết rằng, 5 tháng trước ngày ông Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại quảng trường Ba Đình 2 – 9 - 1945, thì đất nước đau khổ của chúng ta đã có bản Tuyên Ngôn độc lập đầu tiên với thế giới rồi. Đó là bản Tuyên Ngôn của Hoàng Đế Bảo Đại sau khi nhà vua tuyên hủy Hiệp Ước Patenotre, Bảo Đại đã chuẩn y để các Thượng
Thư lục bộ đồng loạt xin từ chức…là các ông:
- Phạm Quỳnh … Thượng Thư bộ Lại.
- Hồ Đắc Khải …Thượng thư bộ Hộ.
- Nguyễn Phúc Ưng Úy…Thượng thư bộ Lễ.
- Bùi Bằng Đoàn…Thượng thư bộ Hình
- Trần Thanh Đạt…Thượng thư bộ Học.
- Trương Như Đính…Thượng thư bộ Công.
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầu tiên cũng được chính các vị này chấp bút, và tại điện Kiến Trung – Huế ngày 11/3/1945 trước đông đủ các quần thần, Hoàng Đế Bảo Đại ban chiếu chỉ có dấu ấn tín son và chữ ký của cả 6 vị trong Cơ Mật Viện. Chiếu chỉ này chính là lời khẳng định nền độc lập của Đế Quốc Việt Nam với những nội dung cơ bản sau:
“Cứ tình hình chung trong thiên hạ, tình thế riêng cõi Đông Á, chính phủ Việt Nam tuyên bố từ ngày này Hòa Ước bảo hộ với nước Pháp bị bãi bỏ và nước Nam khôi phục quyền độc Lập”
“Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho sự thịnh vượng chung”
“Vậy chính phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên – Khâm thử”
Người đời nay dễ dị ứng và thắc mắc là sao tên nước ngày đó lại phản cảm như thế? Khi kho tàng tiếng Việt chưa xuất hiện cụm từ “Quân Chủ Lập Hiến” thì “Đế Quốc Việt Nam” chỉ thuần túy là cách gọi tên của một quốc gia lập hiến có sự hiện diện của ngôi vua, tương tự như Thái Lan, Ấn Độ, Anh Quốc, Hà Lan, Úc…. hoàn toàn không có nghĩa xấu như tên gọi Đế Quốc Mĩ sau này. Đế Quốc Việt Nam là quốc hiệu đầu tiên của Việt Nam độc lập với ngày quốc khánh là ngày 11 – 3 – 1945.
Chính phủ đầu tiên của Đế Quốc Việt Nam do học giả Trần Trọng Kim đứng ra tạo dựng. Chính phủ này quy tụ 100% là trí thức ở bậc thượng thặng lúc đó, đã chọn Thủ đô là Phú Xuân,
Quốc kỳ là lá cờ Quẻ Ly, Quốc ca là bài Đăng Đàn Cung với lời lẽ nhân ái, bình dị, không có mùi máu người, thây người cùng sự thôi thúc khói lửa binh đao như bài Tiến Quân Ca của Văn Cao mà những người cộng sản Việt Nam trong kỳ họp quốc hội khóa I - 1946 đã chọn.
Đây là lời ca của Đăng Đàn Cung:
“Kìa núi vàng bể bạc
Có sách trời …sách trời định phần!
Một dòng ta – gầy non sông vững chắc.
Đã ba ngàn mấy trăm năm!
Bắc Nam cùng một nhà con Hồng cháu Lạc.
Văn minh đào tạo
Mầu gấm hoa càng đượm
Rạng vẻ dòng giống Tiên Long.
Ấy công gầy dựng
Từ xưa đà khó nhọc
Nhớ ơn dày nặng
Lòng trung quân đã sẵn
Cố thương nhau …thương nhau một niềm.
Nguyện nhà Việt Nam muôn đời thạnh trị.”
Ngôn ngữ chính thống của Đế Quốc Việt Nam là tiếng Việt, Hoàng Đế là Bảo Đại, Tổng Lý (Thủ Tướng) là Trần Trọng Kim (1883 – 1953)…
Vì nhiều lý do tế nhị, trong đó có lý do để tránh cho dân tộc khỏi bị cuốn vào cơn lốc của thế chiến II đang ở giai đoạn tàn lụi mà nội các Trần Trọng Kim không thành lập Bộ Quốc Phòng, mọi lo toan bảo vệ chủ quyền lãnh thổ vẫn phải nhờ quân đội Nhật. Về vấn đề này, giáo sư Lê Xuân Khoa viết:
“ Chính phủ Trần Trọng Kim mang tiếng là thân Nhật, nhưng thật ra chỉ là lợi dụng cơ hội Nhật đảo chính Pháp để nắm lấy quyền cai trị, nhằm dần dần phục hồi độc lập hoàn toàn cho dân tộc. Đó là phương cách thực tế và khôn ngoan nhất mà bất cứ một chính trị gia sáng suốt nào, kể cả Hồ Chí Minh cũng sẽ chọn lựa vào lúc đó”.
Đế Quốc Việt Nam ra đời và chỉ tồn tại được trong 5 tháng, từ tháng 3 – 1945 đến 8 – 1945. Tháng 8 – 1945 trong biến cố cướp chính quyền do Việt Minh phát động, nội các của Thủ tướng Trần Trọng Kim không chủ trương bạo động, không hề muốn có việc chém giết người Việt, ông Kim đã thẳng thừng từ chối lời gợi ý của tư lệnh quân đội Nhật ở Đông Dương rằng, nếu ông Kim muốn, quân đội Thiên Hoàng lúc đó tuy đã thất thế trước đồng minh, họ vẫn dư sức giúp tiêu diệt sạch lực lượng Việt Minh lúc đó còn rất yếu. Quá tin những người cộng sản núp bóng Việt Minh sẽ đặt tổ quốc lên trên hết, dân tộc lên trên hết, Thủ Tướng Trần Trọng Kim cùng các thành viên chính phủ chủ động trao chính quyền cho Việt Minh trong ngày 23 – 8 – 1945 mà không hề có bất cứ một hành động quân sự chống đối nào.
Rất tiếc vị Thủ Tướng đầu tiên của chính phủ quân chủ lập hiến đầu tiên của Việt Nam không hề biết thế giới quan của người cộng sản lại là cộng sản Việt Nam là “Mục Hạ Vô Nhân”, tức là chỉ có ĐCS là đỉnh cao trí tuệ, là trên hết …nên kể cả khi chưa cướp được chính quyền họ đã hoàn toàn phủ nhận sự hiện diện của Đế Quốc Việt Nam. Trong con mắt của Việt Minh thì chính phủ Trần Trọng Kim là một chính phủ chẳng ra gì. Theo họ vua Bảo Đại chỉ là kẻ đàng điếm, ăn chơi vô tích sự, chính thể do ông ta tạo ra vẫn phải dựa vào Nhật Bản để tồn tại …thì đó chỉ là một chính phủ bù nhìn không thể công nhận và theo họ, chính quyền Việt Nam phải dựa trên liên minh công - nông sau này được gắn thêm cái đuôi kệch cỡm “Của Dân – Do Dân – Vì Dân” đầy huyễn hoặc. Nền học vấn của thế hệ chúng tôi vẫn đinh ninh điều đó là đúng, rằng Tuyên Ngôn độc lập ngày 2 – 9 – 1945 của ông Hồ Chí Minh tại quảng trường Ba Đình mới là number one. Thứ chính trị áp đặt vô lối đó có tôn trọng sự thật lịch sử không? Câu trả lời là: KHÔNG!
Khi thế giới là thế giới phẳng, nhờ sự bùng nổ thông tin mà nhiều giá trị tưởng rằng bất biến đã thi nhau lung lay và đổ xụp. Người đời đã biết đến một thứ gọi là “Chính Trị” xác lập trên những trí trá, lèo lái, áp đặt, hết sức chủ quan của kẻ cầm quyền. Kiểu như hôm nay lãnh đạo Việt Nam nói: “Khai thác Bauxite ở Tây Nguyên là chủ trương lớn của Đảng”, lãnh đạo Hà Nội nói: “Thay thế cây xanh là để môi trường sống Hà Nội ngày một tốt lên!”, hay như lãnh đạo Sơn La mới nói: “Xây tượng đài Bác Hồ là nguyện vọng của các dân tộc Sơn La”. Thực chất không như vậy. Đây chỉ là những cuộc làm ăn trên lưng người lao động của đám quan tham đủ cấp bậc ngang nhiên diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật mà thôi.
Nhiều thập kỷ đã trôi qua, giờ đây nói nội các Trần Trọng Kim là nội các thân Nhật thì vẫn đúng, còn nói nội các Trần Trọng Kim chỉ là bù nhìn của Nhật Bản thì có quá chủ quan không, khi chỉ trong 126 ngày tồn tại (Từ 17 – 4 – 1945 đến 23 – 8 – 1945) họ đã làm được cả một núi công việc có lợi cho quốc kế dân sinh như:
- Thả tù chính trị.
- Thành lập tổ chức Thanh Niên Tiền Tuyến.
- Thu hồi Nam Kỳ.
- Cải cách hành chính
- Sơ thảo hiến pháp
- Thay thế các ảnh hưởng của Pháp
- Đưa quốc ngữ vào vị trí ngôn ngữ chính
- Cứu đói
Vậy mà ông Kim vẫn sòng phẳng và ngang ngửa trước Tổng Tư Lệnh quân đội Nhật ở Đông Dương Tsuchihashi đến như thế này…:
“Quân đội nhật đã đánh quân đội Pháp và công nhiên hứa hẹn trả quyền tự chủ cho nước Việt Nam. Bởi vậy tôi không quản tuổi già và sự khó khăn của hoàn cảnh mà đứng ra lập chính phủ. Tôi làm việc một lòng giúp nước tôi, cũng như các ông lo việc giúp nước Nhật…Nếu các ông cho tôi là người làm việc cho nước Nhật, việc đó không phải là phận sự của tôi. Tôi sẵn sàng xin lui” (Lệ Thần Trần Trọng Kim).
Tôi nghĩ rằng nếu như chính trường Việt Nam ngay từ những ngày tháng 8 – 1945 trở đi được vận hành bởi những những tập thể có những dự án chính trị trong sáng, những chính khách lương thiện đủ tâm đức và tài năng lèo lái dân tộc tránh được 2 cuộc đổ máu 1945 – 1954 và 1955 - 1975 khủng khiếp nhất trong lịch sử 4000 năm mà vẫn đi đến được độc lập như hơn 40 nước cùng cảnh ngộ thuộc địa thì đến nay, nếu Việt Nam không ngang phân với Nhật Bản thì cũng không phải tủi phận ở vị trí đội sổ Asean đang bị Lào và Campuchia qua mặt và bị kẻ cuồng bạo phương Bắc không ngừng cưỡng bức như hiện nay. Rất tiếc nền chính trị của Việt Nam sau những ngày 8 – 1945 đã không đi vào những chính đạo dẫn đến những rạng rỡ, lại lạc bước trên những mê lộ vòng vèo chỉ dẫn đến những trớ trêu, chia rẽ, những bế tắc nhuốm mầu đọa đầy vẫn do ngoại bang chi phối. Có thể nói, Chính khách Việt Nam từ 8 – 1945 trở đi…họ thực sự chỉ làm nhiệm vụ của những quân cờ trên bàn cờ của các siêu cường.