Nguyễn Đình
Cống
Nguyễn Đình Cống |
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Xã hội VN
hiện nay có quá nhiều tệ nạn trầm trọng
. Để phát triển đất nước thì một trong
những nhiệm vụ quan trọng là tìm cho đúng nguyên nhân gốc của tệ nạn để khắc
phục.
Trước tiên
xin nêu vài hiểu biết về phạm trù nguyên nhân – kết quả : Trong một quá trình
(QT) nguyên nhân ( NN ) có trước và tạo
ra kết quả (KQ) . Xét các QT liên tiếp
nhau, KQ của QT trước là NN của QT sau.
Có KQ Ao là do NN A1, có
A1 là do A2, có A2 là do A3… Cứ truy
như vậy trở về trước sẽ tìm ra một dãy các Ai kế tiếp và nếu cứ truy mãi thì đến lúc bí
và phải công nhận là “ tại Trời sinh ra thế” ( Ngẫm hay muôn sự tại Trời-
Truyện Kiều ). Chỉ có thể truy đến một nguyên nhân Ar nào đó thấy là vừa đủ để xem xét thì tạm dừng lại. Như vậy A1 là NN trực tiếp còn Ar được xem là NN gốc . Một NN có thể gây ra
nhiều KQ khác nhau và một KQ cũng có thể do nhiều NN đồng thời gây nên.
Tìm NN là để biết ,
quan trọng hơn là để xử lý. Với KQ
tốt thì tìm cách tăng cường , với KQ xấu
thì tìm cách hạn chế hoặc xóa bỏ.
Nguyên nhân trực tiếp, cụ thể thì dễ tìm, còn NN gốc thì khó tìm hơn vì
nó thường ở dạng ẩn dấu.
Về các tệ nạn
của xã hội VN hiện nay đã có một
số người nghiên cứu tìm NN và đưa ra kết
luận là : “có không ít cán bộ, đảng viên các cấp, các ngành thoái hóa , biến
chất”. Tôi nghĩ, đó chỉ mới là NN trực
tiếp chứ chưa phải là NN gốc . Biết NN trực tiếp là cần nhưng chưa đủ, vì biết
là để sửa chữa, nhưng khi mới biết NN trực tiếp thì chỉ mới chữa ở ngọn chứ không chữa được từ gốc. Mà như vậy
thì chữa được chỗ này nó sẽ phát ra ở chỗ khác, mạnh hơn, rộng hơn. Phải tìm ra
NN gốc thì mới hy vọng chữa được cơ bản.
Theo Duy thức luận của Phật giáo thì một nguyên
nhân chưa thể tạo ra kết quả mà còn phải
kết hợp với “duyên”. Thí dụ : 1- Để có bông lúa thì nhân
là gieo hạt thóc giống ( gieo cây nào
gặt cây ấy ) còn duyên là điều kiện thuận lợi cho cây lúa phát triển, trổ bông, kết hạt.
2- Để xẩy ra đám cháy thì ngoài nhân là nguồn làm phát sinh ra lửa, còn phải
có vật liệu bắt lửa để cháy, là duyên.
3- Để xẩy ra một vụ trộm thì nhân
là kẻ trộm , còn duyên
là sự sơ suất của người có tài sản. Theo một cách giải thích khác thì không
phải chỉ có một mà ít nhất có hai yếu
tố, kết hợp với nhau, một trong số đó là nhân còn cái kia là duyên. Nhân và
duyên có thể đổi chỗ cho nhau. Trong thí dụ trên có thể xem nhân là vật cháy
được còn duyên là ngọn lửa, nhân là sự sơ suất và duyên là tên trộm. Nhân và duyên đều có trực tiếp và gốc rễ.
Về các tệ nạn của xã hội VN , tôi đồng ý với nhiều nhà
nghiên cứu và phân tich, NN gốc là từ nền văn hóa còn mang nặng tàn dư phong
kiến, nô lệ ( dân trí thấp, dân khí yếu, tư lợi, tham lam, dối trá, đểu cáng…). Tôi xin bổ sung một yếu tố khác, hoặc theo duy thức luận là
nêu ra cái “ duyên”. Đó là những phần độc hại của chủ nghĩa Mác-Lênin ( CNML ).
Tôi không qui kết toàn bộ CNML là độc hại mà chỉ nêu những phần độc hại trong
ấy. Đó là đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản, là công hữu hóa, tập thể hóa
tư liệu sản xuất, là tuyên truyền sự tốt đẹp của CNCS. Tôi cho rằng việc nêu NN
của các tệ nạn tại VN là do một số không ít cán bộ thoái hóa biến chất
là không sai nhưng chỉ nói ra chuyện mọi người đã biết rõ, thể hiện sự
nhận thức nông cạn hoặc sự cố tình bưng bít NN cơ bản. Thử hỏi, với một tổ chức
chặt chẽ như ĐCSVN , tại cuộc bầu cử ở
bất kỳ cấp nào, vào bất kỳ lúc nào cũng đều nêu cao khẩu hiệu sáng suốt lựa chọn
người xứng đáng, với một thể chế chặt chẽ lựa chọn công chức nhà nước với tiêu chuẩn cao, rõ ràng và thi tuyển hẳn
hoi thế thì cái bọn thoái hóa biến chất
ở đâu chui ra, lọt vào từ ngõ ngách nào,
mà sao lại nhiều thế và tại sao thấy rõ chúng nó rồi mà về cơ bản chẳng làm
gì được, không những thế càng chống thì càng phát triển. À, thì ra có cơ chế sinh ra bọn ấy, bảo vệ cho
bọn ấy, đó là sự độc quyền của nền chuyên chính vô sản mà chủ yếu là độc quyền
của một số người giữ cương vị cao trong đảng nấp dưới chiêu bài tập trung dân
chủ, đó là sự toàn trị của ĐCS, đó là việc bầu cử và thi tuyển chỉ là hình thức
còn thực chất được điều khiển bởi thế lực chính trị và đồng tiền.
Những tệ nạn hiện nay, dù ở lĩnh vực nào, cấp độ nào thì
phần lớn có thể quy về phạm trù đạo đức.
Phạm trù này dựa vào 2 trụ cột chính là
lực lượng quản lý xã hội và truyền thống văn hóa , trong đó lực lượng
quản lý đóng vai trò rất quan trọng vì nắm quyền lực. Tôi biết một câu
như sau : “ Muốn biết
đạo đức thật sự của một người hãy cho họ quyền lực và xem họ sử dụng quyền đó
như thế nào”. Suy rộng ra : “ Muốn biết đạo đức của một đảng chính trị hãy xem
cách họ hành động lúc đã nắm chắc chính quyền, cách họ sử dụng sức mạnh của
quyền lực như thế nào” ( chứ không phải nhìn vào lúc họ đang cần vận động người khác ủng hộ để giành
hoặc cướp chính quyền ).
Theo Duy thức
luận có thể biểu diễn : Đạo đức XH = KQ [
Quản lý xã hội (QL) + nền văn hóa (VH) ]. Ở đây dùng dấu = , dấu + không phải là phép toán số học mà gần giống
như là
“ phép hội” trong lôgic mờ. Trong phép hội lôgic thì hai thành tố là độc lập,
nhưng trong xã hội thì QL và VH không
hoàn toàn độc lập mà có ảnh hưởng qua lại . Một thí dụ là ĐCSVN đã có nghị quyết về xây dựng và phát triển văn hóa ( NQ 9 khóa IX. Tôi chỉ nói là có NQ về văn hóa
chứ chưa bàn đến những chỗ đúng-sai, hay-dở của NQ đó ).
Tìm hiểu về
văn hóa của người VN thấy rằng chúng ta có nhiều phẩm chất tốt đẹp và có không
ít tính cách xấu xa. Vì đang bàn về NN tệ nạn nên tôi xin phép không kể ra các
phẩm chất tốt mà nhiều người đã biết rất
rõ, chỉ xin mạo muội kể ra một số, chưa đầy đủ, các tính cách xấu. Chúng cũng
đã được nhiều người nói đến. Đó là thói tham lam ích mình hại người, là thói
nặng về tranh giành mà nhẹ về nhường nhịn, là thói dối trá, lừa lọc, là tâm lý
nô lệ, chấp nhận chịu hèn để giữ thân,
gió chiều nào che chiều ấy, là v.v.… Chỉ
xin tạm dừng lại ở chỗ kể ra một vài thói xấu, còn chưa truy tiếp NN nào tạo ra chúng. Những thói xấu này không
phải bao giờ cũng gây ra tệ nạn. Trong lịch sử mấy ngàn năm có thể kể ra nhiều
giai đoạn thịnh trị, đạo đức được đề cao, tình người được tôn trọng, những thói
xấu bị co lại, bị dìm xuống , chúng chỉ
gây ra tệ nạn dưới những thời phong kiến suy đồi và trong thời gian gần đây khi gặp môi trường thuận lợi, kết được với nguyên nhân khác phù hợp ( gặp được duyên ).
Về quản lý xã hội, có lẽ chỉ có một số nước,
trong đó có VN mới có khái niệm đảng lãnh đạo, còn phần lớn các nước chỉ có khái niệm đảng cầm quyền, đảng này lo việc
chủ yếu là thành lập chính phủ, còn việc quản lý, điều hành các hoạt động xã
hội là của chính quyền. Mà quản lý là do kết hợp hai nhân tố cơ bản là con
người ( quan chức, cán bộ ) và thể chế chính trị.
Về thể chế,
trong bài “Đuổi hổ rước sói” tôi đã phân tích việc một số người yêu nước vì đấu tranh cho cho nền độc lập mà đã rước
nhầm thần sói về để thờ, đó là chủ nghĩa Mác Lênin ( CNML). Trong bài đó tôi
cũng đã phân tích việc chưa thể dùng CNML trong quản lý xã hội . Trong CNML có
những mặt tốt cho cách mạng vô sản nhưng
vì đang phân tích NN của tệ nạn nên tôi không trình bày những mặt tốt đó
mà chỉ xin phân tích một số tác hại của nó ( đã nêu ở đoạn trên ) trong vai trò nhân hoặc duyên, trong việc kết hợp và làm
trầm trọng thêm các tật xấu của con người. Sự gặp nhau giữa hai yếu tố vừa kể
thường không dừng lại ở mức kết hợp mà nhiều khi trở thành cộng hưởng, làm cho
tác hại tăng lên rất nhiều. Có thể kể ra
hàng ngàn, hàng vạn dẫn chứng về sự kết hợp đó ở mọi cấp độ, chỉ xin nêu ra vài
chuyện.
Sai lầm của cải cách ruộng đất là do kết hợp
sự tàn bạo, sự vô nhân đạo của đấu tranh giai cấp với thói xấu tham lam của bần
cố nông, sự lưu manh của những kẻ cơ hội. Sự cải tạo tư sản gây nên suy sụp một
bộ phận của nền kinh tế là do kết hợp lý thuyết đấu tranh giai cấp với sự ngu
dốt của người này và sự thất thế của người kia. Sai lầm của hợp tác hóa làm
kiệt quệ nền nông nghiệp là do sự áp đặt việc tập thể hóa sản xuất kết hợp với
thói xấu quen nô lệ của nông dân. Tệ nạn dối trá tràn lan là sự kết hợp của nhu
cầu tuyên truyền về sự tốt đẹp chưa có với tính xấu lươn lẹo của người dân. Tệ
nạn đàn áp ý kiến trái chiều, ngăn cấm tự do ngôn luận là do kết hợp sự chuyên chính với thói độc đoán của phong kiến
và thói xấu hèn nhát, lo sợ của số đông.
Tệ nạn cán bộ, quan chức kém năng lực, gây ra nhiều sai phạm trong công việc là
do kết hợp độc quyền chuyên chính vô sản với thói xấu muốn làm quan để hưởng vinh
hoa phú quý, để đục khoét công quỹ , để vơ vét , để ra oai với người yếu thế.
Chủ nghĩa Mác được sinh ra tại các nước tư bản phát triển nhưng tại nhiều nước Âu Mỹ có dân trí cao, người ta không chấp nhận đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản nên nó chỉ tồn tại như một học thuyết. Tại Liên xô và các nước Đông Âu cũng nhờ dân trí cao mà người ta đã sớm nhận ra và từ bỏ CNML. Trung quốc, về hình thức vẫn giữ CNML nhưng thực chất chỉ giữ lại chuyên chính của ĐCS còn vứt bỏ các thứ khác, và như vậy đã phạm vào tội dối trá, lừa bịp. Tại
Cách mạng tháng Tám do Việt Minh ( VM) thực
hiện. Mục tiêu của VM là đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập, lật đổ phong
kiến. Thế nhưng một số người nghiên cứu lịch sử cho rằng thực chất của CM Tháng
Tám chỉ là nội chiến, cướp chính quyền vì vào thời gian đó vua Bảo Đại và chính
phủ Trần Trọng Kim đã tuyên bố Việt nam độc lập, xóa bỏ hiệp ước ký với Pháp,
thoát khỏi sự đô hộ của Pháp, hệ thống cai trị của Pháp đã bị Nhật tiêu diệt và
đến lượt Nhật đã đầu hàng Đồng minh. Việc chúng ta giành chiến thắng trong
chiến tranh chủ yếu không phải nhờ áp dụng các lý thuyết của CNML như đấu tranh
giai cấp, chuyên chính vô sản. Mà hễ cứ mỗi lần vận dụng CNML vào đời sống như
CCRĐ, hợp tác hóa, cải tạo tư sản, kinh tế quốc doanh, đàn áp xu hướng bất đồng
quan điểm là mỗi lần tạo nên tai họa. Chỉ những khi làm ngược lại với CNML như
khoán hộ trong nông nghiệp, như mở rộng kinh tế thị trường, như không công nhận
có giai cấp thù địch thì mới phát triển được phần nào.
Muốn khắc
phục, muốn dẹp bỏ tệ nạn thì hay nhất, tốt nhất là xóa được, cải thiện được
những tật xấu trong nền văn hóa và từ bỏ được CNML để xây dựng một thể chế thật
sự dân chủ, trong sạch. Xóa bỏ, cải thiện tật xấu văn hóa là cần nhưng đó là
việc làm lâu dài, không thể một sớm một chiều. Từ bỏ CNML là việc có thể làm
được nhanh nhưng đòi hỏi phải có sự thông minh và dũng cảm ( Liên xô và các
nước Đông Âu chỉ tiến hành trong hòa bình, khoảng 1 năm là xong mọi việc, có
nước như Rumani và thống nhất nước Đức chỉ diễn ra trong vài tuần ). Sẽ là rất
tốt khi tự trong các cán bộ cấp cao của ĐCSVN có được một số người giác ngộ
quyền lợi dân tộc, thấy được tác hại của
CNML, dũng cảm vận động từ bỏ nó kết hợp đổi tên đảng ( vì tên ĐCS phải gắn
chặt với CNML ). Làm được như vậy sẽ bảo vệ được tổ chức đảng và cứu được dân
tộc khỏi rơi vào cảnh tụt hậu triền miên. Đối với đại đa số nhân dân, chính
quyền nên để cho các tổ chức dân sự hoặc
cùng các tố chức đó dàn dựng các buổi thảo luận, tranh luận về CNML, về cái
được cái mất của CM và chuyên chính vô
sản. Làm được như thế sẽ góp phần nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí, xây dựng
nền văn hóa theo tinh thần Nghị quyết 9
của ĐCSVN về xây dựng và phát triển văn hóa con người VN đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước.