Hàn Vĩnh Diệp
VNTB - Chúng tôi nhận được lá thư ngỏ dưới đây do một cách mạng lão thành ở Đà Lạt gửi đến, phản bác bức thư đăng tải công khai gần đây của bà Nguyễn Thụy Nga chỉ trích nặng nề đối với Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tôn trọng sự thật khách quan và bảo đảm tính công bằng về các sự kiện lịch sử, BBT VNTB xin đăng nguyên văn lá thư ngỏ của tác giả Hàn Vĩnh Diệp.
Đơn kiến nghị của bà gởi các cán bộ lãnh đạo Đảng - Nhà nước - Quốc hội về những vấn đề lý lịch Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp; nhưng không biết từ nguồn nào mà được phát tán rộng rãi trên các trang mạng, tư liệu truyền tay v.v… Nhiều công dân là người hưu trí, dân thường, học sinh sinh viên … mà tôi đã được tiếp xúc, trao đổi đều rất bất bình, chê trách bà đã viết những nội dung ấy (dựa trên những lời thầm thì riêng tư của ông Lê Duẩn) nhằm bôi xấu thần tượng Võ Nguyên Giáp trong lòng nhân dân ta và những người có lương tri trên thế giới. Chúng tôi đã đọc vài lần bài viết của bà, xin được có mấy cảm nghĩ.
1. Trước hết, xin lỗi bà, chúng tôi đã dùng từ vợ bé vì trong dân gian gọi vợ bé, vợ lẽ là những người vợ không phải là vợ chính thất; vả lại, trong dư luận thì không biết chồng bà có bao nhiêu người vợ nữa, liệu bà đã phải là vợ hai chưa? (Trong đám tang ông Lê Duẩn, mọi người đều thấy có mấy bà đội mũ tang sau bà chính thất!). Cho nên, cách gọi như vậy chắc cũng không có gì là không phải; mong bà bỏ quá cho.
2. Những nội dung bà đề cập đến trong bài viết đều hoàn toàn không có gì mới (trừ một chi tiết sẽ nói sau). Những luận điệu này đều là của những kẻ xấu bụng, những người ganh ghét với uy danh, tài trí, đức độ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (như Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh, Trần Quỳnh, Nguyễn Đức Tâm, Đoàn Khuê, Nguyễn Thanh Bình, Đặng Đình Loan, Nguyễn Bắc Son v.v…) tung ra.
Lợi dụng diễn đàn hội nghị TWĐ 12 khóa 6, họ đã tung ra bản báo cáo tuyệt mật để vu khống trắng trợn và kết tội Đại tướng TTL (báo cáo tuyệt mật này tuy không được BCH TW phê duyệt nhưng họ vẫn cho lưu hành đến cấp Tỉnh ủy và tương đương). Đại tướng TTL và nhiều tướng lĩnh, cán bộ cao cấp đã phản bác tất cả những điều vu khống trên (trong bài viết của bà đã sao chép nguyên văn bài báo cáo tuyệt mật này) và yêu cầu TWĐ điều tra, làm rõ vụ việc, công khai đưa ra trước đại hội VII để đại hội khẳng định đúng, sai; nếu Đại tướng TTL không có những điều vu khống nhơ nhớp đó thì phải truy tội những người đã cố tình đặt điều, lợi dụng quyền lực phá hoại sự đoàn kết trong Đảng, Nhà nước … Bị đẩy vào thế cùng, họ bịa ra vụ án chính trị “Năm Châu - Sáu Sứ” vu khống Đại tướng TTL và mội số tướng lĩnh, cán bộ cao cấp tội âm mưu lật đổ. Vụ việc đã được Ban chuyên án, đứng đầu là tướng Võ Viết Thanh (Thứ trưởng bộ công an) làm rõ là hoàn toàn bịa đặt, vu khống hèn mạt. Đại hội VII Nguyễn Văn Linh tảng lờ không giải quyết, đùn đẩy cho các đại hội sau. Chính thái độ cố tình vô trách nhiệm của các Đại hội Đảng 7, 8 … và những người đứng đầu Đảng thời bấy giờ đã tạo cơ hội cho bọn có lòng dạ đen tối, nham hiểm trên và tay sai của chúng tiếp tục làm cái việc nhơ bẩn bôi bác thanh danh Đại tướng TTL.
Còn cái chi tiết chúng tôi coi là mới của bà đưa ra trong hàng đống vụ việc vu khống của chúng là lời nói của cậu con út của bà mà bà dùng làm căn cứ để kết tội Đại tướng TTL đã “cướp công” của chồng bà về mệnh lệnh nổi tiếng “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa” trong chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Một đứa trẻ con chẳng hiểu mô tê ất giáp gì nghe được lõm bõm chuyện người lớn (cứ cho là nó đã được nghe các cụ bàn chuyện!), sau bao nhiêu năm thuật lại, người trí não bình thường ai mà tin được lời nó nói! Một khía cạnh khác, tòa biệt thự ông Lê Duẩn ở đâu nghèo nàn đến nỗi phòng tiếp khách đồng thời là phòng ngủ? Ông Lê Duẩn, một chính trị gia tầm cỡ, sao mất cảnh giác đến mức khi bàn chuyện quốc gia đại sự tuyệt mật lại để người nhà nghe?
Sự kiện này thật ra đã diễn tiến như sau: Sáng ngày 31/3/1975 Bộ chính trị họp mở rộng bàn về đòn chiến lược thứ ba, đòn cuối cùng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Đại tướng TTL thay mặt Tổng quân ủy - bộ Tổng tư lệnh báo cáo tình hình và phương hướng, sách lược bước tiếp theo. Đại tướng nhấn mạnh: “Thời cơ lớn đã xuất hiện … Đánh một trận là giành thắng lợi. (…) Phương châm phải bám chắc là Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng.” Sau khi hội nghị thảo luận và nhất trí hoàn toàn báo cáo của Tổng quân ủy, ông Lê Duẩn đã điện cho các chiến trường quyết định của Bộ chính trị. Trong bức điện, ông đặc biệt nhấn mạnh phương châm hành động “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ.” Ngày 07/4/1975 Đại tướng TTL ra mệnh lệnh! “Thần tốc, thần tốc hơn nữa - Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng.” Chỉ thị của Bộ chính trị do ông Lê Duẩn ký và mệnh lệnh chiến đấu do Tổng tư lệnh ký, đó là điều đương nhiên, sao có chuyện tranh giành?
Theo kế hoạch tiến đánh Sàigòn, các cánh quân sẽ đồng loạt nổ súng vào 5 giờ 30 sáng 30/4/1975. Nhưng do diễn biến của tình hình, tướng Lê Trọng Tấn tư lệnh cánh quân phía Đông xin được nổ súng trước, 18 giờ ngày 29/4/1975. Nửa đêm, Đại tướng TTL và cục trưởng cục tác chiến Lê Hữu Đức đến nhà ông Lê Duẩn đề nghị chuẩn y cho cánh quân phía đông nổ súng trước. Ông Lê Duẩn rất tán thành. Theo hồi ký của Đại tướng TTL (và có sự khẳng định đúng của tướng Lê Hữu Đức - Hồi ký), Đại tướng TTL hỏi: “Điện ký tên Anh chứ ?” Ông Lê Duẩn trả lời: “Không! Anh là Tổng tư lệnh, ký tên anh”. Sau đó, ông nói thêm: “ Ký thêm tên tôi cũng được, hoặc nói rõ đã trao đổi với anh Ba và anh Ba nhất trí”. Về cơ quan, Đại tướng TTL điện trả lời ngay cho tướng Lê Trọng Tấn đồng điện cho ông Văn Tiến Dũng. Trên cương vị Tổng tư lệnh chỉ huy toàn bộ cuộc chiến, Đại tướng TTL rất quyết đoán; nhưng với ý thức tôn trọng tổng bí thư, nên đã tranh thủ ý kiến trước khi ra lệnh. Việc làm như vậy là hết sức đáng kính phục, sao bà lại nghe đứa con nít để vu vạ cho Đại tướng TTL “cướp công”.
3. Đọc văn bản này của bà, chúng tôi có cảm nghĩ: hình như người ta viết rồi đưa cho bà ký tên hoặc bà viết theo gợi ý của người ta (!?) Đọc hồi ký của bà (Xuân Ba ghi - thể hiện), chúng tôi thấy cuộc đời tư của bà thật éo le, đáng thương. Thời gian bà được sống gần ông Lê Duẩn (từ 1956 về sau) không nhiều, do sự đố kỵ của các con bà lớn; ông Lê Duẩn không giải quyết được sự xô xát trong gia đình để bảo vệ bà. Vì vậy, tuy hòa bình, có điều kiện sum họp với chồng con, bà vẫn phải sống xa cách chồng con. Ông bà đâu có nhiều thì giờ để trò chuyện riêng tư, để chồng bà tiết lộ những bí mật về quan hệ trong nội bộ Đảng, Nhà nước … nói chung và đối với các cá nhân (như Bác Hồ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ông Trường Chinh …) nói riêng. Còn tư liệu riêng của ông Lê Duẩn thì chắc các con bà lớn giữ chứ bà làm sao có được?
Giá như, trước khi viết hoặc ký vào văn bản trên, bà đã tham khảo các hồi ký chính trị của các tướng lĩnh như Trần Văn Trà, Hoàng Minh Thảo, Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Lê Hữu Đức, …, của Hoàng Tùng, Hoàng Đạo Thúy …, các bài phản bác Trần Quỳnh của Nguyễn Trần Thiết, Trần Nhật Độ, Phạm Chí Dũng… thì chắc bà không cho lưu hành văn bản trên.
4. Bản “đơn kiến nghị” của bà, một lần nữa đã làm suy giảm uy tín của ông Lê Duẩn trong công luận xã hội. Chắc bà còn nhớ, khoảng năm 1984, ông Lê Duẩn đã chỉ đạo, hướng dẫn nhà báo Thép Mới viết ký sự “Thời đánh Mỹ”, (đăng nhiều kỳ trên báo Nhân dân) nhằm tụng ca công lao vĩ đại của ông Lê Duẩn, linh hồn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước! Bài báo đăng được vài kỳ, gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ của công luận cả nước; cho nên mới đăng được vài kỳ thì báo Nhân Dân không dám đăng tiếp! Cũng vào thời gian này, ông Lê Duẩn đã vào Sàigòn tổ chức nói chuyện trực tiếp với cán bộ cao cấp chính trị, quân sự các tỉnh phía Nam. Kết quả hoàn toàn ngược lại, nếu trước đây, nhiều người trong số cán bộ này hết sức kính phục, tôn trọng ông Lê Duẩn thì sau buổi nói chuyện ấy lòng tin yêu của họ đối với ông bị sứt mẻ, đổ vỡ.
Xưa nay, không phải chỉ ở nước ta, công luận xã hội không bao giờ chấp nhận chuyện một người đinói xấu sau lưng người khác, nhất là người ấy đã từng là đồng chí, cộng sự của mình; và không bao giờ đánh giá tốt một người chồng (hoặc vợ) là cán bộ phụ trách hay cán bộ thường đem chuyện riêng bí mật trong nội bộ cơ quan, đơn vị nói với vợ (hoặc chồng, con cái) trong nhà. Ông Lê Duẩn, cho dù có đem chuyện mà ông cho là xấu về Đại tướng TTL và những lãnh tụ, chiến hữu khác nói với bà thì bà nên giữ kín trong lòng chứ không nên phô ra, chỉ làm tổn hại uy tín của ông Lê Duẩn và bà.
Chúng tôi không đi sâu trình bày những chi tiết trong bài viết của bà (kể cả những vấn đề xem ra khá ấu trĩ, ngây thơ về nhận thức như: Nguyên tắc cao nhất của chiến dịch Điện Biên Phủ “đánh chắc thắng” do Bác Hồ và thường vụ TWĐ (tức Bộ chính trị) đề ra với việc thay đổi phương châm tiêu diệt địch từ “đánh nhanh - thắng nhanh” sang “đánh chắc - tiến chắc” và vai trò của cố vấn Trung quốc trong chiến cuộc Điện Biên Phủ; vai trò, vị trí của Bí thư Tổng quân ủy - Tổng tư lệnh trong toàn cuộc chiến Mùa xuân 1975; vai trò ông Văn Tiến Dũng trong chiến dịch ấy v.v…) bởi, đã có quá nhiều tư liệu xác đáng viết về những điều ấy.
Việc Bộ chính trị, TWĐ, Nhà nước, Quốc hội đã quyết định tổ chức quốc tang trọng thể (vượt lên trên sự quy định của Nhà nước) Đại tướng TTL là sự mặc nhiên thừa nhận công tích đặc biệt của Người và hàng vạn vạn người dân đủ cả các tầng lớp đến viếng và tiễn đưa Người; từ ngày Đại tướng TTL mất, hàng ngày có hàng trăm, ngàn người dân cả nước đến viếng mộ Người là sự đánh giá chân xác nhất của ý chí, niềm tin của tuyệt đại bộ quần chúng nhân dân cả nước; là một sự thật lịch sử đúng đắn nhất không ai có thể xuyên tạc, bóp méo.
Trân trọng kính chào bà.
Hàn Vĩnh Diệp
(Cán bộ hưu trí ở Đàlạt)
Nguồn :VNTB