TS Phạm Huy Thông*
Nếu kể từ khi thành lập Viện
nghiên cứu Tôn giáo đến nay như là minh chứng cho sự đổi mới của Đảng về công
tác tôn giáo với Nghị quyết 24/NQ-TƯ năm
1990 mở ra triển vọng về công cuộc
nghiên cứu tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam trong đó có đạo Công giáo, thì công
việc này mới trải qua ¼ thế kỷ. Tuy nhiên sự nghiên cứu này không chỉ bắt đầu từ
năm 1990, mà trước đó đã có nhiều tác giả cả trong và ngoài Công giáo như Alexandre
de Rhodes, Pigneau de Behain, Lê Quý Đôn, Nguyễn Trường Tộ, Leopold Cadiere,
Phan Bội Châu…cũng đã quan tâm về vấn đề này. Nhưng 25 năm qua, nghiên cứu tôn
giáo nói chung và Công giáo nói riêng ở Việt Nam (chỉ giới hạn trong nước) cũng
đã để lại nhiều điều đáng nói.
1.
Nhận thức mới về đạo Công
giáo
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam
kể từ năm 1986 nhưng đổi mới về công tác tôn giáo được kể từ Nghị quyết
24/NQ-TƯ của Bộ Chính trị ban hành ngày 16-10-1990 đã mở ra một không gian mới,
đã tháo chiếc “vòng kim cô” trên đầu các nhà nghiên cứu, đem lại một cái nhìn
thông thoáng cho các nhà nghiên cứu tôn giáo để họ có nhận thức mới phát biểu
công khai trên diễn đàn hay bài viết trên báo chí mà điều này trước đây chỉ
nghe được quanh bàn trà hay thì thầm nội bộ.
Có một thời, xã hội Việt Nam
cũng bị nặng nề bởi các quan niệm tả khuynh về tôn giáo. Tôn giáo được coi là đồng
nghĩa với mê tín, lạc hậu và cả phản động nữa nên không ngạc nhiên có ý tưởng
muốn xóa bỏ tôn giáo ra khỏi đời sống cộng đồng để khẳng định lập trường kiên định.
Bởi vậy, đồng bào các tôn giáo hẳn rất vui vì được nghe GS Đặng Nghiêm Vạn nhận
xét:
“Niềm tin tôn giáo không phải là niềm tin mê muội, cuồng tín, thiếu suy
nghĩ. Người tín đồ tôn giáo trước hết là người hiểu một cách trí tuệ điều mình
tin, điều mình coi là thiêng liêng…Nềm tin tôn giáo cũng không thể là những hiện
tượng được xem là phản văn hóa, trái với tiến bộ văn minh” (1)
GS Trần Quốc Vượng, chắc phải
can đảm lắm mới dám nhận định rằng:
“Nhìn nhận vấn đề tôn giáo trên quan điểm văn hóa học, tôi thấy thế này:
xét theo lịch sử phát sinh và trưởng thành, tôn giáo vừa là một sản phẩm của
văn hóa, vừa là thành phần hữu cơ, một nhân tố cấu thành của văn hóa…Ở trong mỗi
tôn giáo lớn đều có hạt nhân triết học, đều có chủ nghĩa nhân đạo là thành tựu
văn hóa lớn nhất của loài người. Cái từ bi của Phật, cái bác ái của Chúa Kitô,
cái nhân nghĩa của Khổng Nho là những hạt ngọc của văn hóa đó” (2).
Tại sao lại có những quan niệm
khô cứng về tôn giáo trước đây tồn tại
trong xã hội tốt đẹp của chúng ta. GS Phạm Như Cương gọi đó là căn bệnh “kiêu ngạo cộng sản”. Ông nói:
“Những sai lầm, khuyết điểm của mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ bao gồm
cả những sai lầm trong việc thực hiện chính sách tôn giáo, nổi lên là khuynh hướng
muốn xóa bỏ tôn giáo một cách nhanh chóng bằng các biện pháp hành chính và có
khi cả bằng trấn áp bạo lực là một thứ chủ nghĩa vô thần cực đoan thô thiển. Những
sai lầm đó không chỉ gây tổn thất cho đời sống tinh thần của xã hội mà còn dẫn
đến ngưng đọng sự phát triển” (3).
Bây giờ nhiều người nói và
ai cũng có thể nói về những tiêu cực của thời kỳ bao cấp qua mọi mặt của đời sống
xã hội trong đó có cả bao cấp về tôn giáo nhưng nói ra được những điều như GS Đặng
Nghiêm Vạn- Viện trưởng đầu tiên của Viện nghiên cứu tôn giáo cách đây 25 năm,
quả thật không dễ dàng. Ông nhận xét:
“Thực tế đã hình thành trong tư tưởng cán bộ quan niệm rằng, phát triển
tôn giáo là không có lợi cho cách mạng. Đó là do sự hiểu biết hạn hẹp của họ chỉ
xét tôn giáo qua những hành động tôn giáo phục vụ mục đích chính trị đơn thuần,
nên đã vô tình gây ra những đối lập không cần thiết giữa Nhà nước và các tôn
giáo. Do đấy đã dẫn đến thái độ họ không thấy vai trò tôn giáo trong đời sống
xã hội trên cả mặt văn hóa, đạo đức, tâm lý…Thành kiến với tôn giáo dẫn đến thu
hẹp nhu cầu chính đáng của các tín đồ tôn giáo, vi phạm ngay những điều Nhà nước
đề ra” (4).
Lỗi này cũng không phải hoàn
toàn do cán bộ, khi trong trường học nhất là các trường chính trị, sách giáo
khoa luôn luôn nhắc lại những lời của các tác gia kinh điển chủ nghĩa Mác về
tôn giáo nhưng không hề chú giải hoàn cảnh lịch sử ra đời của những nhận xét
này. Ví dụ câu nói quen thuộc được cho là tuyên ngôn của Mác : “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”
hay nhận xét của Lênin: “Tất cả những thứ
đạo đức, xuất phát từ những quan niệm ngoài nhân loại, ở ngoài giai cấp, chúng
ta đều bác bỏ. Chúng ta nói rằng đấy chỉ là lừa bịp, dối trá, nhồi sọ công nhân
và nông dân để mưu lợi ích riêng cho bọn đại chủ và tư sản” (5). Sách viết
cứ coi đó là chân lý vĩnh cửu mà không biết đó là thời Mác, “thuốc phiện” đã trở thành câu nói cửa miệng
khi cuộc chiến mang tên loại dược liệu này xảy ra. Đồng thời, khi đó, thuốc phiện
cũng chưa có tính “ma túy” gây nghiện như bây giờ mà chỉ là thuốc giảm đau dùng
trong chữa trị bệnh. Đó cũng chỉ là câu cuối trong đoạn dài bài “Lời nói đầu”
cho cuốn “Sự phê phán triết học pháp quyền của Hegel” mà có nhiều ý nói đến vai
trò của tôn giáo. Còn câu nói của Lênin
là lúc mà khi cách mạng tháng Mười năm 1917 nổ ra, liên quân 14 nước cùng các đảng
phái, Chính thống giáo trong nước Nga liên kết để chống lại nên vấn đề ý thức
giai cấp được Lênin đặc biệt nhấn mạnh.
Thời trước đổi mới rất hiếm
nhà nghiên cứu dám ca ngợi đạo Công giáo. Vì vậy, dịp 100 năm ngày sinh của Chủ
tịch Hồ Chí Minh năm 1990, khi GS Trần Quốc Vượng viết bài báo “Hồ Chí Minh tự nhận là học trò nhỏ của Đức
Giêsu” đăng trên báo “Người Công giáo
Việt Nam” đã thực sự gây sốc cho người dân và cả một số lãnh đạo bấy giờ.
Giáo dân chen chúc mua báo, chép tay (vì lúc đó không có máy phôtô). Vị GS sử học
này cũng công khai khen ngợi đóng góp của đạo Công giáo với văn hóa dân tộc:
“Việc sáng tạo ra chữ quốc ngữ hay việc latinh hóa chữ Việt, về lâu về
dài đây là thành tựu văn hóa lớn và có tác dụng sâu xa đến việc phổ biến trí thức,
thông tin đến việc phát triển nền văn hóa giáo dục cận hiện đại Việt Nam. Thành
tựu văn hóa này gắn với lịch sử đạo Thiên Chúa ở Việt Nam và thật điên rồ khi
muốn tách bạch văn hóa và tôn giáo trong đời sống xã hội ngày xưa, chỉ thừa nhận
văn hóa là tích cực, còn tôn giáo là tiêu cực” (6).
GS sử học Phan Huy Lê, trong
một tham luận tại hội thảo khoa học cũng ghi nhận những đóng góp của các nhà
truyền giáo nước ngoài đối với văn hóa, khoa học Việt Nam. Ông viết:
“Trong hàng ngũ các giáo sĩ, cũng có người chỉ hoạt động vì đức tin và
cũng góp phần truyền bá một số thành tựu văn minh phương Tây vào Việt Nam. Nhà
toán học và thiên văn học Jean Baptisle Sanna (Ý), Sebatien Pices (Bồ), Francoi
de Lima (Bồ), Joseph Neugebeaur (Đức), nhà y học Sibert (Tiệp), Chales
Salemenski (Hung), Jean Koffler (Tiệp), Jean de Lourerio (Bồ)… là những giáo sĩ
đã giúp chúa Nguyễn ở Đàng Trong” (7).
Vai trò của đạo Công giáo
làm cầu nối văn minh, văn hóa giữa Việt Nam và phương Tây cũng được các tác giả
của đề tài nghiên cứu KX. 07 do GS Nguyễn Tài Thư là chủ nhiệm nói đến. Mặc dù
công trình này cũng còn nhiều điều đáng “dọn vườn” nhưng cũng đưa ra được nhận
xét đúng đắn:
“Nếu nói ảnh hưởng của văn hóa tư tưởng phương Tây ở Việt Nam thì chắc
chắn đạo Thiên Chúa là nhân tố đầu tiên của sự ảnh hưởng này. Và như vậy, trong
lịch sử, tôn giáo luôn luôn đóng vai trò là một trong các sứ giả đầu tiên trong
những cuộc viếng thăm, tiếp xúc, giao lưu văn hóa giữa các dân tộc” (8).
Có một lĩnh vực rất mới, ít
người nói đến là đóng góp của đạo Công giáo với kinh tế mà sử gia người Pháp,
GS. Alain Fores đã nhận định khi nghiên cứu kinh tế phương Đông. GS Đỗ Quang
Hưng cũng đồng tình với ý kiến như vậy:
“Xét cả trên phương diện kinh tế của vấn đề hiện đại hóa, những nhà truyền
giáo phương Tây cũng đem lại những sự thay đổi về tổ chức kinh tế cho cộng đồng
Kitô hữu: lối mua sắm đất đai, can dự vào việc phân chia giàu nghèo, lối làm ăn
cho vay lấy lãi…” (9).
Những nhận thức mới như trên
không chỉ minh chứng Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị mà còn là luận cứ để có Nghị
quyết 25 Về công tác tôn giáo năm
2003 và các chính sách tôn giáo khác thông thoáng hơn ra đời.
2- Bức tranh về đạo Công giáo ngày càng được khắc họa rõ nét
Thật khó mà tổng quan cho hết
những công trình nghiên cứu về đạo Công giáo 25 năm qua. Nhưng người ta nhận thấy
bức tranh về tôn giáo này ngày càng được khắc họa đầy đủ hơn trên các lĩnh vực:
cơ cấu, tổ chức; đóng góp cho văn hóa xã hội và con đường đồng hành cùng dân tộc.
Phải ghi nhận những cố gắng
của Viện Nghiên cứu Tôn giáo về vấn đề này. Nhiều cuộc hội thảo khoa học chuyên
về Công giáo nhất là dưới thời GS Đỗ Quang Hưng, PGS.TS Nguyễn Hồng Dương- những
chuyên gia nghiên cứu về Công giáo. Chúng tôi cũng may mắn được tham dự những
cuộc hội thảo như thế. Nhiều cuốn kỷ yếu đã xuất bản như cuốn “Công giáo Việt Nam- Một số vấn đề nghiên cứu”,
Nxb Tôn giáo và Nxb Từ điển Bách khoa năm 2008, “Nếp sống đạo của người Công giáo Việt Nam”, Nxb Từ điển Bách khoa
năm 2010, “ 30 năm Thư chung 1980 của Hội
đồng Giám mục Việt Nam”, Nxb Tôn giáo 2010…Nhiều tác giả như PGS.TS Nguyễn
Hồng Dương, Nguyễn Phú Lợi…đã đi sâu vào việc nghiên cứu cơ cấu, tổ chức của
tôn giáo này từ Tòa thánh Vatican đến giáo xứ. Một số lĩnh vực khó như thần học
Công giáo cũng bước đầu được GS.TS Đỗ Quang Hưng đề cập, phác thảo. Có những vấn
đề chỉ như tiểu tiết là tên gọi đạo Công giáo thế nào cho đúng cũng được nhiều
nhà nghiên cứu xáo xới lên như GS Trần Văn Toàn, Nguyễn Nghị và Phạm Huy Thông.
Hóa ra, lâu nay, tôn giáo này có nhiều tên gọi không thống nhất, thậm chí sai cả
về mặt khoa học cũng như chính trị. Cuốn “Ảnh
hưởng qua lại giữa đạo Công giáo và văn hóa Việt Nam” viết:
“Để chỉ chung các tôn giáo cùng thờ Chúa Kitô, đều lấy Kinh thánh cả Cựu
ước lẫn Tân ước làm nền tảng như Công giáo, Chính thống, Tin lành, Anh giáo nên
gọi là Kitô giáo. Khái niệm Thiên Chúa giáo dù ở Việt Nam và Trung Quốc thường
dùng để chỉ đạo Công giáo, nhưng theo chúng tôi không nên sử dụng vì trên thế
giới không có khái niệm tương hợp và dễ gây lầm lẫn…Tại Việt Nam hiện nay, trên
giấy tờ kê khai kể cả chứng minh thư nhân dân vẫn ghi mục tôn giáo những người
theo đạo Công giáo là Thiên Chúa giáo. Điều này không chính xác về mặt khoa học
lẫn quan điểm Mác xít” (10).
Có vấn đề khó nhận ra như tư
duy của người Công giáo Việt Nam cũng đã được nhà nghiên cứu chỉ ra. PGS.TS
Nguyễn Quang Hưng nhận xét:
“Nhìn chung, người Công giáo Việt Nam suy nghĩ, tư duy ở một mức độ nhất
định duy lý hơn, thực chứng hơn so với những người Việt ngoài Công giáo…Tiếp nhận
Công giáo từ các thừa sai châu Âu qua nhiều thế kỷ, người Công giáo Việt Nam kế
thừa kế thừa cả lối suy nghĩ, tư duy thực chứng, duy lý của nền khoa học và kỹ
thuật châu Âu” (11).
Có những nghiên cứu chuyên
sâu cho từng mảng vấn đề như hương ước các làng Công giáo (TS Nguyễn Thị Quế
Hương), hôn nhân Công giáo (TS Đỗ Thị Ngọc Anh, TS Lê Đức Hạnh), từ thiện nhân
đạo (TS Trần Thị Thu Hiền), về Kinh thánh (TS Trương Như Vương) hoặc một giai
đoạn lịch sử, một vùng miền cụ thể, từng cá nhân Công giáo (PGS.TS Nguyễn Quang
Hưng, TS Trần Hữu Hợp, GS.TS Đỗ Quang Hưng), truyền thông mạng của đạo Công
giáo ở Việt Nam hiện nay (TS Đỗ Thu Hường)…Đạo Công giáo cũng được giới thiệu
trong nhiều Từ điển Bách khoa thư Hà Nội và những cuốn Từ điển khác.
Nghiên cứu về đạo Công giáo
giai đoạn vừa qua không thể không kể đến các cuộc hội thảo quy mô do Giáo hội
Công giáo Việt Nam tổ chức từ “Thờ cúng tổ
tiên” năm 1998 tại Huế, “ Văn hóa Công giáo Việt Nam từ khởi thủy đến
đầu thế kỷ XX” (2000), rồi “ Sống đạo
theo cung cách Việt Nam” (2004), “Thân
thế và sự nghiệp linh mục Leopold Cadiere (1869-1955)” (2010)…với nhiều cây
bút là người Công giáo tham gia như linh mục TS Thiện Cẩm, linh mục TS Đỗ Quang
Chính, Giám mục GS.TS Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Nguyễn Văn Sang , linh mục
GS.VS Trần Tam Tỉnh, linh mục TS Trương Bá Cần …
Ủy ban đoàn kết Công giáo Việt
Nam vừa qua cũng chủ động tổ chức hoặc phối hợp với cơ quan khác cùng tổ chức
nhiều cuộc hội thảo khoa học liên quan đến Công giáo như “Nửa thế kỷ người Công giáo đồng hành cùng dân tộc” (2004), “Từ Công đồng Vatican II đến Thư chung 1980”
(2005), “Người Công giáo tốt cũng là công
dân tốt” (2013)... Một số cơ quan như Ban Tôn giáo Chính phủ, Trung tâm
Khoa học Tư duy, Trung tâm nghiên cứu Tôn giáo đương đại trường Đại học Khoa học
xã hội nhân văn (ĐHQG Hà Nội), Trung tâm khoa học tín ngưỡng, tôn giáo (Học viện
CTQG HCM) cũng có tổ chức hội thảo khoa học hoặc có đề tài nghiên cứu về tôn
giáo nói chung và Công giáo nói riêng.
Bàn về những đóng góp của đạo
Công giáo với văn hóa, xã hội Việt Nam thời gian qua được nhiều nhà nghiên cứu,
lãnh đạo Nhà nước Việt Nam ghi nhận. Đầu tiên là bàn về đóng góp văn hóa vì dễ
nói hơn. Đạo Công giáo có công đầu trong việc latinh hóa chữ Việt thành chữ quốc
ngữ hiện nay. Các lĩnh vực nghệ thuật Công giáo như văn học, kiến trúc, âm nhạc,
hội họa, báo chí đều góp phần làm phong phú văn hóa nước nhà. Những danh nhân về
văn hóa Công giáo như Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký, Hàn Mặc Tử, Đắc Lộ, L.
Cadiere… cũng làm rạng rỡ văn hóa Việt. Đạo Công giáo cũng là chiếc cầu nối văn
minh, văn hóa Đông- Tây…Vấn đề này được nhiều luận án Thạc sĩ, Tiến sĩ về Tôn
giáo, Triết học, Văn hóa, Lịch sử chọn làm đề tài. Hai cuốn sách “Ảnh hưởng qua lại giữa đạo Công giáo và văn
hóa Việt Nam” (Nxb Tôn giáo 2012) của Phạm Huy Thông và “Tìm hiểu nét đẹp văn hóa Thiên Chúa giáo”
(Nxb Văn hóa Thông tin 2002) của Hà Huy Tú đã trình bày kỹ chủ đề trên. Trong đó, tác giả Phạm Huy
Thông còn làm rõ sự tác động trở lại của văn hóa Việt Nam với đạo Công giáo làm
thành bản sắc riêng cho tôn giáo này tại Việt Nam.
Vấn đề “Công giáo và dân tộc”
cũng được nhiều cuộc hội thảo khoa học ở các cơ quan quản lý và nghiên cứu tổ
chức. Có một số tác giả đã thành công như “Thập
giá và lưỡi gươm” của linh mục Trần Tam Tỉnh. “ Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào Công giáo” của Phạm Huy Thông, “Công giáo Việt Nam thời kỳ triều Nguyễn (1802-1883) của Nguyễn Quang
Hưng, “Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam: lý luận và thực tiễn” của Đỗ Quang Hưng…Thật ra, con đường đồng hành cùng dân
tộc của tôn giáo này không chỉ đặt ra từ sau Thư chung 1980 của Hội đồng Giám mục
Việt Nam mà trước đó, ngay từ giữa thế kỷ XIX, nhà cải cách Nguyễn Trường Tộ đã
nêu lên và ngay từ khi đạo Công giáo có mặt ở Việt Nam đầu thế kỷ XVI cũng phải
đối diện. Nhưng hội nhập về văn hóa, dù có khó khăn, cản trở vẫn dễ dàng hơn
nhiều so với việc tôn giáo “đồng hành” với một thể chế chính trị. Không nghi ngờ
gì về nhiều người Công giáo đã có mặt trong các tổ chức Duy tân của Phan Bội
Châu, những tấm gương quên mình cứu nước của hàng vạn anh hùng, liệt sĩ Công
giáo trong suốt cuộc đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc hay những kiến nghị
canh tân cháy bỏng lòng yêu nước của Nguyễn Trường Tộ, Đặng Đức Tuấn…nhưng do
chính trị luôn thay đổi cũng như các triều đại thay thế nhau và được đánh giá
cũng khác nhau. Triều đại trước vừa được tung hô là minh quân sáng suốt, triều
đại sau đã cáo buộc là bất chính, gian tà. Bởi vậy, đạo Công giáo cũng có thời
như đầu triều Nguyễn được coi là ân nhân, nhưng cuối nhà Nguyễn đã bị cáo buộc
là “cõng rắn cắn gà nhà”. Thư chung 1980 hay là thế, được giới nghiên cứu, nhà
cầm quyền và đại đa số giáo dân khen ngợi hết lời thì nó cũng bị công kích nặng
nề:
“Giáo hội đồng hành với dân tộc là khẩu hiệu chiến lược của giáo hội Việt
Nam trong môi trường cộng sản Việt Nam bolsevik hóa toàn dân. Điều này có nghĩa
là giáo hội bị chấp nhận bolsevik hóa. Giáo hội đang đồng hành cùng Đảng cộng sản
Việt Nam chứ không phải với dân tộc Việt Nam”(12).
Giáo hội lo lắng bị sa vào bẫy
“bắt tay với thế quyền” nên cấm giáo sĩ không được làm chính trị. Nếu có làm là
riêng giáo dân thôi và theo khuôn mẫu: “Người
Công giáo tốt cũng là công dân tốt”. Cho nên tìm ra một con đường thích hợp
cho đạo Công giáo có thể đồng hành với dân tộc trong thể chế này do Đảng cộng sản
lãnh đạo vẫn chưa có lời giải hoàn hảo.
3- Mấy điều còn trăn trở
Rõ ràng, nghiên cứu Công
giáo ở Việt Nam 25 năm qua đã có những thành tựu vượt bậc hơn hẳn nửa thế kỷ
trước và trong đó, Viện Nghiên cứu Tôn giáo góp phần to lớn. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng ở nước ta vẫn còn nhiều điều
đáng bàn.
Trước hết, riêng về nghiên cứu
Công giáo, chúng ta vẫn thiếu những tác phẩm có tính công cụ “ra tấm ra miếng”
mà khi ai nghiên cứu về lĩnh vực này cũng phải đọc. Các tác phẩm nghiên cứu về
Công giáo hiện nay nhỏ, lẻ. Hầu hết là những bài chuyên luận được đọc trong các
cuộc hội thảo, đăng trên Tạp chí. Có vài cuốn được in ra từ những luận án Tiến
sĩ. Phải chăng giới nghiên cứu chưa đầu tư chuyên sâu hay kinh phí in ấn khó
khăn và dù có in ra, bán sách để thu hồi vốn chẳng dễ dàng gì?
Thời gian gần đây, có thể do
các lĩnh vực khoa học khác, đề tài đã cạn hoặc cũ nên nhiều học viên, nghiên cứu
sinh tìm đề tài tôn giáo nói chung hoặc Công giáo nói riêng cũng làm cho bầu
khí nghiên cứu Công giáo sôi động hơn. Nhưng tiếc rằng, rất ít người sau khi bảo
vệ thành công luận án tiếp tục việc nghiên cứu. Bởi vậy, nhiều TS có đề tài về
Công giáo cũng chỉ có luận án là thành quả cuối cùng của sự nghiệp nghiên cứu.
Không rõ do mưu sinh, công việc hay việc nghiên cứu chẳng thể nuôi sống nhà
nghiên cứu và việc viết bài cho Tạp chí cũng là cuộc đua chen mà nhuận bút thì
lại quá không cân xứng với công sức của tác giả nên nhiều TS đã gác bút nghiên?
Tôi cũng hay được mời làm phản
biện độc lập hay làm thành viên hội đồng bảo vệ luận án TS nên cũng nhận biết
được chút ít khả năng của các Nghiên cứu sinh. Trong các luận án, có phần hình
như luận án nào cũng có là phần kiến nghị hay khuyến nghị. Có những kiến nghị rất
xa thực tế, chẳng thiết thực chút nào. Chẳng hạn, có khuyến nghị yêu cầu Giáo hội
Công giáo phải tham gia nhiều hơn vào lĩnh vực y tế, giáo dục, từ thiện nhân đạo
nhưng nghiên cứu sinh không hề biết điều này Giáo hội kiến nghị không ít lần và
chìa khóa là ở luật pháp. Hiện Luật Tín
ngưỡng, Tôn giáo đang muốn gỡ ra
vấn đề này nhưng cũng chưa phải là đã suôn sẻ. Hoặc khuyến nghị Giáo hội Công
giáo Việt Nam phải có trách nhiệm nâng cao chất lượng hai tờ báo Người Công giáo Việt Nam và Công giáo và dân tộc. NCS cũng không biết hai tờ báo này của ai. Cứ thấy có chữ Công giáo tưởng là của Giáo hội.
Không ít những nghiên cứu của
những người có tên tuổi về Công giáo cũng sai sót nghiêm trọng. Chẳng hạn, một
số người vẫn cho rằng Ủy ban ĐKCGVN là tổ chức của Giáo hội Công giáo. Thậm chí
có đề tài cấp Nhà nước mà chủ biên là một GS.TS viết về Công giáo thời đổi mới
mà vẫn nhìn nhận qua lăng kính chính trị những năm 50 của thế kỷ trước. Đề tài
viết:
“Thiên Chúa giáo đã xác lập thế giới quan, hệ tư tưởng, niềm tin vào những
tín điều mù quáng, truyền bá lối sống thụ động phản khoa học và ý thức mê tín dị
đoan, trói buộc tâm linh tuổi trẻ vào những
luật lệ, lễ nghi hà khắc nhằm kiến tạo đức tin vào Chúa… Thiên Chúa giáo khuyến
khích phát triển cộng đồng để nắm quần chúng thanh thiếu nhi, chú trọng xu hướng
hòa nhập để tìm hiểu tâm tư nguyện vọng quần chúng tuổi trẻ. Song trên thực tế,
họ đã chia cắt, đối lập, ràng buộc giáo dân, ngăn cản thanh thiếu nhi thực hiện
các nghĩa vụ xã hội và trách nhiệm công dân” (13).
Viết như thế, giáo dân nào
tin được Nhà nước đổi mới về công tác tôn giáo? Nhà nghiên cứu nào ở nước ngoài
tin được giới nghiên cứu tôn giáo ở Việt Nam đã thay đổi nhận thức?
Vấn đề nghiên cứu Công giáo
quốc tế ở Việt Nam vẫn yếu. Có thể chúng ta thiếu tài liệu, thiếu ngoại ngữ, ít
được đi thực tế nên thường dùng các tài liệu dịch từ Liên Xô trước đây hay
Trung Quốc ngày nay. Mà tại những nơi này do ý thức hệ mà nghiên cứu về Công
giáo cũng chưa thực sự khách quan nên khi nhà nghiên cứu dịch ra tiếng Việt,
người Công giáo Việt Nam thấy cứ như nói ở đâu, tôn giáo lạ nào chứ không phải
nói về đạo Công giáo…
Lý luận phản ánh thực tế
nhưng lại phải đi trước để dẫn đường. Những nghiên cứu về tôn giáo nói chung và
Công giáo nói riêng phải được áp dụng hữu ích vào đời sống sinh hoạt tôn giáo tại
Việt Nam. Có như vậy, không chỉ người lãnh đạo mà tín đồ các tôn giáo mới thấy
vai trò hữu ích của công tác nghiên cứu tôn giáo. Điểm lại những mặt được và
chưa được của nghiên cứu Công giáo ở Việt Nam thời gian qua, chúng ta có hy vọng
tương lai sẽ khá hơn.
Chú thích:
*Trưởng ban Tư duy Tôn giáo,
Trung tâm Khoa học Tư duy (CTS).
1,3,4- GS Đặng Nghiêm Vạn
(chủ biên): Những vấn đề tôn giáo hiện
nay, Nxb KHXH 1994, tr.63; tr.78; tr.71
2- Tôn giáo là và văn hóa, báo Người Công giáo VN, xuân Kỷ Tỵ 1989
5- V. Lênin: Lênin toàn
tập, tập 41, Nxb Tiến bộ Matxcơva, 1979, tr.367
6- Trần Quốc Vượng: Trong cõi, Nxb Trăm Hoa, USA, 1991, tr.186-187
7- Một số vấn
đề về lịch sử đạo Thiên Chúa ở Việt Nam và lịch sử dân tộc, Kỷ yếu khoa học,
Ủy ban KHXH 1988, tr.19
8, 13- Ảnh
hưởng của hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hôm nay, Nxb
CTQG 1997, tr.59; tr.217-218
9- Một số vấn
đề về lịch sử đạo Thiên Chúa Việt Nam,
ĐHTH Hà Nội 1988, tr.62
10- Phạm Huy Thông, Ảnh hưởng qua lại… sđd, Nxb Tôn giáo 2012, tr.24-25
11- Nếp sống
đạo giáo của người Công Việt Nam, Nxb Từ điển Bách khoa, 2012, tr.162-165
12- Duyên Lãng- Hà Tiến Nhất: Công giáo và cuộc chiến giữa hai khuynh hướng
theo cộng sản để giữ đạo và diệt cộng sản để vinh đạo,
htpt/www.hungviet.org ngày 6-10-2007.