GS Tiến Sỹ Wenran Jiang
GS Tiến Sỹ Wenran Jiang University of Alberta |
Trong một bài viết, giáo sư-tiến sĩ Canada gốc
Hoa, Khương Văn Nhiên (Wenran Jiang; Đại học Alberta), nhận xét: “Các công ty
Trung Quốc trả lương thấp lại buộc công nhân làm việc thêm giờ; làm thế nào người
ta kỳ vọng họ đối xử khác như thế ở nước ngoài?
Với 6.700
công nhân mỏ than chết bởi tai nạn hầm mỏ mỗi năm (17 người/ngày)…, làm thế nào
người ta có thể hy vọng các doanh nghiệp Trung Quốc hành xử tử tế hơn đối với
những nơi khác trên thế giới?...
Trung Quốc
đang tàn phá nghiêm trọng hệ sinh thái nước họ trong quá trình hiện đại hóa cực
nhanh; làm thế nào người ta có thể hy vọng họ ý thức áp dụng các biện pháp thân
thiện môi trường theo chuẩn phương Tây ở những nơi khác?”. Cùng với việc xuất
khẩu lực lượng lao động, xuất khẩu hàng hóa, “xuất khẩu” lực lượng lao động thất
nghiệp trong nước…, Trung Quốc còn “xuất khẩu” cả văn hóa bê bối và bất lương
trong đầu tư kinh doanh. Bất cứ nơi nào đến, họ cũng tàn phá và hủy diệt môi
trường theo cách hệt như họ đối xử với con người và môi trường ở đất nước họ.
Những chuyện
“truyền kỳ” như thế đã chẳng còn lạ. Ở những nước như Việt Nam, nơi có hệ thống
luật môi trường lỏng lẻo (tương tự Trung Quốc) và không đủ sức kiểm soát luật đầu
tư ngay tại chính đất nước mình, tai họa mà Trung Quốc mang đến tất nhiên luôn
thảm khốc.
Các nước
châu Phi đã khóc ròng với những cuộc tàn phá môi trường của giới đầu tư Trung
Quốc. Chinafication
(Trung Quốc hóa) là thuật từ phổ biến để chỉ làn sóng đầu tư toàn cầu của Trung
Quốc.
Điều đáng
nói là không quốc gia nào giống Việt Nam khi nói đến những ảnh hưởng tiêu cực
mà Trung Quốc mang lại.
Không quốc
gia nào chịu ảnh hưởng
khủng khiếp của hiện tượng “Chinafication” bằng Việt Nam. Tại sao?
Không quốc
gia nào tự trói dân
tộc mình với một nước khác bằng “phương châm 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt”.
Không
chính phủ tỉnh táo và khôn ngoan nào lại cúi mình để mang chủ thuyết ngoại lai về
làm chủ thuyết chính trị cai trị đất nước.
Chẳng
dân tộc liêm sỉ nào
lại tôn sùng một “kim chỉ nam” khai sinh từ một kẻ ngoại quốc như Mao Trạch
Đông.
Hậu quả của
chính sách vĩ mô về quan hệ Trung Quốc-Việt Nam nói chung, không phải bây giờ,
mà từ thập niên 1940, cuối cùng đã biến Việt Nam thành một phiên bản của Trung
Quốc.
Bất kỳ cái
xấu nào xuất hiện ở Trung Quốc, từ gian lận bằng cấp, buôn gian bán dối, đầu độc
con người, bất tín và tàn ác, đạo đức suy bại, tham nhũng hệ thống, buôn thần
bán thánh…, đều có y hệt tại Việt Nam. Trung Quốc “xuất khẩu” rất nhanh những
điều tồi tệ vào Việt Nam và Việt Nam tiếp nhận rất nhanh những điều tồi tệ từ
Trung Quốc.
Việt Nam
đang bị khủng hoảng nhập siêu từ Trung Quốc. “Khủng hoảng nhập siêu” cả những
thuật từ mà Bắc Kinh thường dùng, từ “thế lực thù địch” đến “diễn biến hòa
bình”.
Căn cước định
tính của dân tộc Việt, nếu không được “cấp” hoặc được sao chép từ Trung Quốc,
thì cũng đang bị chính đất nước này can tâm đốt đi, thiêu rụi cùng với lịch sử
ngàn năm từng tự hào không bị đồng hóa bởi giặc phương Bắc. Vấn đề không chỉ là
những con cá chết do Formosa Hà Tĩnh gây ra.
Cái chết của một dân tộc đang mất gốc mới là điều đáng suy nghĩ và lo âu.
Rồi sẽ có
những “Formosa Hà Tĩnh” khác. Rồi sẽ có những kỳ “Đền Hùng thất thủ” tiếp theo.
Một quốc
gia không có căn cước luôn đi rất nhanh đến vực sụp đổ mà người ta thấy rõ nhất
ở cách mà con người sống và hành xử.
Một đất nước
đã tự đánh mất định tính dân tộc khi chấp nhận dùng hệ thống định tính khác để
quy chiếu và áp dụng thì sự lệ thuộc và ảnh hưởng là điều không thể tránh khỏi.
Nếu không đủ
dũng khí và can đảm tự cởi nút thòng lọng khỏi cái giá treo cổ lủng lẳng “16 chữ
vàng”, dân tộc này sẽ còn lại gì, ngoài mớ tro tàn của mảnh căn cước bị thiêu?
./.