Ảnh minh họa |
Họ còn cho rằng Việt Nam là nước nhỏ
và yếu hơn Trung Quốc nên phải nhịn nhục, chấp nhận thân phận nhược tiểu. Với
những lý lẽ này, họ biện minh cho mọi cách thức nhường nhịn và bằng mọi giá
tránh gây phiền phức cho Trung Quốc vì Trung Quốc giờ là một đại cường còn Việt
Nam là nước nhỏ đang lệ thuộc Trung Quốc mọi mặt.
Thật đáng buồn cho tâm thế hèn kém
xuất phát từ sự đánh giá tình trạng đất nước như thế này. Có thể thấy những trí
thức với tâm thế như vậy sẽ không trình bày được một tầm nhìn nào cho tương lai
và triển vọng của đất nước, có thể nói họ lo sợ sự trả đũa của Trung Quốc đến
tê liệt và không đưa ra được một giải pháp nào để đối phó. Có thể cho rằng nếu
đất nước có giàu hơn sẽ vẫn tồn tại những thành phần với tâm thế này. Vì họ, dù
có nghèo hay giàu, vẫn hèn như phân tích ở trên về góc độ cá nhân, gia đình.
Thế tại sao có thể nói sự diễn dịch
lịch sử của họ là ngụy biện. Thứ nhất, ông cha ta có thể đã chấp nhận là nước
nhỏ, cần giữ hòa khí (cấp thuyền, ngựa cho tàn quân của giặc ra về sau các cuộc
chiến; xin sắc phong vương rất hình thức) chứ ông cha ta không hèn.”
Tác giả cho
rằng các bước đi hiện tại của lãnh đạo quốc gia nên được đặt trong một tầm nhìn
dài hạn, chủ động hướng đến một di sản gồm một ý thức dân tộc độc lập, một non
sông phát triển vững bền, một Việt Nam cường thịnh đủ sức răn đe đối với bất cứ
thế lực bành trướng nào, đặc biệt từ Trung Quốc.
Đánh giá các tranh luận, trao đổi thời gian gần đây trên các
phương tiện truyền thông, qua mạng xã hội và một phần qua báo chí chính thống
về sự ngang ngược của Trung Quốc đối với các nước nhỏ hơn trong khu vực - đặc
biệt với Việt Nam, Trung Quốc đã tỏ ra không chút kiêng dè, ngang nhiên xâm
phạm vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam - người viết cảm nhận
mối quan hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai của đất nước, và nhận thấy có
ảnh hưởng nhân quả của hoàn cảnh đất nước đến tâm thế, đến tầm nhìn của trí
thức, doanh giới và chính quyền, từ đó hình thành nên di sản của họ cho tương
lai đất nước (tác giả nhấn mạnh hai thành phần trí thức và chính quyền như đại
diện cho dân một nước).
Tác giả cho
rằng các bước đi hiện tại của lãnh đạo quốc gia nên được đặt trong một tầm nhìn
dài hạn, chủ động hướng đến một di sản gồm một ý thức dân tộc độc lập, một non
sông phát triển vững bền, một Việt Nam cường thịnh đủ sức răn đe đối với bất cứ
thế lực bành trướng nào, đặc biệt từ Trung Quốc.
Hoàn cảnh,
tâm thế và tầm nhìn
Cha ông ta
hay nói cái khó bó cái khôn; nghèo sinh hèn. Đây là đúc kết phổ biến ở góc độ
cá nhân, gia đình. Nói “phổ biến” vì một mặt không hẳn sẽ đúng với mọi cá nhân,
gia đình gặp khó, và mặt khác có người không gặp khó vẫn không khôn hay giàu
nhưng vẫn hèn.
Có những cá
nhân, gia đình tuy nghèo nhưng tâm thế không hèn, quyết chí vươn lên, vượt qua
số phận vì bản thân (nếu là cá nhân) và bố mẹ (nếu là gia đình) có được tầm
nhìn - nhận thấy được cơ hội và kỳ vọng vào thay đổi trong tương lai, giữ vững
cơ nghiệp, bí quyết gia truyền… hay đơn giản là tập trung vào sự học, tránh
những cám dỗ tiền bạc nhất thời chẳng hạn, thì cá nhân, gia đình đó sẽ tuy
nghèo mà không hèn, thoát khỏi cảnh nghèo, có được sự kính trọng từ bên ngoài,
nhờ vào quyết tâm và tầm nhìn của mình. Có tầm nhìn sẽ giúp họ có quyết tâm vì
đã rõ con đường.
Đó là góc
nhìn cá nhân, gia đình. Ở phương diện quốc gia, một quốc gia là tổng thể các
gia đình, lãnh đạo quốc gia không được cho phép mình hèn kém vì nếu thế sẽ làm
quốc gia hèn kém. Lãnh đạo quốc gia không được thiếu tầm nhìn, vì nếu thế sẽ
làm bại hoại cả một dân tộc. Không thể như cá nhân hay gia đình bị cái khó bó
cái khôn, nghèo hèn, quốc gia có thể có những lúc nghèo nhưng không thể hèn,
trí thức (nghĩa rộng - dân) và chính quyền của quốc gia đó không được hèn kém
(tâm thế kém cỏi) mới mong có một tầm nhìn dài hạn, đi trước và chủ động trước
các thay đổi của thế giới và khu vực, không đợi đến khi thay đổi diễn ra rồi
thụ động đối phó và lệ thuộc.
Trí thức và
lãnh đạo quốc gia phải cảnh giác với tâm thế nhu nhược do bị ảnh hưởng bởi hoàn
cảnh khó khăn của đất nước – không để tâm lý cái khó bó cái khôn, nghèo nên hèn
giống như những cá nhân, gia đình thiếu trí tuệ và viễn kiến trong nuôi dạy con
cái mình. Quốc gia có thể nghèo (GDP thấp chẳng hạn) nhưng trí thức và lãnh đạo
quốc gia không được hèn thì mới có thể có một tầm nhìn xa rộng đưa đất nước
thoát nghèo mà vươn lên.
Gần đây, có
một số trí thức cho rằng nước ta nghèo nên phải nhịn nhục, đồng thời diễn dịch
lịch sử Việt Nam theo hướng này. Rằng Việt Nam nên học theo cha ông ta đã nhịn
Trung Quốc như từ bao đời phong kiến. Họ dẫn chứng về việc xin phong vương của
các vua Việt Nam và việc triều cống của các triều đình Việt Nam với các triều
đình Trung Quốc.
Họ còn cho
rằng Việt Nam là nước nhỏ và yếu hơn Trung Quốc nên phải nhịn nhục, chấp nhận
thân phận nhược tiểu. Với những lý lẽ này, họ biện minh cho mọi cách thức
nhường nhịn và bằng mọi giá tránh gây phiền phức cho Trung Quốc vì Trung Quốc
giờ là một đại cường còn Việt Nam là nước nhỏ đang lệ thuộc Trung Quốc mọi mặt.
Thật đáng
buồn cho tâm thế hèn kém xuất phát từ sự đánh giá tình trạng đất nước như thế
này. Có thể thấy những trí thức với tâm thế như vậy sẽ không trình bày được một
tầm nhìn nào cho tương lai và triển vọng của đất nước, có thể nói họ lo sợ sự
trả đũa của Trung Quốc đến tê liệt và không đưa ra được một giải pháp nào để
đối phó. Có thể cho rằng nếu đất nước có giàu hơn sẽ vẫn tồn tại những thành
phần với tâm thế này. Vì họ, dù có nghèo hay giàu, vẫn hèn như phân tích ở trên
về góc độ cá nhân, gia đình.
Thế tại sao
có thể nói sự diễn dịch lịch sử của họ là ngụy biện. Thứ nhất, ông cha ta có
thể đã chấp nhận là nước nhỏ, cần giữ hòa khí (cấp thuyền, ngựa cho tàn quân
của giặc ra về sau các cuộc chiến; xin sắc phong vương rất hình thức) chứ ông
cha ta không hèn.
Mong muốn
hòa bình nhưng không bao giờ nhân nhượng khi một tấc đất cương thổ bị xâm hại.
Ông cha ta chấp nhận là nước nhỏ (tiểu), cần giữ hòa khí để phát triển chứ
không hề yếu (nhược). Nguyễn Trãi đã rất dõng dạc “Dẫu cường nhược có lúc khác
nhau/Song hào kiệt đời nào cũng có”. Rất rõ ràng, ông cha ta còn xác định cường
- nhược hai bên có lúc này lúc khác chứ không phải lúc nào ta cũng yếu kém và
phương Bắc lúc nào cũng hùng mạnh. Ngay trong hoàn cảnh các triều đại Trung Hoa
hùng mạnh, thậm chí hung tợn, hừng hực khí thế, tràn sang xâm chiếm nước ta thì
cũng thường bị đánh tơi bời…
Một vài ví
dụ:
- Lê Đại
Hành/Lý Thường Kiệt phá Tống bình Chiêm, đặc biệt thời Lý Thường Kiệt nhà Tống
của Vương An Thạch là cực kỳ hưng thịnh.
- Trần Hưng
Đạo ba lần đại phá Nguyên Mông khi đế quốc Mông Cổ hùng mạnh nhất lịch sử (Việc
Mông Cổ và Mãn Thanh cai trị Trung Quốc sau này cũng là cái tát nặng nề vào cái
thiên hạ quan tự huyễn hoặc của chính Trung Quốc).
- Lê
Lợi/Nguyễn Trãi chống nhà Minh hùng mạnh, xây dựng nhà Lê có những giai đoạn
trong lịch sử phát triển rực rỡ không thua kém gì các lân bang.
- Tây Sơn
đánh tan tác quân nhà Thanh thời Càn Long cực thịnh…
- Thời Gia
Long, Minh Mạng, bờ cõi Việt Nam mở rộng chưa từng có. Nhà Thanh giai đoạn đó
không chắc hùng mạnh hơn Việt Nam…
Đó là chưa
bàn đến khía cạnh ngụy biện về bối cảnh. Thế giới ngày nay là toàn cầu hóa chứ
không phải thời quan hệ “cá lớn nuốt cá bé” giữa các nước như thời trung cổ.
Các quốc gia ngày nay hành xử với nhau còn phải tuân thủ theo luật pháp quốc
tế, các quốc gia lớn ngày nay không thể hành xử bạo ngược như thời phong kiến.
Nếu nước lớn
có tâm thế bạo ngược, bất tuân luật pháp quốc tế và các nước nhỏ nếu cứ duy trì
tâm thế hèn kém và không tin vào luật pháp quốc tế thì chính bản thân các nước
nhỏ đã tự đặt mình vào thế áp đặt của chính các nước lớn, và tự đánh mất sức
mạnh của thời đại mà mình đang dự phần. Hay có thể nói, các nước nhỏ nếu có tâm
thế như thế đã chấp nhận sự bất tuân luật pháp quốc tế của các nước lớn.
Tâm thế, tầm
nhìn và di sản
Có thể nói
rằng, khả năng lãnh đạo các nước nhỏ rơi vào tâm thế nhu nhược là lớn hơn lãnh
đạo ở các nước lớn, từ đó tầm nhìn hạn hẹp, mơ hồ thiếu tự chủ, tự biến mình
thành con cờ của các nước lớn bạo ngược. Muốn không để tình trạng này xảy ra,
lãnh đạo các nước nhỏ phải luôn xây dựng cho mình tâm thế mạnh mẽ, trí tuệ và
viễn kiến xa rộng, chủ động tham gia vào điều chỉnh các quan hệ quốc tế, từ đó
đưa đất nước tiến lên và mục tiêu sau cùng là một quốc gia vững mạnh cản trở
các đe dọa từ các nước lớn bạo ngược.
Nếu không có
tâm thế và tầm nhìn như vậy, Lý Quang Diệu đã không thể để lại một di sản là
một Singapore nhỏ bé mà vững vàng và được tôn trọng. Nếu không có tâm thế và
tầm nhìn như vậy, lãnh đạo các quốc gia như Nhật Bản khi canh tân đất nước thế
kỷ 19 và sau thế chiến II đã không thể biến nước Nhật thành siêu cường khiến
Trung Quốc không thể đe dọa (nếu không nói là ngược lại).
Tương tự như
vậy, nếu các lãnh đạo không có tầm nhìn để thấy được yêu cầu dân chủ hóa đất
nước trong thập niên 1970, 1980 thì các nước như Đài Loan và Hàn Quốc đã không
có được sự tin tưởng ủng hộ từ các nền dân chủ phương Tây, không có được sự bứt
phá về kinh tế và ý thức hệ so với Trung Quốc, để đưa đất nước thoát bẫy thu
nhập trung bình, tiến lên mạnh mẽ và hạn chế những đe dọa thôn tính từ Trung
Quốc.
Cũng như các
nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và xa Trung Quốc hơn một chút về mặt địa lý
là Singapore, Việt Nam là một nước tương đối nhỏ so với Trung Quốc. Định mệnh
đã đặt Việt Nam bên cạnh một quốc gia khổng lồ về mọi phương diện. Đối với một
quốc gia như Trung Quốc, dễ nhận thấy rằng lãnh đạo của họ một cách tự nhiên
thủ đắc một tâm thế bạo ngược và tầm nhìn xa rộng.
Với dân số
gần một phần năm dân số thế giới, lãnh đạo của họ không có tầm nhìn, tham vọng
chiếm đoạt thiên hạ mới là điều khó hiểu hơn. Nói nôm na, trong cuộc chơi 5
người dễ nhận ra rằng một cá nhân sẽ dễ nảy sinh tham vọng và dễ có cơ hội
tranh đoạt làm bá chủ hơn. Nếu so với Việt Nam, dân số một phần bảy mươi của
thế giới, một mình Việt Nam sẽ gần như không có tâm thế đoạt thiên hạ, bắt 69
người kia làm chư hầu cho mình.
Như vậy,
Việt Nam đã luôn thường trực đối mặt với sự bạo ngược của Trung Quốc, luôn chịu
ảnh hưởng tiêu cực và trực tiếp bởi tầm nhìn của lãnh đạo Trung Quốc. Trong
hoàn cảnh như vậy, nếu trí thức và lãnh đạo Việt Nam không cảnh giác với tâm
thế nhu nhược vốn dĩ là rào cản cho một tầm nhìn xa rộng; không sở hữu một tầm
nhìn xa rộng, đoán định được những thay đổi và cơ hội của thời cuộc mà cứ lay
hoay hỏi, bàn và giải quyết hậu quả của các vấn đề trong nước và các biến động
địa chính trị một cách bị động, họ sẽ để lại một di sản nhãn tiền là một đất
nước “không muốn phát triển”, doanh giới thiếu động cơ vươn lên, một giới trí
thức lười suy nghĩ, một chính quyền ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc vốn là
nước luôn xuất hiện những lãnh đạo với tâm thế bạo ngược và tầm nhìn thôn tính
thiên hạ, thiên hạ là thần dân của Trung Hoa (thiên hạ quan).
Dù biết rằng
trong lịch sử, thiên hạ quan của lãnh đạo Trung Hoa có lúc đã bi đánh cho vỡ
mặt (Mông Cổ, Mãn Thanh từng cai trị Trung Hoa, cũng như nhà Thanh với tâm thế
hèn kém vẫn tự coi mình là trung tâm vũ trụ, đã bị tám nước liên quân đánh cho
tơi tả).
Cần phải
nhận thức rõ ràng rằng, lãnh đạo Trung Quốc bao đời vẫn xem thiên hạ là chư hầu
của họ, tất cả các học thuyết phát triển của họ dù vay mượn từ bên ngoài cũng
đều phục vụ cho việc làm bá chủ thiên hạ mà trước hết là thôn tính các nước lân
bang hèn kém. Nếu các nước nhỏ lệ thuộc vào ý thức hệ của họ, xem đây là tầm
nhìn chung, sẽ dẫn đến lệ thuộc, mất tính độc lập trong tư duy. Do không có một
tầm nhìn độc lập và chủ động thì cuối cùng sẽ bị rơi vào bẫy, phục tùng thiên
hạ quan của họ.
Việc Trung
Quốc leo thang các hoạt động quấy phá ở Biển Đông, đặc biệt sự kiện bãi Tư
Chính, đã bộc lộ rõ tham vọng của chính quyền Trung Quốc trong việc độc chiếm
Biển Đông. Việt Nam cần thể hiện rằng các vấn đề về biên giới lãnh thổ là không
thể bị ràng buộc bởi bất cứ rào cản ý thức hệ nào, dù có ngụy trang bằng “tầm
nhìn chung”, nhằm trói tay Việt Nam trong việc lên tiếng bảo vệ lãnh thổ của mình.
Việt Nam cần cẩn trọng đối với cái gọi là “tầm nhìn chung” mang màu sắc ý thức
hệ này, nó có thể khiến chúng ta mất đi sự ủng hộ mạnh mẽ của các quốc gia
khác.
Cuối cùng,
việc học hỏi trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội có thể là cần thiết. Tuy nhiên,
nếu quá rập khuôn sẽ dễ dẫn đến sự lệ thuộc và tâm lý ngày càng ỷ lại vào mô
hình Trung Quốc. Từ đó dễ dẫn đến sự triệt tiêu sức sáng tạo và tầm nhìn độc
lập. Nếu lãnh đạo và giới trí thức trong nước không còn tham vọng tìm ra hướng
đi riêng, trang bị một tầm nhìn xa rộng, chủ động cho mình thì sẽ không thể dẫn
dắt đất nước đến phồn vinh, mạnh mẽ - là di sản cho con cháu đời sau gìn giữ và
phát triển.
Bài học các
nước Đông Á nêu ở trên trải qua hai thế kỷ đã chỉ rõ: độc lập tư duy, độc lập
về tầm nhìn riêng của dân tộc là khởi đầu của tự cường và thịnh vượng!
“Dẫu cường
nhược có lúc khác nhau/Song hào kiệt đời nào cũng có”… Nguyễn Trãi từng nói.
LÊ VĨNH
TRIỂN