Mai An
Nguyễn Anh Tuấn
Trong lịch sử văn hoá-tư tưởng nước ta, có những bản
tuyên ngôn nổi tiếng tới muôn đời: đó là bản tuyên ngôn lập quốc đầu tiên bằng
“Thiên đô chiếu” do đức Lý Thái Tổ viết, bản tuyên ngôn chiến trận đời Trần
bằng “Hịch tướng sĩ văn” tương truyền của Đại vương Trần Quốc Tuấn thảo, bản
tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Đại Việt bằng áng thiên cổ hùng văn “Bình
Ngô đại cáo thiên hạ” do vị Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi chấp bút, bản tuyên
ngôn độc lập thời hiện đại của nước VNDCCH do Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt quốc
dân đồng bào đọc… Nhưng, ở đầu thế kỷ XVII, có một bản khải văn cũng mang tầm vóc của một bản tuyên ngôn
rất đáng đi vào lịch sử thì còn được ít người biết đến. Đó là bản khải văn có
thể gọi tên: “Lấy dân làm gốc”(1).
Lần đầu tiên được đọc bài khải văn do nhà văn Hoàng
Quốc Hải giới thiệu, tôi thấy sững sờ, và có cảm giác rõ rệt: dường như tác giả
đã viết nó cho cả ngày hôm nay nữa! Đây là một luận văn chính trị sắc bén, chứa
đựng những suy nghĩ thấu đáo về thời cuộc, tràn trề xúc cảm, chan chứa tình thương
dân, hôi hổi tính thời sự, theo tôi rất đáng được chọn đưa vào SGK phổ thông
trung học!
Vào thời xuất hiện bản khải văn, chính quyền Lê-Trịnh
tuy đã tương đối ổn định, trong nước đã tạm yên bình, nhưng cuộc nội chiến với
nhà Mạc lên miên suốt mấy chục năm đã khiến cho sản xuất nông nghiệp đình đốn,
làng xóm tiêu điều, nhiều năm mất mùa liên tiếp, trong khi đó nạn nhũng nhiễu
dân lành của quan lại đã trở thành hiện trạng nhức nhối có nguy cơ làm nổ tung
cơ cấu xã hội, đưa cả dân tộc tới chỗ diệt vong… Trước tình hình đó, vào tháng
9 năm 1612, Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Thì (NDT) cùng Giám sát ngự Phạm Trân và
các đồng liêu đã dâng lên Bình An vương (tức chúa Trịnh Tùng) bài khải bộc lộ
mối quan tâm của các ông trước hiện tình triều chính, đồng thời nêu lên “những
việc chính sự cấp thiết phải tu chỉnh để chuyển tai họa thành điềm lành, trên
hợp với ý trời, dưới thuận với lòng người”.
Toàn bộ văn bản bài
khải như sau(2):
“Dân là gốc của nước, đạo trị nước chỉ là yên dân mà
thôi. Lại nghĩ rằng trời với dân cùng một lẽ, lòng dân vui thích tức là được ý
trời rồi. Cho nên người giỏi trị nước, yêu dân như cha mẹ yêu con, thấy họ đói
rét thì thương, thấy họ lao khổ thì xót, cấm hà khắc bạo ngược, ngăn thuế khoá
bừa bãi, để cho dân được thoả sống mà không còn tiếng sầu hận oán than. Thế mới
là biết đạo trị nước, biết cách sai dân. Nay Thánh thượng (chỉ chúa Trịnh) để ý tới dân, thi hành một chính sách
cốt để nuôi dân, ban ra một mệnh lệnh, cũng nghiêm răn nhiễu dân. Lòng yêu dân
đó, thực là lượng cả của trời đất, cha mẹ vậy.
Nhưng kẻ thừa hành thì chưa biết thể theo đức ý của bề
trên, chỉ chăm làm điều hà khắc bạo ngược, đua nhau xa xỉ, coi một huyện thì
làm khổ dân một huyện, coi một xã thì làm khổ dân một xã, mọi việc nhiễu dân,
không điều gì không làm, khiến dân trong nước, con trai thì không có áo, con
gái thì không có váy, tiệc hát xướng không còn, lễ cưới xin không đủ, sống nuôi
chết đưa không trông cậy vào đâu, ăn uống chi dùng hàng ngày mọi bề đều thiếu,
dân mọn nghèo hèn cho đến sâu bọ cỏ cây đều không sống nổi.
Vì thế, cảm động đến đất trời, khiến cho lòng trời ở
trên không thuận, tai hoạ lũ lụt tràn ngập quá mức thường, chắc là có quan hệ
với chính sự hiện nay, há chẳng nên sợ hãi, tu tỉnh, nghĩ đến tội lỗi gây nên
thế sao? Nếu biết thi hành chính sách bảo vệ dân thì dưới thuận lòng người,
trên hợp ý trời, và chuyển tai hoạ thành điềm lành, lúa được mùa luôn, người
người no đủ, trong nước thái bình, cơ nghiệp ức muôn năm của nước nhà từ nay
cũng do đó mà bền vững lâu dài vậy”(3).
Danh nhân Nguyễn Duy Thì (1571-1651), tác giả chính
của bài khải trên, là một trong những nhân vật nổi tiếng của vùng đất Yên Lãng,
Bình Xuyên, Vĩnh Phúc. Sau đây là vài dòng tiểu sử của cụ do một nhà nghiên cứu
đúc kết: Năm 1598, khi 27 tuổi, Nguyễn Duy Thì thi đỗ Hoàng giáp. Tên tuổi của ông
được khắc trên bia đá tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám… Là một trí thức có vị trí và
vai trò quan trọng trong xã hội Việt Nam thời Lê Trung Hưng, Nguyễn Duy Thì đã
đem hết sức mình cống hiến cho sự ổn định tình hình chính trị đất nước ở buổi
đầu thời Lê Trịnh, trong thì giữ yên chính trị, ngoài thì trấn áp phản loạn,
khôi phục mối bang giao hữu hảo với phía Bắc, giữ gìn tình cảm truyền thống
người Việt với nhà Nguyễn ở phía Nam; một lòng trung quân, ái quốc, thương dân.
Ông được người đời nhờ cậy và tôn trọng trong suốt 30 năm; Phủ đường nơi ông
làm việc khi về quê, sau khi ông mất, nhân dân sử dụng làm nơi hương đăng thờ
phụng, tưởng nhớ công lao của ông suốt hơn 350 năm nay. Nhà sử học Phan Huy Chú
đã xếp ông vào hàng 38 vị phù tá có công lao tài đức của nhà Lê Trung Hưng.
Xin trở lại với bài khải.
Mở đầu bài khải, bằng sự khôn khéo tỉnh táo của một
chính trị gia chuyên nghiệp, cụ NDT đã đưa ra những chân lý không ai chối cãi
nổi: “Dân là gốc nước, đạo trị nước là yêu quý dân mà thôi. Trời và dân theo
một lẽ, lòng dân vui thích tức là được ý trời. Vì thế người giỏi trị nước phải
yêu dân như cha mẹ yêu con, thấy dân đói rét thì thương, thấy họ lao khổ thì
xót, cấm hà khắc bạo ngược, ngăn thuế khoá bừa bãi, để cho dân được thoả sống
mà không còn tiếng sầu hận oán than. Thế mới là biết đạo trị nước, biết cách
sai dân”. Những điều này-như là cái lẽ Trị quốc An dân sáng tỏ tựa mặt trăng
mặt trời mà người cầm quyền của một quốc gia cần lấy làm lòng thì đã được nhiều
người trước cụ Nguyễn Duy Thì nói đến, tiêu biểu là danh nhân Nguyễn Trãi…
Nhưng ngay ở đoạn mở đầu có tính chất đặt nền tảng như trên, ta có thể thấy
trái tim cụ NDT đã rớm máu thế nào, những lời thốt ra không chỉ là kinh điển
Nho gia mà chính là đòi hỏi của Lương tri thông thường lẫn đòi hỏi của Sứ mệnh
“chăn Dân” được đặt trong tình thế kêu gọi thiêng liêng!
Với cái tiền đề nặng đầy lý trí và tràn trề cảm xúc
như vậy, cụ NDT đã khéo léo đưa ngưòi cầm đầu QG vào cuộc: “Nay Thánh thượng (chỉ chúa Trịnh) để ý tới dân, thi hành một chính sách
cốt để nuôi dân, ban ra một mệnh lệnh, cũng nghiêm răn nhiễu dân. Lòng yêu dân
đó, thực là lượng cả của trời đất, cha mẹ vậy”. Tháng 4 năm Quý Tỵ (1593), vua
Lê Thế Tông trở về Thăng Long, đánh dấu sự phục hưng của triều Lê nhưng chỉ là
trên danh nghĩa, còn thực quyền đã nằm trong tay chúa Trịnh. Còn kể từ năm
1527, khi Mạc Đăng Dung đoạt ngôi triều Lê, chế độ quân chủ Đại Việt lâm vào
cuộc khủng hoảng toàn diện, những cuộc tranh giành quyền lực gây nên nội chiến
Lê-Mạc, Trịnh-Nguyễn chia cắt đất nước. Khắp nơi, nông dân nổi dậy chống lại
chế độ quân chủ áp bức tàn bạo. Vài nhà nghiên cứu lịch sử đã có nhận định khá
thống nhất: các vua Lê thời đó đều trẻ người non dạ trước tiền đồ của giang sơn
xã tắc, và Trịnh Tùng, muốn giữ vững ngôi vị, ngoài tài năng cai trị và cầm
quân, buộc phải trở thành người cứng rắn, quyết đoán và thậm chí tàn nhẫn; với
tài năng sẵn có trong thời loạn, ông đã trở thành kẻ gian hùng khuynh đảo triều
chính nhà hậu Lê… Những dòng văn khải trên có tác dụng một mũi tên trúng hai
đích: vừa để nhấn mạnh cái phần tài năng trị quốc, khẳng định mặt tích cực
trong các chính sách của Trịnh Tùng; đồng thời cũng ngầm đem cái sức mạnh
nguyên thuỷ của “Thiên đạo” (khái niệm của Lão Tử) diễn đạt theo cách dân dã và
Việt hoá là: “lượng cả của trời đất, cha mẹ” để răn dạy bậc cầm quyền; điều đặc
biệt có ý nghĩa là cụ đã lồng vào cái “Thiên đạo” xa lạ kia bằng nội dung “Lòng
yêu dân”! Là một trí thức tỉnh táo, ông thừa hiểu bản tính của con người là ham
lợi, là khát khao quyền lực, là ước nguyện đè nén người khác, như triết gia Hàn
Phi đời Chiến Quốc đã khái quát- nhất là chúng lại nằm ở một người đứng trên
đầu cả thiên hạ như Trịnh Tùng! Nhưng, trong cái thời loạn đó, cụ NDT cũng hiểu
hơn ai hết, cần phải có người có đủ bản lĩnh, tài năng và quyết đoán như Trịnh Tùng
để giữ sự bình yên cho Đất nước. Nhà sử học Phan Huy Chú đã viết về Trịnh Tùng
như sau: “Ông tính khoan hậu, yêu người, khéo vỗ về tướng sĩ… dùng binh như
thần… Ông thực sự làm chúa cầm quyền chính, công lao sự nghiệp danh vọng lừng
lẫy…”(4). Dù Phan Huy Chú là sử gia đương thời bắt buộc phải nói sao cho đẹp
lòng quân vương, song rõ ràng cũng phải có ít nhiều sự thật trong những dòng sử
trên! Và khác với nhà triết học chính trị người Ý N. Machiavelli, người đã
khuyên bậc quân vương rằng: “Quân vương phải biết học hỏi từ bản tính của dã
thú, biết kết hợp sức mạnh của sư tử với sự tinh ranh của cáo. Sư tử không thể
tự bảo vệ mình tránh các cạm bẫy còn cáo thì không chống lại được sói”, cụ NDT
nước ta, sống sau Machiavelli gần hai thế kỷ, đã khuyên bậc quân vương của mình
điều hệ trọng bậc nhất: Cần phải yêu Dân, quý Dân thực sự, bởi lẽ Dân là gốc
của nước; và yêu quý Dân chính là cái gốc của đạo trị Dân. Dân không phải là kẻ
thù, nên không thể xử sự với Dân như loài dã thú đã làm! Điều này, ta có cảm
tưởng cụ NDT đang nói trực tiếp với những người Việt Nam của thế kỷ XXI!
Những cuộc khởi nghĩa nông dân, những cuộc đấu đá
huynh đệ tương tàn vì quyền lực và đất đai giữa các thế lực chính trị, mối đe
doạ ngoại xâm thường trực từ phương Bắc…, tất cả đều nguy hiểm cho an ninh quốc
gia, song đều không nguy hiểm bằng hoạ nội xâm do sự thối nát tự bên trong
chính quyền, những kẻ “ăn lộc của dân” nhưng lại “đền ơn kẻ cấy cày” bằng sự
cướp đoạt trắng trợn mồ hôi nước mắt của dân! Cụ NDT biết rõ điều này, và bằng
mọi cách để Trịnh vương cũng phải giật mình cảnh giác. Vì thế, trong tâm trạng
bức xúc đến cuồng nộ, tiếp theo, tác giả tờ khải cấp báo và lên án gay gắt tình
trạng đe doạ sự tồn vong của Đất nước hiện thời, đó là chính sự hà khắc, quan
lại bạo ngược, nạn tham nhũng hoành hành, kẻ “phụ mẫu chi dân” từ trên xuống
dưới thì bất chấp đạo lý, luật pháp và vơ vét tận máu mủ dân lành: “Chỉ vì kẻ
thừa hành chưa biết thể theo đức ý của bề trên, chăm làm sự hà khắc bạo ngược,
đua đòi xa xỉ. Coi một huyện thì làm khổ dân một huyện, coi một xã thì làm khổ
dân một xã”. Những điều đó đã dẫn tới sự bần cùng hóa của tầng lớp “dân đen con
đỏ”: “khiến cho dân trong nước, con trai thì không có áo, con gái thì không có
váy, tiệc hát xướng không còn, lễ cưới xin không đủ, sống nuôi chết đưa không
trông cậy vào đâu, ăn uống chi dùng hàng ngày mọi bề đều thiếu, dân mọn nghèo
hèn cho đến sâu bọ cỏ cây đều không sống nổi”.
Rõ ràng là, dù cụ NDT không nói ra, song người đương
thời và người hôm nay đều có thể hiểu rằng, những kẻ có quyền hành mà tha hoá,
tham lam, “phàm những việc nhiễu lạm, không việc gì không làm”, “ăn không chừa
thứ gì của Dân” (theo cách nói của một người có chức quyền hiện nay), thì chúng
chẳng khác gì giặc nội xâm hiểm độc nhất, chúng tàn phá tài nguyên đất nước,
huỷ hoại lòng tin của mọi người đối với hệ thống công quyền, thiêu huỷ máu
xương của bao thế hệ người đã đổ xuống cho Tổ quốc, bần cùng hoá người dân-
những người đang nai lưng làm ra của cải xã hội và đóng thuế để nuôi sống bộ
máy cai trị! Nhà nho giàu tâm hồn thi sĩ NDT hiểu thấu nỗi khổ ải cùng cực của
người dân lành trước tai hoạ nội xâm đó và hình tượng hoá chúng một cách sinh
động trong những dòng văn rung động nỗi xót xa thương cảm lạ thường, hiếm thấy
trong văn chương trung đại.
Phần cuối của bài khải nói tới luật nhân quả nhỡn
tiền, kể ra những thiên tai khủng khiếp mà lũ lụt là tiêu biểu, theo tác giả,
đó là ông trời giáng họa xuống nhân gian, bởi trời và người vốn có mối giao cảm
với nhau (“Thiên nhân tương cảm”, theo quan niệm của Nho giáo). Sử đã ghi lại
chuyện “núi Tản Viên bị lở đến hơn 12 trượng”, một huyện ở Hà Bắc “trời mưa máu
suốt một ngày một đêm”(5)… Những hiện tượng thiên tai này có liên quan đến nhân
tai, đến chính sự hà khắc, lục đục, thối nát, dân lầm than đói khổ, oán thán
ngút trời. Và trời đã gieo tai họa như để thức tỉnh người cầm quyền cần phải
thay đổi đường lối chính sách kíp thời, cần hành động sao để cái ác, cái xấu
buộc phải chùn tay, nếu không, Đất nước sẽ phải chịu những hậu quả nặng nề hơn
nữa! Tờ khải viết tiếp: “Vì thế cảm động đến đất trời, khiến cho lòng trời ở
trên không thuận, tai họa lũ lụt tràn ngập quá mức thường, chắc là có quan hệ
đến chính sự hiện nay, há chẳng nên sợ hãi, tu tỉnh, nghĩ đến tội lỗi gây nên
thế sao?”. Phải chăng, đây cũng là những lời bộc trực thẳng thắn, trực tiếp
khuyên nhủ, nhắc nhở chúa (ở đây là Trịnh Tùng): “hãy nên sợ hãi, tu tỉnh, nghĩ
đến tội lỗi” của mình! Ai dám bạo gan như cụ NDT? Bạo gan hơn, cụ còn thay mặt
đạo trời đạo người vạch ra cái đòi hỏi cấp bách của thời cuộc cho người cầm
quyền tối cao: “Nếu biết thi hành chính sách bảo vệ dân thì dưới thuận lòng
người, trên hợp ý trời, và chuyển tai hoạ thành điềm lành, lúa được mùa luôn,
người người no đủ, trong nước thái bình, cơ nghiệp ức muôn năm của nước nhà từ
nay cũng do đó mà bền vững lâu dài vậy”.
Kết quả là: “Triết vương (Trịnh Tùng) khen và nhận
lời. Năm Bính Thìn (1616) ông được đổi sang Đô ngự sử, rồi lại thăng Tả thị
lang bộ Lễ”(6). Điều quan trọng nhất là chúa không chỉ lắng nghe, khen ngợi,
thăng chức cho cụ, mà còn từ đó có những hành động cụ thể góp phần thay đổi
chính sự. May thay, chính thể của chúa Trịnh Tùng đã không trở thành “con quái
vật máu lạnh”-theo cách nói của một triết gia phương Tây là Nietzsche về một
nhà nước dửng dưng với mọi tâm tư nguyện vọng của các tầng lớp dân chúng và chỉ
lo giữ cho sự tồn tại của chính mình! Sử cũ ghi rằng, năm sau, tức khoảng cuối
năm 1613, “Mùa đông tháng 11, sai triều thần chia nhau đi các xứ xét hỏi nỗi
đau khổ của dân gian. Người phiêu dạt thì tha tạp dịch ba năm để về an cư phục
nghiệp”(7). Sức mạnh của những lời nói chân thực và chứa đựng chân lý của kẻ sĩ
đối với người cầm quyền thật màu nhiệm, tuy không phải là nhiều trong lịch sử
xưa nay…
Ngày hôm nay, đọc lại và ngẫm nghĩ về bài khải văn
trên, chúng ta có thể dễ dàng trực tiếp liên hệ tới thời cuộc nóng bỏng, và có
thể dễ dàng chỉ ra các hoạ nội xâm là gì, những kẻ nội xâm là ai… đang tàn phá
khủng khiếp Đất nước này! Còn riêng tôi thì nhớ ngay đến một bài viết còn chưa
ráo mực cũng của một nhà sử học, nói về 5 điều ngụy biện của những quan chức
“vì dân”- nói trắng ra đang là kẻ nội xâm nguy hiểm: “Những người phụ trách các
đập thủy điện xả lũ vô trách nhiệm, coi cuộc sống, sinh mạng của người dân như
cỏ rác phải bồi thường và phải bị truy cứu trách nhiệm nghiêm khắc. Những cơ
quan lập ra dự án, tạo ra vô số tai ương cho đất nước cũng phải chịu trách
nhiệm tương tự. Không thể có một đất nước mà mọi sai lầm đều đổ hết lên đầu dân
còn quan chức cứ cò cưa ngụy biện vòng quanh, ngang nhiên ve vẩy những nụ cười
thỏa mãn vô lương”(8).
Và có rất nhiều bản “khải văn” tâm huyết thời hiện đại
nhiều năm qua kêu gọi việc “thi hành chính sách bảo vệ dân” một cách xứng đáng
và tử tế đã được dâng lên các “chúa thượng” kiểu mới, liệu chúng đã/sẽ được
lắng nghe tới đâu? Đáng mừng là những phát súng lệnh đã khai mở ròn rã để tiêu
diệt giặc nội xâm. Mới đây nhất, Phó thủ tướng Chính phủ Trương Hoà Bình đã
nói: tình trạng tham nhũng và lãng phí hiện nay đang đe doạ đến sự phát triển
của đất nước. Tham ô, lãng phí và quan liêu là kẻ thù của nhân dân, mà đấu
tranh chống tham ô, lãng phí là đấu tranh chống “kẻ địch bên trong” (cũng có
nghĩa là nội xâm)(9).
Toàn dân Việt trong nước và nước ngoài đang chờ đợi,
và hy vọng.
Hà Nội, đầu tháng 11.
2016
N.A.T.
__________
(1) Tâu là lời dâng lên vua, khải là lời dâng lên chúa.
(2) Hoàng Văn Lâu
& Ngô Thế Long dịch từ chữ Hán.
(3) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Nxb. Văn hoá Thông tin, HN, 2000. Tr.
335-336. Bản khải này cũng được chép lại đầy đủ trong bộ sách đồ sộ của Phan
Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb. Giáo dục, Hà Nội,
2007. Tr. 320-321.
(4) Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, tr. 251.
(5) ĐVSKTT, Sđd, Tập III, tr. 335.
(6) Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, tr. 321.
(7) ĐVSKTT, Sđd, tr. 337.
(8) Ngụy biện ác tàn - Hà Văn Thịnh, dẫn theo vuongthuc.wordpress
& http://chieulang.com.vn/chieu-lang/tin-trang-chu/chi-tiet/nguy-bien-ac-tan-ha-van-thinh-9891.html
(9) Báo cáo tại Hội
nghị lấy ý kiến cho dự thảo Đề án tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung
ương 3 (khoá 10) về phòng chống tham nhũng, lãng phí, tổ chức sáng 27.10.2016
tại Hà Nộ
Nguồn: Theo Blog Trần Nhương