Thành
phố Hồ Chí Minh, ngày 20.5.2016
Kính
gửi Ngài Tổng thống Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ Barack Obama
Thưa Ngài,
Chúng tôi rất
vinh dự và có trách nhiệm gửi thư trực tiếp đến Ngài Tổng thống qua Tổng Lãnh sự
Quán Hoa Kỳ tại Thành phố Hồ Chí Minh để bày tỏ ý kiến và nguyện vọng của chúng
tôi, một nhóm trí thức, nhân sĩ Sài Gòn nhân chuyến thăm của Ngài đến Việt Nam
và sẽ thăm thành phố Hồ Chí Minh.
Với lòng kính trọng
và tin tưởng, chúng tôi muốn trình bày với Ngài Tổng thống mấy vấn đề sau đây:
1.
Chúng tôi hiểu rất rõ tầm quan trọng có ý nghĩa sống còn của dân tộc Việt
Nam trong mối quan hệ mật thiết giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ, hiện đang là đối tác toàn diện trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là
trên lĩnh vực kinh tế, thương mại và đầu tư với những bước tiến vượt bực trong
những năm qua từ khi có Hiệp ước Thương Mại Việt Mỹ sau khi Việt Nam gia nhập
WTO.
Những
thành tựu đó là điểm tựa cho những hoạt động khác, đưa sự phát triển của Việt
Nam bước vào một giai đoạn mới để giảm bớt sự lệ thuộc quá nguy hiểm bởi sự
thao túng và áp lực của Trung Quốc. Bằng những hành động cụ thể của đối tác
đáng tin cậy để trở thành đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Mỹ có ý nghĩa hết
sức quan trọng đối với tình hình đất nước chúng tôi hiện nay trong bối cảnh khu
vực và quốc tế đang có nhiều biến động. Gay gắt nhất là hành động hung hãn của
Trung Quốc trên Biển Đông nhằm thực hiện “giấc mơ Trung Hoa” của Tập Cận Bình,
một Frankenstein thế kỷ XXI như cảnh báo của Tổng thống Nixon trước khi qua đời
“Chúng ta có thể đã tạo ra con quái vật
Frankenstein”.
2.
Chẳng phải hôm nay, mà trước đây hơn nửa thế kỷ, Việt Nam đã biểu tỏ mong muốn
có mối quan hệ chiến lược với Hoa Kỳ. Trước và
sau ngày đọc Tuyên ngôn Độc lập 2.9.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi 14 lá thư cho lãnh đạo Hoa Kỳ, trong
đó có Tổng thống Truman, đề nghị thiết lập quan hệ “hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ”. Ngay sau Tuyên ngôn Độc lập của Hồ
Chí Minh, trong diễn văn tiếp theo Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: “Mỹ là nước dân chủ, không có tham vọng về đất đai mà lại có công nhất
trong việc đánh bại kẻ thù của ta […] nên ta coi Mỹ như một người bạn tốt”. Cơ hội lịch sử đã bị bỏ lỡ và cả hai nước
chúng ta đã phải gánh chịu những đau thương mất mát quá lớn không đáng có.
Một Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, với mục tiêu Độc lập, Tự do,
Hạnh phúc như đã từng Tuyên bố trước thế giới ngày 2.9.1945, trải qua bao thăng
trầm biến động, nay đang cố gắng hội nhập và đóng góp có trách nhiệm cho cộng
đồng khu vực và quốc tế là phù hợp với lợi ích của hoà bình, an ninh, hợp tác
và phát triển ở Châu Á - Thái Bình Dương và các nước khác trên thế giới. Một
Việt Nam giàu mạnh, phát triển bền vững, có đủ tiềm lực kinh tế và quốc phòng
là phù hợp với lợi ích của Hoa Kỳ. Cùng chung lợi ích, đó là nhân tố quyết định
cho việc thắt chặt mối quan hệ đối tác toàn diện sớm trở thành đối tác chiến
lược Việt Nam – Hoa Kỳ đang là đòi hỏi nóng bỏng nhất hiện nay, cũng là khát
vọng mãnh liệt của nhân dân Việt Nam chúng tôi hôm nay.
Là một khát vọng mãnh liệt, vì chúng
tôi đang đối diện với những áp lực nặng nề của Trung Quốc, mà Trung Quốc thì
hiểu rất rõ rằng Mỹ
là cường quốc duy nhất có khả năng ngăn chặn và đập nát âm mưu độc chiếm
biển Đông của họ. Họ biết rằng, nếu có một Hiệp định An ninh Việt Mỹ, thì
đó sẽ là lưỡi gươm sắc bén đủ để chặt đứt cái lưỡi bò tham vọng ngông
cuồng và lố bịch mà họ đang theo đuổi.
Vì
thế, nếu Mỹ tuyên bố dỡ bõ lệnh cấm vận vũ khí sát thương cho Việt
Nam và cam kết hỗ trợ Việt Nam trong cố gắng bảo vệ chủ quyền chính
đáng và hợp pháp của mình thì đó là một hành động có ý nghĩa nhất đối với
đất nước chúng tôi hiện nay. Chính vì thế, chúng tôi chân thành cám ơn Thượng
nghị sĩ John McCain với thông cáo ngày 18.5.2016 khẳng định “Chúng ta tăng cường khả năng của Việt Nam
đóng góp vào hoạt động hàng hải bằng việc gỡ bỏ lệnh cấm vận bán vũ khí với
chính phủ Việt Nam”.
Cùng
với điều đó, việc hoàn tất tiến trình Việt Nam tham
gia TPP sẽ tạo điều kiện đẩy mạnh đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam, tạo điều kiện
thuận lợi hơn nữa cho thương mại giữa hai nước, giữa Hoa Kỳ và ASEAN bởi lẽ
hàng hoá Hoa Kỳ sẽ vào thị trường Việt Nam của hơn 90 triệu dân, được kết nối
với thị trường ASEAN hơn 600 triệu dân. Việc Hoa Kỳ sớm công nhận nền kinh tế
thị trường của Việt Nam là bước đi cần thiết cho cả hai bên theo hướng đó. Cũng
vì thế, chúng tôi cám ơn Ngoại trưởng John Kerry khi ông nhìn nhận “Không ai có thể tưởng tượng nổi Hoa Kỳ và Việt Nam bắt tay cùng mười
quốc gia khác để đạt được một cơ hội giao thương vô giá”.
Theo
chúng tôi, nếu thực hiện thành công những vấn đề nói trên, những điều đang được
thế giới quan tâm theo dõi, Ngài sẽ đi vào lịch sử với những quyết định có tầm
cỡ lịch sử bằng Hiệp Định TPP, bình thường hóa quan hệ với Cuba sau hơn 60 năm
đối đầu căng thẳng, thỏa thuận hạt nhân với
Iran, và nay là bãi bỏ lệnh cấm vận vũ khí, mở rộng cửa cho Việt Nam vào
TPP, một quốc gia cựu thù mà hội chứng Việt Nam vẫn chưa phai trong lòng nước Mỹ.
Chúng tôi hoàn toàn tin tưởng vào sự sáng suốt và bản lĩnh của Ngài như chúng
tôi đã chứng kiến.
3.
Để làm được những điều ấy, chúng tôi hiểu rõ Ngài phải đối diện với những thách
thức khá gay gắt, mà đáng buồn nhất trước hết – vì lí do nào đó – lại là với
thái độ không minh bạch và sòng phẳng của một bộ phận những người trong bộ máy
quyền lực của Việt Nam về mối quan hệ Việt-Mỹ đang chịu áp lực nặng nề và sự
chi phối thường xuyên và xảo quyệt của Bắc Kinh.
Thế
lực này bị ràng buộc về mặt lợi ích và cái ghế quyền lực được khoác cái mặt nạ
cùng chung ý thức hệ Xã hội chủ nghĩa với cộng sản Trung Quốc. Những vi phạm về
nhân quyền đặc biệt được thể hiện rõ trong việc đàn áp đánh đập dã man những
người tuần hành ôn hòa trong tay không có một tấc sắt, kể cả phụ nữ và trẻ em
nhằm thực hiện quyền biểu tình vốn đã được ghi trong Hiến Pháp, nhằm lên tiếng
trước thảm họa môi trường, cá biển chết suốt dọc bờ biển Miền Trung. Nhiều nghi
vấn đặt ra, tại sao người ta lại đàn áp người dân như vậy trước chuyến thăm của
Tổng thống Hoa kỳ vốn được nhân dân Việt Nam mong đợi?
Người
ta biết quá rõ, vấn đề dỡ bõ lệnh cấm vận vũ khí sát thương cũng như vấn
đề Việt Nam gia nhập TPP gắn liền với đòi hỏi về cải thiện nhân quyền ở Việt
Nam. Phải chăng, một thế lực nào đó được sự hỗ trợ của Bắc Kinh muốn ngăn cản
tiến trình ấy sẽ được đẩy mạnh với chuyến đi của Ngài Tổng thống? Ngăn cản tiến
trình đó đồng nghĩa với việc thực thi chiến lược và sách lược của Trung Quốc
trói chặt Việt Nam trong quỹ đạo áp đặt của Bắc Kinh, biến Việt Nam thành chư hầu
ngoan ngoãn của Trung Quốc như những triều đại phong kiến Trung Hoa hàng ngàn
năm trước đây đã làm. Bắc Kinh rất lo ngại quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam được
đẩy mạnh sẽ gây một phản ứng dây chuyền với chế độ toàn trị phản dân chủ đang
kìm kẹp nhân dân Trung Quốc.
Tập Cận Bình đang hung hăng thực thi luật
rừng, coi trọng quyền lực cứng mà coi nhẹ quyền lực mềm, tập trung quyền lực cá
nhân, phục hồi “sùng bái cá nhân”, và công khai thách thức Mỹ. Tập đang thực
hành chính sách “bên miếng hố chiến tranh”
nhằm đưa mâu thuẫn ra bên ngoài, không chỉ uy hiếp đe dọa và cướp biển, cướp đảo
của Việt Nam, mà còn làm cho quan hệ Trung-Nhật căng thẳng, thách thức Mỹ trong
việc thay đổi nguyên trạng ở Biển Đông. Chính vì thế, Trung Quốc hết sức lo ngại
khi Việt Nam sẽ ngả hẳn về phía Mỹ.
Một mặt khác, thực tế tình hình cho thấy,
nếu thỏa hiệp và nhượng bộ những toan tính của Trung Quốc ở Việt Nam để mong giữ
được ổn định, nhằm dồn sức cho những mục tiêu chiến lược dài hạn khác của Mỹ,
thì sẽ phải trả giá đắt. Tình hình Việt Nam sau chuyến đi của Tổng bí thư Nguyễn
Phú Trọng đến Mỹ và cuộc diện kiến của Tổng bí thư với Ngài Tổng thống tại
Phòng Bầu dục và tiếp đó là Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã không tốt
lên như một số người lầm tưởng, mà ngược lại. Chúng tôi phải đau đớn và thẳng
thắn nói lên điều đó.
Không cần phải có cuộc điều tra nghiên cứu
công phu, chỉ bằng sự chứng kiến và miêu tả lại của các phóng viên và khách du
lịch nước ngoài đến Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh mấy tháng qua cho thấy tình
hình đã xấu đi nhiều, niềm tin của người dân ngày càng giảm sút, thiên tai và
nhân họa đang đẩy xã hội Việt Nam vào những biến động mới rất đáng lo ngại.
Chúng tôi biết rõ điều này khiến Bắc Kinh rất hài lòng, vì Việt Nam càng yếu,
càng mất ổn định thì sự lệ thuộc về kinh tế, về chính trị vào Trung Quốc càng
thắt chặt hơn, những toan tính thâm độc của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán muôn
thuở càng có điều kiện thực hiện hơn. Dân tộc Việt Nam chúng tôi hiểu rõ hơn ai
hết tham vọng này của Bắc Kinh.
Là những trí thức có sự hiểu biết về
tình hình trong nước và quốc tế, sống trong nỗi đau của người dân trước thảm họa
của môi trường đang uy hiếp nghiêm trọng đời sống, công ăn, việc làm của mọi tầng
lớp nhân dân, nhất là mấy chục triệu dân nghèo đang khốn đốn cần phải được cứu
trợ khẩn cấp cũng như cần những giải pháp lâu dài để cải thiện đời sống cho hơn
90 triệu dân, chúng tôi hiểu rõ cần phải có một chuyển biến mang tính đột phá.
Chuyến đi của Ngài Tổng thống đến Việt Nam là một cơ hội vàng để những nhà cầm
quyền có trách nhiệm thực hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân tìm thấy những
chuyển biến mang tính đột phá ấy để đưa đất nước vượt qua những thách thức hiểm
nghèo mà bứt lên. Chúng tôi đặt nhiều hy vọng vào Ngài Tổng thống.
Về phần chúng tôi, những trí thức từng đọc
và tìm hiểu về những hoạt động của Ngài Tổng thống, chúng tôi hiểu rằng hai nhiệm
kỳ Tổng Thống của Ngài diễn ra trong một bối cảnh thế giới nhiều biến động và
quá nhiều những thách đố. Ngài đã vượt qua những thách đố đó một cách ngoạn mục
nhờ vào bản lĩnh, trí tuệ và phẩm chất mạnh mẽ của một người hành động vì mục
tiêu cao cả. Chính vì thế, chúng tôi kỳ vọng về chuyến đi của Ngài đến Việt Nam
lần này.
Khẩu hiệu tranh cử của Ngài “Change – Yes, we can” cũng đã trở thành
phương châm hành động chúng tôi trong cuộc đấu tranh cho tự do và dân chủ mà
chúng tôi đang dấn bước. Chúng tôi cám ơn Ngài Tổng thống đã tiếp thêm nghị lực
cho chúng tôi và mong mỏi Ngài sẽ thổi một nguồn sinh khí mới vào đất nước
chúng tôi từ cuộc viếng thăm của Ngài.
Chào mừng Ngài Tổng thống đến Việt Nam
và kính chúc sức khỏe.
Danh sách những người ký tên
1.
Hồ
An, nhà văn, nhà báo
2.
Bùi
Tiến An, cựu tù Côn Đảo
3.
Vũ Thị Phương Anh,
giảng viên về hưu
4.
Huỳnh
Kim Báu, nguyên Tổng Thư ký Hội Trí thức yêu nước TPHCM
5.
Huỳnh
Ngọc Chênh, nhà báo
6.
Tống
Văn Công, nguyên Tổng Biên tập báo Lao động
7.
Nguyễn
Đình Đầu, nhà nghiên cứu
8.
Huỳnh
Tấn Mẫm, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn,
nguyên Tổng Biên tập báo Thanh niên, hiện là Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
TPHCM
9.
Hoàng
Dũng, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, giảng viên Đại học
10.
Lê
Công Giàu, nguyên Phó Bí thư thường trực Thành đoàn TPHCM
11.
Nguyễn
Văn Hạnh, Giáo sư, nguyên Phó trưởng Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục
12.
Mai
Hiền, nhà báo, nguyên Tổng Biên tập báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh
13.
Ngô Kim Hoa (Sương
Quỳnh), nhà báo tự do
14.
Lại Thị Ánh Hồng,
nghệ sĩ
15. Hà Thúc Huy, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, giảng viên Đại học
16.
Hoàng
Hưng, nhà thơ
17.
Tuấn
Khanh, nhạc sĩ
18.
Lê
Phú Khải, nhà báo, nguyên phóng viên thường trú Đài Tiếng nói Việt Nam tại đồng
bằng sông Cửu Long
19.
Nguyễn
Sỹ Kiệt, Tiến sĩ, nguyên cán bộ Tổng Công ty Dầu khí
20.
Tương
Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam
21.
Nguyễn
Văn Ly, nguyên thư ký của ông Mai Chí Thọ Chủ tịch UBNDTPHCM
22.
Huỳnh
Công Minh, linh mục
23.
Kha
Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng
24.
Hạ
Đình Nguyên, cựu tù Côn Đảo
25.
Nguyễn
Minh Nguyệt, nguyên giảng viên Khoa Sinh vật, Đại học Tổng hợp Hà Nội
26.
Phan Đắc Lữ, nhà
thơ
27.
Ý
Nhi, nhà thơ nữ
28. Hồ Ngọc Nhuận, nhà báo
29. Phan Thị Hoàng Oanh, Tiến sĩ, giảng viên Đại học
30.
Huỳnh
Sơn Phước, nhà báo, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Tuổi trẻ
31.
Trần Minh Quốc, nhà
giáo nghỉ hưu
32.
Tô
Lê Sơn, kỹ sư
33. Thiều Thị Tạo, cựu tù Côn Đảo
34. Thiều Thị Tân, cựu tù Côn Đảo
35. Trần Công Thạch, nhà giáo về
hưu
36.
Nguyễn
Quốc Thái, nhà báo
37.
Lê
Thân, cựu tù Côn Đảo
38.
Võ
Văn Thôn, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TPHCM
39.
Đào
Công Tiến, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TPHCM
40.
Hà
Quang Vinh, Cao học Luật, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân quận Bình Thạnh,
TPHCM