Vậy là nó đã được Quốc hội khóa XIII thông qua vào ngày 28/11/2013
và có hiệu lực từ ngày 1/1/2014. Nếu
coi là "Hiến pháp mới", thì e rằng ăn quá non nên gạo còn sống
sượng. Còn nếu gọi là "Hiến pháp sửa đổi", thì có lẽ hâm quá
đà nên cơm cũ đã cháy khê.
Dù muốn hay không, Hiến pháp 2013 cũng chi phối cuộc sống của Nhân dân ta và sự phát
triển của Dân tộc ta trong thời gian tới. Do đó, thay vì ca ngợi ngất trời hay
chê bai triệt để, nên tìm hiểu những biến đổi về nội dung của Hiến pháp, để
đoán biết hệ quả mà phòng xa hay tận dụng, đồng thời để thấy rõ hơn tâm và tầm
của bộ máy lập hiến. Theo tinh thần ấy, bài này trao đổi về hệ quả
của một số thay đổi trong Hiến pháp 2013.
Phần 1
nhận diện mấy nội dung vốn tồn tại trong Hiến pháp 1992, nay bị Hiến pháp
buông rơi, mặc dù vẫn còn cần thiết. Chẳng hạn:
Đòi hỏi "Các cơ quan Nhà nước… đơn vị vũ
trang nhân dân… phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật";Qui định trách nhiệm của công an nhân dân là phải "bảo đảm… các quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân";
Cam kết "Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ".
Phần 2 điểm mặt ba
thay đổi theo hướng tiến bộ liên quan đến quyền sau song sắt, mà
những người dính vòng lao lí nên biết để đấu tranh đòi thực hiện.
Phần 3
đề cập đến hiện tượng rộ nở thuật ngữ "công khai"
trong Hiến pháp 2013. Đáng lưu ý là hai khoản hiến định mà công dân quan tâm
đến vận nước nên tận dụng, đó là:
- "Ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính
nhà nước và các nguồn tài chính công khác… phải được sử dụng… công khai" (Khoản 1 Điều 55
Hiến pháp 2013),
Phần 4 cảnh báo nguy
cơ quyền con người và quyền công dân có thể bị khước từ hay cản trở bởi mệnh
đề: "Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định" – Một
mối họa chỉ tương xứng với chính trường hoang dã và xa lạ với nhà nước pháp
quyền đích thực. Buồn thay, căn cứ vào nguyên tắc lập hiến và lập pháp, thì mưu
mô đó thuộc loại mánh lới bất thành.
Phần 5 phân tích sai
lầm tai hại trong việc dùng Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013 để hiến định khả năng hạn chế quyền con người và
quyền công dân. Sơ sẩy khi hiến định "quyền bất khả xâm phạm về chỗ
ở" tại Điều 22 Hiến pháp 2013 là ví dụ điển hình, cho thấy có những thay đổi chưa
chắc đã phản ánh đúng dụng ý của tác giả. Do đó, thay vì ghi nhận một số thể
hiện có vẻ tiến bộ trong Hiến pháp 2013, ta lại phải băn khoăn
với câu hỏi: Thực ra họ sửa nhầm hay đổi thiệt?
1. Hiến pháp
buông rơi
Chẳng nhất thiết và cũng
chẳng thể ghi hết mọi điều quan trọng vào Hiến pháp. Nhưng khi Lời nói đầu
khẳng định rằng Hiến pháp 2013 "kế
thừa… Hiến pháp năm 1992",
thì việc nó buông rơi một số nội dung vẫn còn hợp lý và cần thiết của Hiến pháp
1992 có thể bắt nguồn từ dụng ý sâu xa, mà ta không thể làm ngơ.
1.1.
Lạm dụng
quyền lực là xu hướng mang tính bản năng của thế lực cầm quyền. Do đó, với tư
cách là công cụ pháp lý cơ bản để điều khiển hoạt động của Nhà nước, một trong
những mục tiêu quan trọng nhất của Hiến pháp phải là kiểm soát và kiềm chế
bộ máy Nhà nước. Trong hoàn cảnh nhà cầm quyền hay hành động bất chấp Hiến
pháp và pháp luật, thì khoản hiến định sau đây tại Điều 12 Hiến pháp 1992 là rất cần thiết:
"Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật."
"Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật."
Tiếc rằng,
như đã trao đổi ở bài "Uẩn khúc trong Điều 4
Hiến pháp", khi liệt kê
những đối tượng "phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật",
cả Hiến pháp 1992 lẫn Hiến pháp 2013 đều chừa lại thế lực "siêu nhà
nước", cần phải kiềm chế nhất, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN).
Điều ấy cũng phi lý như chỉ nhìn nhận cái "nhà" ("nhà
ngói" thay vì "nhà nước") từ "trần
giả" trở xuống và cố tình bỏ qua cái "nóc", rồi khi
bị "dột" thì lại giả vờ ngu ngơ "không rõ nước rơi từ
đâu". Đáng tiếc hơn nữa, đòi hỏi "Các cơ quan Nhà nước… đơn
vị vũ trang nhân dân… phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật"
(trong Hiến pháp 1992) đã bị bỏ rơi, và được nới lỏng trong
Hiến pháp 2013 như sau:
"Nhà nước được
tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng
Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ." (Khoản 1 Điều 8 Hiến pháp 2013)
Điều tệ hại là, sau
khi cố tình bỏ đi chữ "phải", điều khoản trên không còn
thể hiện trách nhiệm hiến định, bắt buộc Nhà nước phải thực hiện, mà trở
thành mệnh đề khẳng định, công chứng cho một trạng thái phi thực tế, như thể
nó đã mặc nhiên tồn tại. Hơn nữa, cho dù hiểu đó là một yêu cầu, thì các cơ
quan Nhà nước "muốn theo" hay "theo được" bao
nhiêu thì "theo", không nhất thiết phải "chấp
hành", càng không cần phải "nghiêm chỉnh". Vậy là tấm
gương xấu của Điều 4 dành cho ĐCSVN đã phản chiếu sang Điều 8 dành cho các cơ quan Nhà nước.
Vốn dĩ đã quen hành
động bất chấp pháp luật, nay được Hiến pháp "giải thoát" khỏi
nghĩa vụ "nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật", thì các
"con trời" sẽ còn lộng hành đến mức nào nữa?
Từ lúc Hiến pháp 2013 có hiệu
lực, các vụ tử vong trong khi hoặc sau khi "làm việc" với công
an diễn ra dồn dập hơn, mặc dù "đang xét xử 5 công an…
đánh chết anh Ngô Thanh Kiều"
(vào ngày 13/5/2013 tại Phú Yên).
Nếu không có thương tích đầy mình làm bằng chứng, như trường hợp Huỳnh Nghĩa (39 tuổi, ở tỉnh Đắk Nông, chỉ vì bị nghi là hái
trộm hạt tiêu mà tử vong sau khi "làm việc" với công an vào
ngày 13/2/2014), thì lý do tử vong được công bố "đương nhiên"
là do "tự tử". Chẳng hạn, Huỳnh Nhất Trung (20 tuổi, ở tỉnh
Bình Định) "treo cổ tự tử chết
trong nhà tạm giữ công an huyện Vân Canh" vào tối 11/3/2014. Sáu ngày sau (tức 17/3/2014), Bùi Thị Hương (42 tuổi) "được công an phường
Tân Đồng (thị xã Đồng Xoài, Bình Phước) mời lên trụ sở làm việc vì nghi ngờ
liên quan đến việc đem đi bán 2 chỉ vàng giả… chết trong tư thế treo cổ
bằng áo gió trên cửa phòng tạm giữ hành chính."
Phải chăng, sự gia tăng tử
vong do "làm việc" với công an là hệ quả của việc Hiến pháp
2013 bỏ rơi đòi hỏi "Các cơ quan Nhà nước… đơn vị vũ trang nhân dân…
phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật"?
1.2.
Vốn dĩ, Hiến pháp 1992 quy định về lực lượng công an như
sau:
"Điều 47 Nhà nước xây dựng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, dựa vào nhân dân và làm nòng cốt cho phong
trào nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm sự
ổn định chính trị và các quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ tính
mạng, tài sản của nhân dân, tài sản xã hội chủ nghĩa, đấu tranh phòng ngừa
và chống các loại tội phạm."
Ảnh 1: "CÔNG AN NHÂN DÂN CHỈ BIẾT CÒN ĐẢNG, CÒN MÌNH" (Nguồn: Internet) |
Điều này được "đơn giản hóa" đáng kể trong Hiến pháp 2013 như sau:
Nếu có biểu tình, dù chỉ lác
đác mươi người thực thi quyền hiến định và chỉ nhằm bảo vệ chủ quyền biển đảo
hay phản đối tham nhũng, thì họ cũng coi đó là hành động đe dọa sự an toàn
của chế độ, và ngay lập tức huy động lực lượng đông đảo để giải tán, thậm
chí để đàn áp. Còn nếu tính mạng và tài sản của
Nhân dân bị đe dọa, thì điều động lực lượng "mỏng" và can
thiệp "thận trọng" đến mức… trật tự xã hội ngày càng thêm hỗn
loạn. Viết như vậy, bởi tin rằng:
Nếu thực sự muốn thì lực lượng công an thừa sức để điều tra và khống chế nhiều
tệ nạn xã hội đang hoành hành.
Thay vì bảo vệ, họ lại cư xử
với nạn nhân như với kẻ thù của chế độ. Họ đang tâm xả đạn như mưa vào nhà dân, để
mở đường cướp tài sản hợp pháp của dân, như đã diễn ra ở Tiên Lãng ngày
5/1/2012. Coi người dân như hình nộm
để tập bắn, nên gọi cuộc xả đạn về phía người
dân là "diễn tập", và cao hứng tự ca rằng "không có
cuộc diễn tập nào thành công bằng cuộc diễn tập lần này". Rồi còn công
khai tuyên bố rằng: "Tôi nghĩ là rất hay, có thể viết thành sách… rất
là đẹp, đâm ra không có gì phải phàn nàn về cái chuyện ấy cả." Cứ tưởng, hành động và phát ngôn
như vậy trong Nhà nước của Nhân dân thì bị cách chức, thậm chí bị loại khỏi
ngành công an và bị truy tố trước pháp luật. Ai dè sau một thời gian ngắn còn được
vinh danh bởi quân hàm Thiếu tướng.
Chưa đầy năm tháng sau trận
xả đạn ở Tiên Lãng, vào ngày 24/4/2012, họ lại điên cuồng đánh đập dã man cả hai phóng viên Đài tiếng nói Việt
Nam đến tác nghiệp ở Văn Giang, vì
tưởng đó là dân đen, dám đứng nhìn bầy quân cướp đất.
Những hành động ngạo ngược
hại dân diễn ra nơi nơi, nhiều không kể xiết… Khi còn hiến định trách
nhiệm "bảo đảm… các quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ tính
mạng, tài sản của nhân dân"
mà họ còn hành động như vậy, thì rồi đây sẽ còn tệ hại đến mức nào nữa?
1.3.
Hiến pháp 1992 quy định về
quyền bầu cử và ứng cử như sau:
"Điều 54 Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ,
thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời
hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt
tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định
của pháp luật."
Điều này
được viết lại trong Hiến pháp 2013 như sau:
"Điều 27 Công dân đủ mười tám
tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử
vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật
định."
Nghĩa là bỏ đi
mệnh đề "không
phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ
văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú", vốn dĩ đã xuất hiện tại Điều 23 Hiến pháp 1959, sau đó được tiếp tục duy trì trong Điều 57 Hiến pháp 1980 và Điều 54 Hiến pháp 1992.
Thuở còn quy định
"không phân biệt… thành
phần xã hội…" thì đã rất phân
biệt, đến mức khó lòng tự ứng cự nếu không
thuộc "thành phần xã hội" được bộ máy cầm quyền lựa chọn và đề
cử. Vậy thì rồi đây sẽ ra sao?
1.4.
"Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ
quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định."
"Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử
lý nghiêm minh."
"Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải
tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo."
Nghĩa là đòi hỏi "xem
xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định" và "kịp
thời xử lý nghiêm minh" bị loại bỏ ra khỏi Hiến pháp 2013. Để thấy
rằng việc loại bỏ này không phải là vô tình, hay do các tác giả của Hiến pháp
2013 muốn lược bớt tất cả các ràng buộc về thời gian, chỉ cần lưu ý rằng quy
định những người bị chất vấn "có trách nhiệm trả lời những vấn đề mà
đại biểu Quốc hội yêu cầu trong thời hạn luật định" tại Điều 98 Hiến pháp 1992 vẫn được bảo lưu nguyên vẹn tại Điều 80 Hiến pháp 2013.
Bấy lâu nay, khiếu nại, tố
cáo của công dân hay bị ngâm tôm quá lâu, khiến nhiều người phải lang thang
khiếu kiện suốt chục năm trời. Rồi đây, khi ràng buộc về thời gian xử lý
đã bị xóa khỏi Hiến pháp, thì người dân sẽ phải mòn mỏi chờ đợi thêm bao lâu
nữa?
1.5.
Đáng lưu ý
là quy định
"Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo
được pháp luật bảo hộ"
tại Điều 70 Hiến pháp 1992 đã bị loại bỏ ra khỏi điều hiến định về quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo trong Hiến pháp 2013 (tức là Điều 24). Tại sao lại như vậy? Chẳng nhẽ quy định ấy không
còn cần thiết trong chế độ đã từng diễn ra phong trào đập phá đền chùa
nhân danh chống mê tín dị đoan? Hay
là để tránh mâu thuẫn với thực tế chiếm đất tôn giáo vẫn xảy ra đó đây?
Mấy vị Hòa thượng, Thượng tọa,
Linh mục… trong Quốc hội có đấu
tranh đòi bảo lưu điều hiến định bảo hộ nơi thờ tự hay không? Hay vì quá
mải lo thực hiện sứ mạng bảo vệ chế độ, mà quên mất vai trò phải đóng trong Quốc hội, là
đại diện và bảo vệ tín ngưỡng, tôn giáo?
Điều đáng lo ngại là: Liệu
việc chiếm đất của các cơ sở tôn giáo có gia tăng sau khi xóa bỏ hiến định
"nơi thờ tự… được pháp luật bảo hộ" hay không?
2. Quyền sau song sắt
Một trong những tên gọi trớ trêu nhất
trong tiếng Việt thời nay là "cơ quan bảo vệ pháp luật", vì
chính các cơ quan đó lại hay vi phạm pháp luật nhất. Vụ án oan của ông Nguyễn Thanh
Chấn chỉ là một ví dụ điển hình
trong muôn vàn vụ việc, đã và đang xảy ra thường xuyên trên mọi miền Tổ quốc.
Tại sao nhân danh bảo vệ pháp luật mà lại vi phạm pháp luật như vậy? Chắc hẳn, pháp
luật chỉ là thứ mà họ vin vào, chứ không phải là cơ sở pháp lý mà họ tôn trọng
và tuân theo khi thao túng quyền lực.
2.1.
Những người bị bắt, bị giam "thân
cô thế cô" trong chốn ngục tù, dù "đúng người đúng tội"
cũng rất cần được luật sư bảo vệ và trợ giúp pháp lý. Nếu bị bắt oan thì lại
càng cần luật sư bênh vực. Thế nhưng, bộ máy điều tra, giam giữ thường cô
lập nghi can, bị can, bị cáo, không cho họ có điều kiện lựa chọn và tiếp xúc
với luật sư, đặng dễ bề tra hỏi, ép cung, dàn dựng… Thậm chí, nhiều
người bị ép buộc phải khước từ luật sư do người nhà đứng ra mời và chấp
nhận luật sư do bên điều tra áp đặt, nên dù có bào chữa cũng bằng… âm.
Về "quyền
bào chữa", Hiến pháp 1992 quy định như sau, trong khuôn khổ hiến định
trách nhiệm của Tòa án:
"Điều 132 Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm.
Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình…"
Như vậy, Hiến pháp 1992 chỉ
đề cập đến "quyền bào chữa của bị cáo", tức là của "người
đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử" (theo định nghĩa tại Điều 50 Bộ luật tố tụng hình sự). Nếu Hiến pháp chẳng hề đề cập tới "quyền
bào chữa" thì có thể cũng chẳng hề chi, nhưng khi đề cập một cách
không đầy đủ thì lại trở thành tai hại, vì có thể tạo ra cách nghĩ sai lầm là người
bị bắt, người bị tạm giam giữ (theo định nghĩa tại Điều 48 Bộ luật tố tụng hình sự) và bị can (tức là "người đã bị khởi
tố về hình sự" – theo định nghĩa tại Điều 49 Bộ luật tố tụng hình sự) không có "quyền bào chữa".
Tuy nhiên,
hạn chế của Hiến pháp 1992 không phải là lý do duy nhất khiến "quyền
bào chữa" của "người bị tạm giữ, bị can" bị xâm phạm
tràn lan. Bởi vì Điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định rõ ràng rằng:
"Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có
quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa."
"Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực
hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này."
Hạn chế kể
trên của Hiến pháp 1992 được khắc phục một phần bởi Khoản 7 Điều 103 Hiến pháp 2013, trong khuôn khổ hiến định trách nhiệm của Tòa án
nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân:
"Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền
bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm."
(Tức là
ngoài "bị cáo" thì thêm đối tượng "bị can"
cũng được bảo đảm "quyền bào chữa".) Và nó được khắc phục
nhiều hơn bởi Khoản 4 Điều 31 Hiến pháp 2013, trong khuôn khổ hiến định quyền con người:
"Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác
bào chữa."
Như vậy, theo quy định
của Hiến pháp 2013, kể từ khi "bị bắt" đến khi "bị xét xử",
mọi người đều "có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào
chữa".
Có điều,
một khi đã đề cập đến quyền con người trong vòng lao lí, thì Hiến pháp
viết như vậy vẫn chưa đầy đủ. Từ "bào chữa" khiến người ta chỉ
chú tâm vào việc "bênh vực cho đương sự trước tòa án", tức là khi xét xử, và cùng lắm là mở rộng ra
lúc điều tra, khi công an thẩm vấn đối tượng để xác định tội phạm. Nhưng
lúc ở sau song sắt, ngoài giờ hỏi cung hay xét xử, dù trước khi ra
tòa hay đang thi hành án, thì đương sự vẫn cần được luật
sư trợ giúp và bảo vệ trước sự cư xử trái pháp luật của bộ máy điều tra và
giam giữ. Vậy nên cần sửa lại Khoản 4 Điều 31 Hiến pháp 2013, bằng cách bổ sung thêm thời gian "thi hành
án" cũng như "quyền được luật sư bảo vệ và trợ giúp pháp lý", đại loại có thể viết như sau:
"Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam,
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, hoặc thi hành án có quyền tự bào
chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa, có quyền được luật sư bảo vệ và
trợ giúp pháp lý."
2.2.
"Thẩm phán, Hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức,
cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm."
Vốn dĩ, quy định "xét
xử độc lập" và "chỉ tuân theo pháp luật"
đã có trong Điều 130 Hiến pháp 1992, song khoản hiến định đó tỏ ra vô dụng trên thực tế.
Các thẩm phán vẫn hay bị các loại cấp trên chi phối.
Nay có thêm quy định "nghiêm
cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử", liệu nó
có thể góp phần kích hoạt lòng tự trọng của các thế lực quen thói lộng quyền và
đánh thức lương tâm nghề nghiệp của các thẩm phán quen phán xử theo lệnh trên
hay không?
Ít nhất, về mặt pháp lý, các
thẩm phán không thể biện hộ cho hành vi uốn cong cán cân công lý để xử sai, và
các tầng thượng cấp không thể chối tội nếu bất chấp Hiến pháp để can thiệp vào
việc xét xử của tòa án. Và họ không thể dùng pháp luật hiện hành để gỡ tội khi
đứng trước vành móng ngựa trong chế độ kế tiếp.
2.3.
"Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được
bảo đảm."
"Nguyên
tắc tranh tụng" là gì? Trong
bài "Bảo đảm tranh tụng tại
phiên tòa, cơ sở hình thành phán quyết của Tòa án", Tiến sĩ Nguyễn Sơn – Phó Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao – đã giải thích:
"Tranh tụng trong tố tụng hình sự: là sự tranh
luận của bên buộc tội và bên bào chữa, dựa trên những chứng cứ được đưa ra
trước phiên tòa do các bên thu thập theo quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, là
cơ sở để Tòa án ra phán quyết có hiệu lực thi hành, nhằm bảo vệ các quyền
cơ bản của con người."
Khi viết "là cơ sở…",
chứ không phải "là một trong những cơ sở…", thì có nghĩa đó là
"cơ sở duy nhất". Tức là: Khi phán quyết, Tòa án
phải dựa và chỉ được dựa trên kết quả tranh luận trước tòa giữa bên buộc tội và
bên bào chữa. Không được khăng khăng bám vào những chứng cứ hay lời
khai nhận do bên điều tra và công tố đưa ra, bất chấp lập luận của bên bào
chữa. Càng không thể phán quyết theo "bản án bỏ túi", được thế lực
nào đó ấn định từ trước khi diễn ra tranh luận tại phiên tòa.
Hệ quả của Điều 103 Hiến pháp 2013 là: Những thẩm phán chân chính có thêm cơ sở
pháp lý để phán xử tử tế, theo đúng lương tâm nghề nghiệp. Còn những thẩm phán
bù nhìn thì mất bớt đường biện hộ cho bản lĩnh kém cỏi và hành động vô lương
của mình. Số phận dân oan sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào việc họ có được
thẩm phán chân chính xét xử và được luật sư đủ tài năng bào chữa hay không.
3. Rộ nở "công
khai"
Một
trong những nét đặc biệt trong Hiến pháp 2013 là từ "công khai"
đột nhiên "nở rộ". Từ này vốn chỉ xuất hiện hai lần trong Hiến pháp
1946 và đúng
một lần trong mỗi bản Hiến pháp
1959, Hiến pháp
1980 và Hiến pháp
1992. Nhưng nó
xuất hiện đến 7 lần trong Hiến pháp
2013.
3.1.
Về cơ bản, đó là một triệu chứng tốt. Nhưng đôi khi, ý nghĩa của từ "công
khai" lại khá khó hiểu, chẳng hạn:
"Nhà nước tạo điều kiện để
công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong
việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân." (Khoản 2 Điều 28
Hiến pháp 2013)
"Công
khai… trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân" có nghĩa là thế nào? Nếu công
dân "kiến nghị" về vấn đề gì đó, thì cứ việc lặng lẽ mà "tiếp
nhận", xem xét và giải quyết nghiêm túc, rồi "phản hồi"
trực tiếp cho người có kiến nghị. Như vậy đã có thể coi là đủ. Có nhất thiết
phải "công khai", công bố với thiên hạ, rằng ông nọ bà kia
kiến nghị cái ấy, nhưng chẳng được chấp thuận vì lý do nào đấy,
khiến người đó bị cười chê, hay không? Đặc biệt, khi công dân muốn kiến nghị,
tố cáo một cách kín đáo về hành vi tham nhũng của quan chức, thì có nên "công
khai" cho tham quan biết để trả thù hay không?
Và đây nữa:
"Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng
trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh;
phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất
phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp
luật." (Khoản 3 Điều 54
Hiến pháp 2013)
Tại sao
lại đưa ra đòi hỏi "phải công khai" (khi đã có yêu cầu "minh
bạch") trong hoàn cảnh này? Nếu không hiến định "công
khai", thì người dân có thể chấp nhận để cho "việc thu hồi đất" diễn ra kín đáo, vụng trộm
hay không? Và "phải công khai" đến mức độ nào? Điều mà người
dân muốn biết là danh tính của các thế lực nấp sau "việc thu hồi
đất" để chia chác lợi lộc, vậy thì có định "công khai"
về chúng hay không?
3.2.
Có một yêu cầu "công khai" đã trở thành kinh điển, đó
là:
"Tòa án nhân dân xét xử công khai. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ
bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên
hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tòa án nhân dân có
thể xét xử kín." (Khoản 3 Điều 103
Hiến pháp 2013)
Nội dung
"Tòa án nhân dân xét xử
công khai" đã xuất hiện trong
tất cả các hiến pháp của chế độ này, tại Điều 67
Hiến pháp 1946,
Điều 101
Hiến pháp 1959,
Điều 133
Hiến pháp 1980
và Điều 131
Hiến pháp 1992.
Tiếc rằng, cái đòi hỏi chính đáng đó đã trở thành hiện thân của sự dối
trá trắng trợn. Tuyên bố là "xét
xử công khai", nhưng lại tung
ra lực lượng dày đặc để ngăn cấm những người quan tâm tiếp cận khu vực xử án,
đến mức cả bố mẹ, anh chị em ruột của bị cáo cũng không được vào phòng xét xử.
Thực tế đó diễn ra triền miên, ngang nhiên… Ấy vậy mà các cấp lãnh đạo
vẫn cứ làm ngơ, như thể không hề hay biết. Trớ trêu hơn, với tư cách "đại
biểu cao nhất của Nhân dân", "thực hiện quyền lập hiến, quyền lập
pháp" và "giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà
nước" (Điều 69 Hiến pháp 2013), đại biểu Quốc hội vẫn bỏ qua, không đòi hỏi
Thủ tướng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Công an (là
những chức vụ do Quốc hội "bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm" hoặc "phê
chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức" theo quyền hạn được
hiến định tại Điều 84 Hiến pháp 1992 và Điều 70 Hiến pháp 2013) ra lệnh thuộc hạ chấm dứt cái tệ nạn vi hiến,
phi pháp ngang nhiên ấy.
Lần này,
bên cạnh đòi hỏi "xét xử công khai" trong khuôn khổ hiến định trách
nhiệm của tòa án, Hiến pháp 2013 còn bổ sung thêm quy định "xét xử
công khai" vào quyền con người, là "được… xét xử công
khai":
"Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp
thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử
kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai." (Khoản 2 Điều 31
Hiến pháp 2013)
Hy vọng
rằng, khi được nhấn mạnh đến hai lần trong Hiến pháp, nhà cầm quyền sẽ
không tiếp tục coi quy định "xét
xử công khai" như một trò đùa pháp lý. Và người dân cũng ý thức rõ hơn quyền hiến
định của mình, để mà cương quyết đấu tranh, đòi nhà cầm quyền phải tôn trọng và
thực hiện nghiêm chỉnh.
3.3.
Đòi hỏi "công khai" mới mẻ sau đây kéo theo một hệ quả
quan trọng:
"Ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính
nhà nước và các nguồn tài chính công khác do Nhà nước thống nhất quản lý và phải được sử
dụng hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp
luật." (Khoản 1 Điều 55
Hiến pháp 2013)
Có nghĩa
là từ nay, các cơ quan Nhà nước phải "công khai" mọi khoản chi
tiêu thuộc "ngân sách
nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính công
khác do Nhà nước thống nhất quản lý".
Cơ sở chính đáng của quy định
này là: Tiền bạc và của cải mà Nhà nước đứng ra quản lý chính là của Nhân
dân, nên Nhân dân có quyền biết và phải biết để giám sát xem Nhà nước
chi tiêu có hợp lý hay không. Biết để còn can thiệp, hay ngăn chặn
trong trường hợp cần thiết, chứ không phải biết chỉ để mà tức… Vì thế, Nhân
dân phải biết đủ sớm, chứ không phải đợi đến lúc mọi chuyện trôi qua,
khi tiền bạc, của cải của Nhân dân đã "không cánh mà bay", và
thủ phạm đã "hạ cánh an toàn"… Quy định "phải được
sử dụng… công khai" cần được hiểu là phải "công
khai" từ trước khi "sử dụng", tức là từ khi lập kế hoạch
"sử dụng". Điều đó cũng giống như việc người điều khiển phương
tiện giao thông phải có tín hiệu báo hướng rẽ từ trước khi rẽ, chứ không
phải rẽ xong rồi mới phát tín hiệu rẽ. Muộn nhất thì cũng phải "công
khai" trong khi đang "sử dụng", chứ không thể đợi đến
lúc xong xuôi hay sau một thời gian thì mới "công khai".
Cần phải nhấn mạnh, rằng Điều 55
Hiến pháp 2013
quy định phải "công khai" tất cả các khoản chi tiêu đó, không có ngoại lệ. Nghĩa là phải
"công khai" cả các khoản chi cho đảng cầm quyền, cũng như chi cho bộ
máy quốc phòng và bộ máy an ninh…
Hệ quả hiển nhiên là: Không được coi những thông tin ấy là "bí mật Nhà
nước" và không được phép đóng dấu "mật" hay "tuyệt
mật" lên các tài liệu liên quan, bởi vì như vậy là vi hiến. Hơn thế nữa, không được kết
tội những công dân lưu trữ hay công bố tài liệu liên quan là "chiếm đoạt
bí mật Nhà nước" hay "làm lộ bí mật Nhà nước" (theo Điều 263 Bộ luật hình sự).
3.4.
Với việc thông qua Hiến pháp 2013, Quốc hội đã tự dành cho mình một cam
kết "công khai", đó là:
"Quốc hội họp công khai. Trong trường hợp cần
thiết, theo đề nghị của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng
Chính phủ hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội, Quốc hội
quyết định họp kín." (Khoản 1 Điều 83
Hiến pháp 2013)
Việc
hiến định "Quốc hội họp
công khai"
không phải là ngoại lệ hiếm hoi, mà là thông lệ khá phổ biến trong hiến pháp
của các nước trên thế giới, ví dụ như Hiến pháp Ba Lan (Điều 113), Hiến pháp Bỉ (Điều 47), Hiến pháp Bồ Đào Nha (Điều 116), Hiến pháp Đan Mạch (Điều 49), Hiến pháp Đức (Điều 42), Hiến pháp Hungari
(Chương Nhà nước, Điều 5), Hiến pháp
Hy Lạp (Điều
66), Hiến pháp Na Uy (Điều 84), Hiến pháp Nhật (Điều 57), Hiến pháp Pháp (Điều 33), Hiến pháp Thụy Điển (Chương 4, Điều 9)…
Ở Việt
Nam, nội dung Quốc hội "họp
công khai"
đã xuất hiện trong Hiến pháp
1946 (Điều thứ
30), nhưng nó bị thủ tiêu trong ba bản hiến pháp kế tiếp (từ năm 1959), để rồi
sau 54 năm mới lại được tái hiện trong Hiến pháp
2013.
"Quốc
hội họp công khai" có nghĩa là
thế nào? Có thể tìm thấy câu trả lời rõ ràng ngay trong Hiến pháp
1946 của chính chế độ này:
"Điều thứ 30 Nghị viện họp công
khai, công chúng được vào nghe. Các báo chí được phép thuật lại các
cuộc thảo luận và quyết nghị của Nghị viện. Trong những trường hợp đặc biệt,
Nghị viện có thể quyết nghị họp kín."
Vâng, đặc điểm tối
thiểu của "họp công khai" là "công chúng được vào nghe"…
Hiển nhiên phải là như vậy!
Vì "Quốc hội là cơ quan
đại biểu cao nhất của Nhân dân", do Nhân dân bầu ra, để thay mặt Nhân dân đóng vai trò "cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất" trong đất
nước mà "tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về Nhân dân",
nên tất nhiên Nhân dân có quyền chứng kiến "cơ quan đại biểu"
của mình họp hành, hoạt động như thế nào.
Nếu muốn thì công chúng phải được
chứng kiến trực tiếp. Tức là "vào nghe" trực tiếp ngay
trong phòng họp của Quốc hội, chứ không phải gián tiếp, qua
thông tin tường thuật của tivi, đài, báo, đã bị biến dạng qua lăng kính chủ
quan của nhà báo và bị bóp méo bởi cái gọi là "định hướng tuyên
truyền". Kể cả xem "truyền hình trực tiếp" trong
phòng cách biệt (với phòng họp Quốc hội) hay qua chương trình TV cũng không
phải là "chứng kiến trực tiếp", vì tín hiệu truyền hình có thể
"bị trục trặc" đúng những lúc gay cấn, hay ống kính ghi hình
có thể bị quay lệch khỏi hướng đáng quan tâm.
Để công
chúng có thể "vào nghe"
trực tiếp thì phòng họp của Quốc hội
phải được thiết kế và xây dựng tương ứng, có đủ chỗ cho công chúng "vào
nghe". Một hình mẫu có thể tham khảo là phòng họp của Quốc hội CHLB
Đức, trong đó 6 khán đài với khoảng 430 chỗ ngồi (chưa kể chỗ đứng) được dành cho công chúng, khách và nhà báo, để họ có
thể trực tiếp chứng kiến toàn cảnh phiên họp công khai của Quốc hội (xem Ảnh
2). Đương nhiên, công chúng phải tiến hành đăng ký và đợi đến lượt mình;
còn Quốc hội thì phải có hướng dẫn cụ thể và cung cấp công cụ đăng ký trực tuyến để công chúng có thể đăng ký thuận lợi.
| ||
|
Liệu Nhà Quốc hội Việt Nam đang được xây
dựng có phù hợp với tinh thần "Quốc hội họp công khai" (nghĩa
là có chỗ cho công chúng "vào nghe") hay không? Nếu không phù
hợp, thì nhân dịp đề nghị bổ sung hơn 2.000 tỷ
đồng cho Dự án Nhà Quốc hội, với lý do "thiết kế công trình Nhà Quốc
hội được điều chỉnh theo hướng điều chỉnh lại công năng cho phù hợp với yêu cầu
sử dụng mới", phải nhanh
chóng tạo dựng thêm chỗ cho công chúng "vào nghe". Nếu phớt
lờ, không chịu hiệu chỉnh theo tinh thần của Hiến pháp mới được thông qua, thì
những người chịu trách nhiệm xây dựng Nhà Quốc hội và điều khiển các cuộc họp
Quốc hội trong tương lai sẽ bị coi là vi phạm Hiến pháp.
Điều đáng lo hơn là liệu
những người lãnh đạo Quốc hội đã thực tâm chấp nhận việc "Quốc hội họp công khai" hay
chưa? Vốn dĩ, nhân danh "bảo vệ an ninh", họ có thể chặn cả
đường giao thông công cộng, ngăn không cho dân chúng đi qua khu vực mà Quốc
hội họp. Thậm chí, họ từng ngang nhiên đưa ra lệnh cấm: "Phóng viên không được
phỏng vấn và chụp ảnh đại biểu Quốc hội trong khu vực sảnh trước của hội trường
– nơi đại biểu Quốc hội giải lao". Phóng viên của báo chí chính thống, vừa thực hiện nhiệm vụ của bộ máy
tuyên truyền "lề đảng" và thực thi quyền tự do báo chí, vừa
đáp ứng yêu cầu truyền tải thông tin để cử tri cả nước theo dõi và giám sát
hoạt động của Quốc hội, mà còn bị cản trở thô bạo như vậy, thì làm sao người
lao động chân quê có thể len vào chốn "Quốc
hội họp công khai"?
Đây là một trong những thử
thách đầu tiên đối với Quốc hội sau khi Hiến pháp 2013 có hiệu lực. Người dân
có thể kiểm nghiệm thái độ tôn trọng và chấp hành Hiến pháp của chính bản thân
Quốc hội, bằng cách sớm đăng ký tham gia chứng kiến trực tiếp các cuộc "họp
công khai" của Quốc hội. Để tránh ngụy biện về hoàn cảnh chật chội, do
chưa xây xong Nhà Quốc hội mới, có thể viết thẳng vào đăng ký rằng sẵn sàng
đứng nghe hoặc mang theo ghế xếp để ngồi nghe.
Nếu Quốc hội viện cớ
quanh co, không chịu thi hành cái điều khoản hiến định có thể dễ dàng thực hiện
ngay lập tức, chẳng bị ai cản trở ngoài chính bản thân, thì chứng tỏ họ coi
Hiến pháp vừa thông qua chỉ là trò đùa. Và nếu cơ quan lập hiến nhìn nhận như
vậy thì đừng có hy vọng hão huyền vào sự tôn trọng Hiến pháp của bộ máy cầm
quyền.
Ngược lại, nếu Quốc hội thực
sự chấp nhận để người dân nào "vào nghe" các cuộc họp được
hiến định là "công khai", thì đó là một tín hiệu tốt, chứng tỏ
Quốc hội cũng muốn xây dựng nhà nước pháp quyền.
4. Mánh lới
bất thành
Trong Hiến
pháp 2013, có ba điều hiến định về quyền công dân được kèm theo câu "Việc
thực hiện các quyền này do pháp luật quy định" hay "… do luật
định", đó là:
"Điều 23 Công dân có quyền
tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về
nước. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định."
"Điều 25 Công dân có quyền
tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu
tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định."
"Điều 27 Công dân đủ mười
tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng
cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật
định."
Câu kèm theo đó mang dụng ý gì?
4.1.
Để trả lời câu hỏi trên, ta
điểm lại quá trình thay đổi, biến dạng của điều hiến định về quyền "tự
do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu
tình" qua các đời Hiến pháp của chế độ này.
Trong hai bản hiến pháp đầu
tiên (Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959), các quyền công dân thuộc thể loại này
được hiến định một cách vô điều kiện, không bị hạn chế (xem Phụ lục I). Có lẽ, đó là biểu hiện của thế hệ cầm
quyền mới thoát thân từ cương vị bị trị, chưa kịp lĩnh hội đầy đủ kỹ
năng quản lý xã hội, và cũng chưa bị nhiễm nặng "hội chứng cầm
quyền".
Hiến pháp
thứ ba được thông qua vào năm 1980, giữa lúc đất nước đã thống nhất dưới sự
lãnh đạo độc quyền của ĐCSVN. Trên đỉnh cao quyền lực, nhà cầm quyền không cần
lấy lòng dân chúng như thời kỳ còn phải tranh chấp, nên một số quyền tự do của
công dân trong Hiến pháp 1980 được hiến định kèm theo ràng buộc:
"Điều 67 Công dân có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự
do lập hội, tự do biểu tình, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của
nhân dân.
Nhà nước tạo điều kiện vật chất cần
thiết để công dân sử dụng các quyền đó.
Không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm
phạm lợi ích của Nhà nước và của nhân dân."
Tức là "các quyền tự
do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do biểu
tình" của công dân phải "phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa
xã hội và của nhân dân", trong đó "lợi ích của chủ nghĩa
xã hội" chiếm vị trí hàng đầu, còn "lợi ích của nhân dân"
chỉ đứng hạng hai. Cả hai loại lợi ích đó và cái gọi là "lợi ích của
Nhà nước" đều trừu tượng, nên dễ quy chụp những hành động của dân
chúng mà nhà cầm quyền không thích là "không phù hợp" hay "xâm
phạm" các lợi ích đó.
Hiến pháp
thứ tư – Hiến pháp 1992 – ra đời vào lúc
Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở châu Âu đã sụp đổ đồng loạt, "chủ
nghĩa xã hội" trở nên tai tiếng. Vì vậy, các nhà lập hiến Việt Nam đã
xóa bỏ điều kiện "phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội" và
thay bằng ràng buộc "theo quy định của pháp luật":
"Điều 69 Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có
quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của
pháp luật."
Việc đột nhiên hủy bỏ nội dung "Nhà
nước tạo điều kiện vật chất cần thiết để công dân sử dụng các quyền đó"
(vốn có trong Điều 67 Hiến pháp 1980 và Điều 25 Hiến pháp 1959) cho thấy: Ngay từ khi ban hành Hiến pháp 1992 nhà
cầm quyền đã không muốn chấp nhận người dân thực thi các quyền hiến định ấy.
Trên thực tế, họ đã dựa vào điều kiện "theo quy định của pháp
luật" để "câu giờ"
, cố tình không ban
hành các luật liên quan, để lập
luận rằng: Khi chưa có pháp luật quy định cụ thể thì chưa thể hành động
"theo quy định của pháp luật".
Nguy
hiểm tiềm tàng của thuật ngữ "theo quy định của pháp luật" ẩn chứa
trong không gian bao la của cái gọi là "pháp luật". Theo Điều 2 Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật số 172008/QH12,
thì trong "Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật" không chỉ có
Hiến pháp và các luật, mà còn có cả "Văn bản quy phạm pháp luật của Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân”. Hơn nữa, Điều 2 Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân số 31/2004/QH11 cho phép
"Hội đồng nhân dân ban hành văn bản
quy phạm pháp luật trong những trường hợp… quyết định những chủ trương, chính
sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp…"
và
cho phép
"Uỷ ban nhân dân ban hành văn bản
quy phạm pháp luật… để thi hành Hiến pháp…"
Như vậy, cả
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp phường, xã cũng có thể viện cớ hiến
định để hạn chế quyền công dân. Vì Hiến pháp không quy định nhiệm vụ
và quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, nên khó chỉ
ra một cách trực tiếp rằng các hành vi sai trái hạn chế quyền công dân của các
cơ quan đó là vi hiến.
Trong khi trì
hoãn hơn nửa thế kỷ, cố tình không ban hành luật để bảo đảm thực hiện các quyền
hiến định, thì nhà cầm quyền lại sinh ra một số nghị định và thông tư để hạn
chế quyền tự do của công dân. Điển hình là cặp Nghị định số 38/2005/NĐ-CP và Thông tư số 09/2005/TT-BCA nhằm ngăn cấm thực thi quyền hội họp, biểu
tình, và cặp Nghị định số 136/2006/NĐ-CP và Thông tư số 04/2010/TT-TTCP nhằm cản trở khiếu nại có nhiều người
tham gia. Song bài "Lực cản Nhà nước
pháp quyền" đã chỉ ra rằng các nghị định và thông tư đó vi phạm Hiến pháp và
luật.
Như đã khẳng định
trong bài "Quyền biểu
tình của công dân": Chừng nào chưa có "quy định của pháp luật", thì
chừng ấy chưa có hạn chế đối với quyền biểu tình, nên công dân có quyền biểu
tình một cách hoàn toàn tự do, theo đúng tinh thần của Hiến pháp 1992, không
phải đợi đến lúc có Luật biểu tình hay một văn bản tương tự.
Sau mấy
phương án dự thảo nhằm khắc phục tình trạng đuối lý (xem Phụ lục II), cuối
cùng Hiến pháp 2013 (Điều
25) quy định:
"Công dân có
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội,
biểu tình."
Mệnh đề "theo
quy định của pháp luật" (trong Điều 69 Hiến pháp
1992) được xóa đi, không phải vì sự
hào phóng đột biến, mà để thay bằng câu sau:
Nghĩa là vẫn bảo lưu khả năng
thao túng bao la của cái gọi là "pháp luật". Đáng nói hơn, là ba
chữ "việc thực hiện" được huy động vào cuộc. Để làm gì?
Một mặt, mục tiêu đặt ra chỉ
là sửa đổi chứ không phải viết mới Hiến pháp, nên những chỗ thực sự cần thiết
mới được sửa, nghĩa là thay đổi kể trên không thể vô tình, mà chắc đầy dụng ý.
Mặt khác, bộ máy đương quyền càng tỏ ra ngu ngơ và gắn bó với đồng chí phương
bắc bao nhiêu, thì lại càng ranh mãnh và đối kháng với Dân ta bấy nhiêu, cho
nên chẳng ngạc nhiên khi năng lực sáng tạo của nhà cầm quyền lại được huy động
để đối phó với Dân ta. Vì thuật ngữ "theo quy định của pháp luật"
vẫn chưa đủ thuyết phục, nên nay thay nó bằng mệnh đề "Việc thực hiện
các quyền này do pháp luật quy định", hẳn là để nhấn mạnh rằng
"các quyền này" chỉ được "thực hiện" khi có "pháp luật
quy định".
Với mánh lới mới mẻ này, một
bức tường pháp lý vững chắc hơn trước được dựng lên vô thời hạn để cản công dân
đến với quyền tự do. Nếu sau này bất đắc dĩ phải để công dân "thực
hiện" quyền nào đó, thì họ sẽ dùng pháp luật để hạn chế đáng kể
quyền ấy.
Đó có lẽ cũng là chìa khóa để
giải mã thâm ý của Điều 23 (về quyền tự do đi lại và cư trú, quyền ra nước
ngoài và từ nước ngoài về nước) và Điều 27 (về quyền bầu cử và ứng cử) trong Hiếp pháp
2013.
4.2.
Nếu đấng sinh thành ra Hiến
pháp 2013 nghĩ như vậy, thì đấy chỉ là ý muốn chủ quan của họ.
Không thể trì hoãn mãi
mãi việc ban hành các luật liên quan. Chớ viện cớ thiếu thời gian hay thiếu
kinh phí. Gần 70 năm đã trôi qua
kể từ khi chế độ này ra đời, chẳng nhẽ vẫn chưa đủ thời gian để làm các luật
bảo đảm thực thi quyền công dân hay sao? Bỏ hàng núi tiền của Nhân dân nuôi béo
tham nhũng thì được, chẳng nhẽ trích một phần nhỏ kinh phí để làm luật lại
không được hay sao? Hơn nữa, nhiều người sẵn sàng cùng nhau viết luật, và
có đủ khả năng hoàn thành sản phẩm với chất lượng tốt trong thời gian ngắn. Chỉ
cần Quốc hội chân thành đề nghị, thì họ sẽ ra tay. Nếu quả thật Quốc hội thiếu
tiền, thì họ sẵn sàng làm không công, giống như bỏ công viết những bài như thế
này.
Trong một thể chế xưng danh "Nhà
nước pháp quyền" (Điều 2 Hiến pháp
2013) thì đảng cầm quyền cũng
phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Một khi đã hiến định
rằng "Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật" và "Không
ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị"
(Điều 16 Hiến pháp
2013), thì không thể đòi hỏi các tổ
chức và cá nhân khác phải thực hiện những điều mà đảng cầm quyền và các đảng
viên của nó không cần thực hiện.
Nếu đòi
hỏi các tổ chức khác phải đăng ký và chỉ được hoạt động sau khi được cấp phép,
thì sẽ vấp phải các câu hỏi sau đây: ĐCSVN đã làm thủ tục đăng ký thành
lập khi nào? Đã được chính quyền thời đó cấp phép hay chưa? Cho đến
nay, Luật quy định quyền
lập hội, ban hành bởi Sắc lệnh số 102/SL-L004 do Chủ tịch Quốc hội Hồ Chí Minh
ký ngày 20/5/1957, vẫn còn nguyên hiệu lực,
và nó được lấy làm căn cứ cho Nghị định số
33/2012/NĐ-CP, mới được ký vào ngày
13/4/2012. Sắc lệnh này quy định:
"Điều 4. Những hội đã thành
lập trước ngày ban hành luật này và đã hoạt động trong vùng tạm bị chiếm
trong thời kỳ kháng chiến, nay muốn tiếp tục hoạt động, đều phải xin
phép lại."
Rõ ràng, ĐCSVN là "hội
đã thành lập trước ngày ban hành luật này" và "đã hoạt động
trong vùng tạm bị chiếm trong thời kỳ kháng chiến". Vậy thì, sau
ngày 20/5/1957, ĐCSVN đã làm thủ tục "xin phép lại" hay
chưa?
Điều 4 Hiến pháp
2013 quy định:
"Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội."
"Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật."
Cho đến tận bây giờ, Hiến
pháp vẫn chưa xác định nhiệm vụ và quyền hạn của "lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội", trong khi hiến định rõ nhiệm vụ và quyền hạn
của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng
Chính phủ. Hiến pháp và pháp luật cũng chưa hề ban hành "khuôn
khổ" hoạt động của đảng. Song ĐCSVN không hề chờ đợi, mà vẫn ngang nhiên
"hoạt động". Vậy thì tại sao lại không chấp nhận cho
công dân thực thi các quyền hiến định, mà đòi họ phải chờ đợi, đến khi có
"pháp luật quy định" thì mới được "thực hiện các quyền
này"?
4.3.
Như đã viết ở trên, các quyền công dân
tại Điều 23, Điều 25 và Điều 27 được hiến định không kèm theo ràng buộc,
chẳng phải vì hào phóng bất thường, mà do dự định dùng luật và các văn bản dưới
luật để "siết lại". Tiếc thay, hiện trạng của Hiến pháp
2013 không cho phép bất kỳ ai triển khai ý đồ "siết lại" nữa.
Vì sao?
Nguyên tắc
sơ đẳng trong kỹ thuật lập hiến và lập pháp là: Luật và các văn bản dưới
luật chỉ có thể hạn chế một quyền hiến định nào đó, nếu Hiến pháp cho phép hạn
chế đích danh quyền ấy. Ví dụ, Hiến pháp CHLB Đức quy định như sau:
(1) Mọi người có quyền tự do phát biểu
và phổ biến quan điểm của mình bằng lời nói, chữ viết và hình ảnh, và tự do tìm
hiểu thông tin từ các nguồn có thể truy cập phổ thông. Tự do báo chí và tự do
thông tin được đảm bảo. Không được kiểm duyệt.
(2) Những quyền này bị hạn chế bởi
quy định trong các luật phổ quát, bởi quy định của Luật bảo vệ thanh thiếu niên, và bởi quyền được bảo vệ danh dự cá nhân…"
(1) Mọi người Đức đều có quyền tụ họp
một cách hòa bình và không mang theo vũ khí, mà không cần phải trình báo hay
được chuẩn y.
(2) Đối với các cuộc tụ họp ngoài
trời, quyền này có thể bị hạn chế bằng luật hoặc trên cơ sở của một luật."
Nguyên tắc sơ đẳng đó không
phải là quá xa lạ với các nhà lập hiến Việt Nam. Có điều, lẽ ra phải được trình
bày một cách rõ ràng và chính xác, Hiến pháp Việt Nam lại bị lây nhiễm cái ngôn
ngữ của chính trường hoang vắng lòng trung thực: Khi nói thẳng thì không
thật, còn sự thật thì lại bị úp mở, trình bày quanh co… Thay vì viết rõ là "quyền…
có thể bị hạn chế bằng pháp luật", thì lại che dấu sau thuật ngữ "có
quyền… theo quy định của pháp luật".
Trong Hiến pháp 1992, cụm từ "theo quy định của pháp luật"
đã được viết kèm theo một số quyền công dân, đó là:
- Quyền tự do đi lại
và cư trú ở trong nước, quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước (Điều 68);
- Quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí, quyền được thông tin, quyền hội họp, lập hội, biểu tình (Điều 69).
Và quyền
xây dựng nhà ở thì được gắn với điều kiện "theo quy hoạch và pháp
luật" (Điều 62). Viết như vậy có nghĩa là có thể dùng pháp
luật để hạn chế các quyền ấy.
Hiến pháp 2013 bỏ hiến định về quyền nghỉ trước và
sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp, đồng thời bỏ hiến định về quyền
xây dựng nhà ở của công dân. Quyền tự do kinh doanh được hiến định đơn giản
và rõ ràng hơn:
Đây cũng là một cách hiến định, rằng có thể ban hành pháp luật để hạn
chế quyền tự do kinh doanh.
Cách hiến định này cũng "tế nhị" như
thuật ngữ "trái luật" trong hai ngữ cảnh sau đây:
"Không ai
được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín
và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác." (Điều 21 Hiến pháp 2013)
Ngụ ý là: Có thể ban hành luật để "tước đoạt tính
mạng" của ai đó và cho phép một số đối tượng được quyền "bóc
mở, kiểm soát, thu giữ… thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi
thông tin riêng tư của người khác".
Rõ ràng là Hiến pháp 2013 không lãng quên nguyên tắc lập hiến: Để
có thể hạn chế một quyền hiến định bằng luật hay văn bản dưới luật, thì trước
hết phải hiến định về khả năng hạn chế ấy. Vậy mà Hiến pháp 2013 lại hiến
định mấy quyền một cách vô điều kiện tại Điều 23, Điều 25 và Điều 27, không kèm theo hạn chế và
cũng không có hiến định về khả năng hạn chế các quyền ấy bằng pháp luật.
Mệnh đề "Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định" được kèm theo chỉ
cho phép ban hành pháp luật để hướng dẫn cách "thực hiện", mà
kết quả cuối cùng phải là người dân được "thực hiện" các
quyền đó. Luật và các văn bản dưới luật không được phép gây khó
dễ, nhằm cản trở hay tạo cớ ngăn cấm "thực hiện", vì như vậy
là vi phạm Hiến pháp 2013.
Có thể một số vị sẽ cố lập luận, rằng mệnh đề "Việc thực hiện các
quyền này do pháp luật quy định" chứa đựng khả năng dùng pháp luật để
hạn chế hay khước từ "việc thực hiện các quyền này". Song họ
sẽ vấp phải câu hỏi: Tại sao không viết thẳng, viết rõ dự định hạn chế hay
khước từ ấy trong Hiến pháp? Cố tình mập mờ để đánh lừa ai?
"Ngôn ngữ sử dụng trong văn bản quy phạm pháp luật phải chính xác,
phổ thông, cách diễn đạt phải rõ ràng, dễ hiểu." Theo đó, nếu
nhà cầm quyền dự định dùng pháp luật để hạn chế một quyền hiến định nào đó, thì
phải trình bày dự định ấy trong Hiến pháp một cách "rõ ràng, dễ hiểu",
chẳng hạn: "Quyền này có thể bị hạn chế bằng pháp luật."
Hiến pháp đích thực phải được viết một cách trung thực. Hiến pháp dành
cho toàn thể Nhân dân, nên nó phải được "diễn đạt… rõ ràng, dễ hiểu"
đến mức dân thường cũng có thể hiểu để thi hành. Không được vận dụng kỹ năng
lập lờ lươn lẹo từ chính trường vào Hiến pháp nhằm đánh lừa người dân.
Có lẽ các nhà lập hiến CHXHCN Việt Nam chẳng có ý định đi xa đến mức chấp
nhận những quyền con người, quyền công dân hoàn toàn "bao
la", không hề bị hạn chế. Nhưng "bút sa gà chết",
câu chữ mà họ sử dụng trong Hiến pháp 2013 chỉ cho phép kết luận như trên.
5. Sai lầm tai hại
Điều gì khiến các nhà lập hiến sơ suất như vậy? Hẳn là
do chủ quan, quá ỷ lại vào khả năng thao túng của Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013, quy định rằng:
"Quyền con
người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng."
Ý đồ và hệ quả của nước cờ lạ lẫm này là gì?
5.1.
Vốn dĩ, nội dung của điều khoản trên được thể hiện
trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (được đăng tải để lấy ý
kiến nhân dân từ ngày 2/1/2013) tại Khoản 2 Điều 15 như sau:
"Quyền
con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường
hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng."
Bài "Teo dần quyền con người trong Hiến pháp" đã phê phán khoản
dự thảo này và chỉ rõ: Danh sách "lý do quốc phòng, an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng" rộng đến mức
có thể bao trùm mọi hoàn cảnh thông thường. Cho nên, nhà cầm quyền luôn có thể
viện dẫn những lý do đó, nhằm giới hạn quyền con người và quyền công dân. Và
bất cứ lúc nào họ muốn thì đều quan niệm là "trường hợp cần thiết".
Vì vậy, việc nhét chữ "chỉ" vào điều khoản ấy chẳng
hềcó tác dụng hạn chế phạm vi hành động của giới cầm quyền, mà cốt để ngụy
trang, che đậy mục đích hiến định hóa việc chính quyền có thể giới hạn quyền
con người và quyền công dân. Hơn nữa, dự thảo không hề đề cập ai
và cấp nào có quyền giới hạn. Điều đó mở đường cho bộ máy cầm
quyền các cấp có thể can thiệp tùy tiện vào quyền con người và quyền công dân.
5.2.
Để khắc phục nguy cơ tùy tiện, các nhà lập hiến đã bổ sung thêm ràng
buộc "chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật" vào
Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013. Điều kiện này kéo theo hệ
quả gì?
Trước kia, bài "Lực cản Nhà nước pháp quyền" đã dựa vào nhiệm
vụ và quyền hạn của Chính phủ được hiến định tại Điều 112 Hiến pháp 1992 để chỉ ra tính vi hiến của Nghị định số 38/2005/NĐ-CP và Nghị định số 136/2006/NĐ-CP. Vì Hiến pháp
không quy định nhiệm vụ và quyền hạn của bộ máy nhà nước từ cấp bộ và tỉnh
thành trở xuống, nên không thể sử dụng cách lập luận này để chỉ ra tính vi
hiến của văn bản pháp quy do các cấp dưới ban hành.
Nhưng bây giờ thì việc chứng minh tính vi hiến trở nên đơn giản
hơn. Theo Điều 14 Hiến pháp 2013, ngoài Hiến pháp, chỉ luật
mới được hạn chế quyền con người, quyền công dân. Có nghĩa là: Tất cả các nghị
quyết, pháp lệnh, lệnh, quyết định, nghị định, thông tư… đều trở nên vi hiến
nếu chúng hạn chế quyền con người, quyền công dân. Chẳng hạn như các văn
bản hạn chế quyền hội họp, biểu tình (Nghị định số 38/2005/NĐ-CP), hạn chế quyền khiếu nại, tố cáo (Nghị định 136/2006/NĐ-CP), hạn chế quyền lập hội (Quyết định 97/2009QĐ-TTg, Nghị định 45/2010/NĐ-CP, Nghị định 33/2012/NĐ-CP), hay hạn chế quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông
tin trên mạng internet (Nghị định 72/2013/NĐ-CP)…
Đáng lưu ý là: Giữa thời buổi bộ máy cầm quyền đã tha
hóa, phạm trù "công vụ" thường bị lạm dụng
để ngụy trang cho những hành động xấu xa và thuật ngữ "chống người thi hành công vụ"
hay bị lạm dụng để vu khống dân lành, thì Chính phủ lại mới ban
hành Nghị định 208/2013/NĐ-CP, trong đấy cho
phép:
"…
người
thi hành công vụ được… nổ súng để phòng vệ chính đáng,
tấn công, khống chế, bắt giữ người có hành vi chống người thi hành công vụ."
Có nghĩa là nghị định này cho phép người thi hành công vụ xâm phạm "quyền bất khả xâm phạm về thân thể" (hiến
định tại Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp 2013), thậm chí có thể "tước bỏ tính mạng" và "quyền
sống" (hiến định tại Điều 19 Hiến pháp
2013) của người dân trong một số
trường hợp. Như vậy là vi phạm Điều 14 Hiến pháp 2013.
Nghị định 208/2013/NĐ-CP có quy ước: "Việc nổ súng
trong khi thi hành nhiệm vụ được thực hiện theo quy định tại Điều 22 Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ,
công cụ hỗ trợ và các quy định khác của pháp luật có liên quan."
Nhưng pháp lệnh không phải là luật, nên việc Pháp lệnh số 16/2011/UBTVQH12 cho phép "nổ
súng" vào người dân cũng là trái với quy định của Điều 14 Hiến pháp 2013. Do đó, viện dẫn pháp lệnh
đó không có tác dụng cải thiện tình trạng vi hiến của Nghị định
208/2013/NĐ-CP.
Điều nghiêm trọng là: Nghị định 208/2013/NĐ-CP được
ban hành vào ngày 17/12/2013, tức là 19 ngày sau khi Quốc hội thông qua Hiến
pháp 2013, và nó có hiệu lực từ ngày 1/2/2014, tức là một tháng sau khi Hiến
pháp 2013 có hiệu lực. Như vậy, việc ban hành Nghị định
208/2013/NĐ-CP rõ ràng là một hành vi vi
phạm Hiến pháp 2013 trong thế chủ động, không phải bị động như
những nghị định đã được ban hành từ trước khi Hiến pháp 2013 được thông qua. Vì sao Chính phủ lại hành động bất chấp Hiến pháp như vậy?
Quốc hội định "xử lý" thế nào đối với "hành
vi vi phạm Hiến pháp" đó của Chính phủ?
5.3.
Như đã viết trong phần 5.1, khi được đưa vào dự
thảo, mục đích nguyên thủy của Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013 là nhằm hiến
định khả năng hạn chế các quyền con người, quyền công dân. Song họ đã đi sai nước
cờ, chọn nhầm cách thể hiện.
Với cách viết như hiện nay, họ mới thể hiện điều
kiện cần, là nếu được phép hạn chế thì "chỉ có thể bị hạn chế
theo quy định của luật". Nó chưa thể hiện được điều kiện
đủ cho việc hạn chế quyền con người, quyền công dân, tức
là chưa hề cho phép ban hành luật để hạn chế các quyền ấy.
Những ai đã lĩnh hội kiến thức ở trường phổ thông đều phân biệt được
giữa "điều kiện cần" và "điều kiện đủ", và
đều hiểu rằng "chỉ có thể…" không có nghĩa là "có
thể…". Ví dụ: Chắc mọi người đều đồng ý là "chỉ có thể
làm Chủ tịch Quốc hội nếu không mù chữ". Nhưng như vậy không có nghĩa
là thừa nhận mệnh đề "có thể làm Chủ tịch Quốc hội nếu
không mù chữ".
Để thể hiện "điều kiện cần và đủ", lẽ
ra phải viết thêm vào Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013 một từ "có thể"
nữa, chẳng hạn:
"Quyền
con người, quyền công dân có thể và chỉ có thể bị hạn chế theo quy
định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng."
5.4.
Nhưng đấy chỉ là xét về lô-gíc ngôn ngữ thuần túy. Còn
về mặt pháp lý, thì không thể hiến định như vậy. Bởi lẽ, nếu chấp nhận việc
hiến định một cách chung chung, thì có thể thay điều khoản trên bằng một câu
còn tổng quát hơn nữa, đó là:
"Mọi quy định
của Hiến pháp đều có thể thay đổi trong trường hợp cần thiết."
Và khi đó Hiến pháp cũng trở nên vô dụng, chẳng cần tốn công bàn luận về
nó làm gì nữa.
"Văn bản quy
phạm pháp luật phải quy định trực tiếp nội dung cần điều chỉnh, không quy
định chung chung."
Trong Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013, phạm trù "quyền con
người, quyền công dân" quá chung chung và các "nội
dung cần điều chỉnh" không hề được "quy định trực tiếp".
Chùm "lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo
đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng" cũng quá chung chung,
bao la đến mức có thể quy chụp mọi hoàn cảnh. Khi nhà cầm quyền muốn, thì tất
nhiên họ coi đó là "trường hợp cần thiết". Cho nên, nếu hiến
định như vậy, thì bất cứ quyền con người và quyền công dân nào cũng có thể bị
chà đạp một cách "hợp pháp".
Có thể ai đó sẽ ngụy biện, rằng Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
mới phải phù hợp với Hiến pháp, còn Hiến pháp không cần phải phù hợp với luật
ấy. Đừng quên, rằng khi viết và thông qua Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, thì
Hiến pháp 1992 vẫn còn có hiệu lực, và Khoản 2 Điều 5 Luật số 12/2008/QH12 hoàn
toàn hợp hiến, nên họ vẫn phải tuân theo. Nội dung Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
có thể không cần phải tuân theo luật, nhưng hành vi của những người viết và
thông qua Dự thảo thì vẫn phải tuân theo luật hiện hành.
Thế nào mới có thể coi là "quy định trực tiếp nội dung cần điều
chỉnh, không quy định chung chung"? Thông thường, trong điều hiến định
về quyền nào đó thì cần quy định luôn hoàn cảnh và hình thức có thể hạn chế
quyền ấy – Như vậy là "trực tiếp" nhất. Nếu có một hoàn cảnh
cần phải hạn chế một số quyền khác nhau, thì có thể sinh ra một điều hiến định
cho hoàn cảnh ấy, nhưng trong đó phải nêu đích danh các quyền cần phải hạn
chế một cách cụ thể (tức là "không quy định chung
chung"). Như vậy mới là "quy định trực tiếp nội dung cần điều
chỉnh".
"Các luật
phục vụ mục tiêu quốc phòng và bảo vệ thường dân có thể quy định hạn chế quyền
cơ bản về tự do cư trú, đi lại (Điều 11) và bất khả xâm phạm về chỗ ở
(Điều 13)."
Ở đây, hoàn cảnh "có thể quy định hạn chế quyền cơ bản"
được viết cụ thể là "phục vụ mục tiêu quốc phòng và bảo vệ thường
dân". Hình thức, phương tiện hạn chế được quy định cụ thể là "luật".
"Nội dung cần điều chỉnh" được quy định cụ thể là "quyền
cơ bản về tự do cư trú, đi lại (Điều 11) và quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở
(Điều 13)" – Nghĩa là không chỉ nêu đích danh quyền bị hạn chế, mà còn
phải viết rõ là quyền đó được quy định ở điều nào của Hiến pháp. Như thế
mới có thể coi là "quy định trực tiếp", "không quy định chung
chung".
Trong thể chế Cộng hòa, Nhà nước phải là "của Nhân dân, do Nhân dân và
vì Nhân dân", và đương nhiên Hiến pháp cũng phải là "của
Nhân dân" và "vì Nhân dân", bất kể nó "do"
ai viết ra và "do" ai thông qua. Vì vậy, nhiệm vụ của
Hiến pháp là hạn chế sự tùy tiện của bộ máy Nhà nước, để bảo vệ Nhân dân, bảo
vệ quyền con người và quyền công dân, chứ không phải là khống chế Nhân dân, hạn
chế quyền con người và quyền công dân, để bảo vệ Nhà nước và để bộ máy ấy dễ
hành xử tùy tiện.
Tóm lại, không thể biến báo Điều 14 Hiến pháp 2013, hay tạo mới một
điều khoản duy nhất, để hiến định khả năng hạn chế tất cả các quyền con người
và quyền công dân một cách chung chung! Do đó, không tồn tại
khả năng hợp hiến nào để nhà cầm quyền có thể hạn chế các quyền được hiến định
tại Điều 23, Điều 25 và Điều 27 của Hiến pháp 2013.
5.5.
Để ý thức rõ hơn hậu quả tai hại của nước cờ lập hiến sai lầm,
hãy xem xét điều khoản hiến định về "quyền bất khả xâm phạm về chỗ
ở".
"Công
dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở.
Không ai được tự ý
vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp
luật cho phép. Việc khám xét chỗ ở phải do đại diện cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền tiến hành, theo quy định của pháp luật."
"Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở.
Không ai được tự ý
vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp
luật cho phép."
Nghĩa là cả hai Hiến pháp "tiền nhiệm" đều "trừ
trường hợp được pháp luật cho phép" ra khỏi phạm trù "Không ai
được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý".
Nhưng bây giờ mệnh đề "trừ trường hợp được
pháp luật cho phép" bị xóa khỏi Hiến pháp 2013:
1.
Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp.
2. Mọi
người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của
người khác nếu không được người đó đồng ý.
3. Việc khám xét
chỗ ở do luật định."
Như vậy, Hiến pháp 2013 quy định dứt khoát rằng: "Không ai
được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý."
Và không hề loại trừ bất cứ trường hợp nào.
Hệ quả pháp lý của Khoản 3 Điều 22 chỉ là: "Việc khám xét chỗ
ở" phải "do luật định", tức là phải dùng luật,
chứ không được dùng các văn bản dưới luật, như nghị định, thông tư…, để quy
định việc khám xét chỗ ở. Khoản 3 không hề hạn chế hay phủ định Khoản 2,
nghĩa là không hề cho phép ban hành luật quy định "việc khám xét chỗ
ở" của bất kỳ người nào trong trường hợp "không được người đó đồng
ý".
Vậy thì nhà cầm quyền sẽ làm thế nào khi cần khám xét chỗ ở của nghi can
nhưng "không được người đó đồng ý"?
Trong tiếng Việt thì "không ai…" có nghĩa là "không
người nào…", kể cả công an và các loại "tay chân"
của họ. Cho đến nay, họ thường cho người đóng vai "quần chúng bức
xúc", hay giả dạng "côn đồ tự phát", thậm
chí huy động cả côn đồ đích thực, để đàn áp công dân thực thi các quyền hiến
định. Bây giờ, khi Hiến pháp 2013 có hiệu lực, nếu cần khám xét chỗ ở của đối
tượng nào đấy nhưng "không được người đó đồng ý", chẳng nhẽ
lại bắt con người đóng con vật hay sao? Hay tự phủ định tư cách "người"
của mình? Hay ngang nhiên hành động bất chấp Hiến pháp?
Ai cũng biết cái thông lệ được thừa nhận khắp thế giới, là bộ máy
công an, cảnh sát phải được Hiến pháp và luật cho phép khám xét chỗ ở trong một
số trường hợp cần thiết, cho dù chủ nhân có đồng ý hay không. Vậy mà, thông
qua câu chữ đã thể hiện trong Hiến pháp 2013, Quốc hội khóa XIII đã tước bỏ mất
khả năng khám xét hợp lý ấy. Buồn thay…
*
*
*
Những
điều đã trao đổi trong bài này dựa trên tư duy và lô-gíc thông thường,
dưới giả thiết là nhà cầm quyền thực tâm tôn trọng và chấp hành Hiến pháp.
Tiếc rằng, bằng hành động thực tế, họ thường xuyên phủ định giả thiết đó. Hiển
nhiên, nếu nhà cầm quyền chỉ coi Hiến pháp là một thứ "tập làm
văn", thì mọi suy luận về hệ quả của nó đối với thực tế cuộc sống là hoàn
toàn vô nghĩa.
Đọc những điều mà ta đã và sẽ còn tiếp tục rút ra, chắc hẳn nhiều vị đại
biểu Quốc hội giật mình, khi thấy rõ hơn hình hài cái Hiến pháp mà mình đã tắc
trách nhấn nút "tán thành" lúc mới hiểu lõm bõm. Ngược lại, có
thể một số vị đã trực tiếp tham gia viết và chỉnh sửa dự thảo Hiến pháp sẽ phản
ứng và quả quyết rằng họ nghĩ hoàn toàn khác. Nhưng đối với văn bản Hiến
pháp thì các tác giả nghĩ ra sao chỉ là chuyện phụ, điều quyết định là họ đã
viết như thế nào. Bởi không phải cái tư duy quanh co hay ý đồ mập
mờ của phía lập hiến, mà chính câu chữ, lời văn được thể hiện trong Hiến pháp
mới xác định nội dung hiến định. Do đó, dù tuân theo nguyên tắc
khách quan, ta chỉ cần dựa trên thực trạng văn bản Hiến pháp đã được Quốc hội
thông qua và đang có hiệu lực để suy luận, chứ không phải lệ thuộc vào những gì
đã diễn ra trong đầu của thế lực cầm quyền và quân sư của họ.
Có lẽ
do ỷ thế lập pháp, nên chủ quan mà đi sai nước cờ lập hiến. Bây giờ biết tính
sao đây? Vừa thông qua Hiến pháp 2013 với sự tán thành gần như
tuyệt đối, chẳng
nhẽ bây giờ Quốc hội lại đem nó ra mà tẩy xóa? Đã quả quyết rằng Hiến pháp 2013 "thể hiện được ý chí, nguyện
vọng của Nhân dân, ý Đảng hợp với lòng dân",
thì bây giờ Quốc hội có quyền bất chấp "nguyện vọng của Nhân
dân" và "lòng dân" để sửa chữa nó hay không?
Trước sự cố ngoài ý muốn kiểu
này, thông thường có ba cách xử lý như sau.
(1)
Quân
tử nhất ngôn: Đành chấp nhận hậu quả do sai lầm của chính mình gây
ra, thực hiện đúng văn bản Hiến pháp mà mình đã ban hành, dù trái ý và bất lợi
cho nhà cầm quyền.
(2) Kiên định & trung thực: Không muốn rời
bỏ ý định vốn có, nên thẳng thắn thừa nhận sai lầm, xin lỗi và xin phép Nhân
dân cho sửa chữa các lỗi đã phạm phải, để Hiến pháp thể hiện đúng ý định của
thế lực cầm quyền, dù nó mới được thông qua, còn chưa ráo mực.
(3) Ù lì bất chấp: Không chịu thừa nhận sai
lầm, mà vẫn hành động theo ý mình, bất chấp hiện trạng của văn bản Hiến pháp.
Không hiểu Quốc hội (với tư cách cơ quan lập hiến) và thế lực
thực quyền (điều khiển hành vi của Quốc hội) sẽ chọn cách nào?
* * * * * * * * * *
Phụ lục I
Điểm chung trong hai bản hiến pháp đầu tiên của chế độ
này là một số quyền công dân được hiến định một cách đơn giản, vô điều
kiện, không bị hạn chế. Hiến pháp 1946 quy định như sau:
"Điều thứ 10
Công dân Việt Nam có quyền:
-
Tự do ngôn luận
-
Tự do xuất bản
-
Tự do tổ chức và hội họp
-
Tự do tín ngưỡng
- Tự do cư trú, đi
lại trong nước và ra nước ngoài."
"Điều 25 Công dân nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà có các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và
biểu tình. Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được
hưởng các quyền đó."
Phụ lục II
Trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (được đăng tải để lấy ý
kiến nhân dân từ ngày 2/1/2013), Điều 69 Hiến pháp 1992 đã được sửa lại
như sau:
"Điều 26 Công
dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông tin,
hội họp, lập hội, biểu tình theo quy
định của pháp luật."
Điều gì thay đổi ở đây? Như đã phân tích trong bài "Teo dần quyền con người trong Hiến pháp", họ xóa đi hai
chữ "có quyền" trước đoạn "được thông tin" và
trước đoạn "hội họp, lập hội, biểu tình". Đồng thời, dùng chữ "được"
(vốn dĩ chỉ là một thành phần của từ "được thông tin") thay
cho hai chữ "có quyền" ấy. Để làm gì? Để xóa bỏ những quyền
cơ bản đó của công dân. Từ chỗ công dân luôn "có quyền"
(kể cả khi không có luật hoặc chưa có luật liên quan), bây giờ bị tước "quyền",
và "quyền" bị hạ cấp xuống thành những thứ "được"
ban phát. Mà "được… theo quy định của
pháp luật" thì
cũng có nghĩa là "chỉ được… theo quy định của
pháp luật".
Tức là công dân "chỉ được" ban phát nếu nhà cầm quyền đã ban
hành "quy định của pháp luật". Khi nhà cầm quyền chưa muốn, lờ
đi việc ban hành "quy định của pháp luật", thì người dân
sẽ không "được thông tin, hội họp,
lập hội, biểu tình". Qua đó ta thấy, nhà cầm quyền vẫn duy trì ý chí
cản trở công dân thực thi các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền
thông tin, quyền hội họp, lập hội, biểu tình.
Cuối cùng, trong Hiến pháp 2013 mới được thông qua, các tác
giả đã bỏ từ "được" và thay nó bằng từ "tiếp cận":
Như vậy là cụm từ "Công dân có quyền" ở đầu câu không
còn bị chữ "được" chặn đường, mà có thể tác động liên thông
tới tận từ "biểu tình" ở cuối câu.
Hà
Nội, ngày 29 tháng 8 năm 2014