Nguồn: Theo Quê Choa
Nguyễn Quang Duy/Viet-studes
Tháng
5/2014, Hà Nội nóng bỏng bất thường ngay đầu hè. Rõ ràng Trung Qu ốc góp phần làm cho
trái đất nóng lên. Đặc biệt Biển Đông càng nóng bỏng hơn. Trung Qu ốc đăt dàn khoan khổng
lồ HD 981 taị vùng biển của Việt Nam từ đầu tháng 5 để tranh cướp chủ quyền,
thổi bùng lên làn sóng chống Trung
Qu ốc ở Việt Nam và khắp khu vực.
Nghịch lý yêu-ghét trong lịch sử quan hệ Việt-Trung đầy bi kịch thường dẫn đến
xung đột lợi ích quốc gia, kể cả chiến tranh. Năm 1979 Trung Qu ốc đã xâm lược Việt Nam
trong cuộc chiến biên giới đẫm máu, sau ba thập kỷ gắn bó như “môi với răng” vì
cùng chung ý thức hệ. Liệu lịch sử có lặp lại lần nữa tại Biển Đông? Nước cờ
tiếp theo của Trung Qu ốc
là gì? Liệu Trung Qu ốc
có xô đẩy Việt Nam vào vòng tay người Mỹ, giống như vào vòng tay người Nga năm
1979? Việt Nam phải làm gì để có thể sống yên ổn bên cạnh người láng giềng
khổng lồ?
Napoleon Bonaparte đã từng nói, “
Ông Kissinger được ghi nhận là kiến trúc sư của Chính sách
Sau đó ông Brzezinski (Cố vấn An ninh Quốc gia của Tổng thống Carter) đã tiếp tục Chính sách
Có lẽ người Mỹ đã hơi ngây thơ hoặc ảo tưởng và ngộ nhận về sự trỗi dậy hòa bình của
Năm 1979,
Phải mất hơn một thập kỷ Việt Nam mới bình thường hóa được quan hệ với
Thỏa thuận Thành Đô là một sai lầm chiến lược to lớn và một bước ngoặt bất hạnh cho Việt Nam, làm cố ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch phải cay đắng nhận xét, “một thời kỳ bắc thuộc mới đầy nguy hiểm đã bắt đầu”. Lãnh đạo Viêt Nam đã dại dột chui vào bẫy ý thức hệ của
Nay một bước ngoặt mới lại xuất hiện khi
Tình hình quốc nội
Con hổ mới
đã biến thành con mèo ốm yếu
Trong khiTrung Qu ốc
trỗi dậy, trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới, thì Việt Nam lại tụt
hậu, không cất cánh lên được. Các tổng công ty lớn của nhà nước theo “định
hướng XHCN” là trụ cột nền kinh tế, nhưng đã thua lỗ nặng và trở thành những
con nợ khổng lồ. Thành quả cải cách kinh tế gần hai thập kỷ đầy ấn tượng nay đã
tan thành mây khói, vì nạn tham nhũng, quản lý tồi, và bị các nhóm lợi ích thao
túng trong một cơ chế thân hữu. Các nhóm lợi ích tham lam chiếm đất của nông
dân làm dự án, câu kết với quan tham và xã hội đen đàn áp dân nghèo, gây nên
một làn sóng bất bình khắp nơi, có nguy cơ làm bất ổn định xã hội. Nhiều công
nhân tại các doanh nghiệp FDI ở các khu công nghiệp biểu tình đòi tăng lương và
cải thiện điều kiện sống, nhưng không được giới chủ đáp ứng tích cực nên đầy
bức xúc, dễ bị kẻ xấu lợi dụng kích động gây rối, như các vụ bạo động chống Trung Qu ốc gần đây đã chứng
minh.
Thất bại kinh tế và bất ổn xã hội đã thúc đẩy nhanh khủng hoảng chính trị và lãnh đạo. Các phe phái cầm quyền tranh giành quyền lực ngày càng quyết liệt, làm phân hóa nội bộ lãnh đạo và tê liệt năng lực quản trị đất nước, tới mức khủng hoảng. Đấu tranh quyền lực quyết liệt giữa phe chính phủ do Thủ tướng đứng đầu với phe đảng do Tổng Bí thư đứng đầu, đã diễn ra tại hầu hết các hội nghị trung ương trong năm 2013, cho tới khi tạm thời lắng xuống vào cuối năm do không phân thắng bại phải hòa hoãn. Nay sự kiện dàn khoan HD 981 và khủng hoảng trong quan hệ Việt-Trung đã làm gia tăng tranh giành quyền lực, có lợi thế cho Thủ tướng (lên tiếng chốngTrung
Qu ốc, nên được dân ủng hộ) và bất lợi cho Tổng Bí thư (im hơi
lặng tiếng, nên mất lòng dân). Tuy Việt Nam có cơ hội để thay đổi cơ bản, nhưng
lãnh đạo lại chia rẽ vì xung đột lợi ích trước sự đe dọa của Trung Qu ốc.
Gần bốn thập kỷ sau chiến tranh Việt Nam, trong khi người Việt và người Mỹ về cơ bản đã hòa giải xong, thì cộng đồng người Việt trong nước và ngoài nước vẫn chưa hòa giải được. Nội chiến thường để lại những vết thương tâm lý và tinh thần sâu nặng hơn. Chừng nào trong lòng còn hận thù và thành kiến, thì không những khó hòa giải, mà còn dễ làm phân hóa cuộc đấu tranh chung cho tự do dân chủ và chủ quyền quốc gia. Những người cộng sản cực đoan là những người độc tài, nhưng những người chống cộng cực đoan cũng chẳng khác gì. Vì vậy, chủ nghĩa cực đoan là kẻ thù tiềm ẩn của hòa giải dân tộc và chấn hưng quốc gia.
Tình hình quốc tế
Trong khi
Thất bại kinh tế và bất ổn xã hội đã thúc đẩy nhanh khủng hoảng chính trị và lãnh đạo. Các phe phái cầm quyền tranh giành quyền lực ngày càng quyết liệt, làm phân hóa nội bộ lãnh đạo và tê liệt năng lực quản trị đất nước, tới mức khủng hoảng. Đấu tranh quyền lực quyết liệt giữa phe chính phủ do Thủ tướng đứng đầu với phe đảng do Tổng Bí thư đứng đầu, đã diễn ra tại hầu hết các hội nghị trung ương trong năm 2013, cho tới khi tạm thời lắng xuống vào cuối năm do không phân thắng bại phải hòa hoãn. Nay sự kiện dàn khoan HD 981 và khủng hoảng trong quan hệ Việt-Trung đã làm gia tăng tranh giành quyền lực, có lợi thế cho Thủ tướng (lên tiếng chống
Gần bốn thập kỷ sau chiến tranh Việt Nam, trong khi người Việt và người Mỹ về cơ bản đã hòa giải xong, thì cộng đồng người Việt trong nước và ngoài nước vẫn chưa hòa giải được. Nội chiến thường để lại những vết thương tâm lý và tinh thần sâu nặng hơn. Chừng nào trong lòng còn hận thù và thành kiến, thì không những khó hòa giải, mà còn dễ làm phân hóa cuộc đấu tranh chung cho tự do dân chủ và chủ quyền quốc gia. Những người cộng sản cực đoan là những người độc tài, nhưng những người chống cộng cực đoan cũng chẳng khác gì. Vì vậy, chủ nghĩa cực đoan là kẻ thù tiềm ẩn của hòa giải dân tộc và chấn hưng quốc gia.
Tình hình quốc tế
Con sói cô
độc
Việt Nam tuyên bố chính sách đa phương hóa quan hệ và có “đối tác chiến lược” với hơn 10 nước (nhưng chưa có Mỹ). Lúc này, chẳng đối tác chiến lược nào (ngoài Mỹ) có thể giúp Viêt Nam răn đeTrung Qu ốc để tránh bị bắt nạt. Trước hành động xâm
chiếm của Trung Qu ốc
tại Biển Đông, chính phủ nhiều nước tuy bất bình, nhưng không dám công khai ủng
hộ Viêt Nam sợ làm mất lòng Trung
Qu ốc. Năm 1979, khi bị Trung Qu ốc tấn công, Việt Nam có hiệp ước liên minh
quân sự với Liên-Xô để răn đe Trung
Qu ốc. Nhưng hiện nay Việt Nam hoàn toàn cô độc, không có liên
minh quân sự với một nước nào (khác với quan hệ của Mỹ với Nhật, Hàn Quốc, và
Philippines). Viêt Nam đã cố giữ cân bằng quan hệ với Trung Qu ốc và Mỹ bằng chính
sách “Ba Không”: không tham gia liên minh quân sự với nước nào, không cho nước
nào đặt căn cứ quân sự, và không dựa vào nước này để chống nước kia. Nếu Việt
Nam không thay đổi chính sách cân bằng thụ động này, thì làm sao tự bảo vệ được
mình? Viet Nam đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng kép: vừa thất bại về kinh
tế vừa bị Trung Qu ốc
đe dọa chủ quyền.
Chính sách “xoay trục” của Mỹ sang Đông Á chưa có hiệu lực răn đeTrung Qu ốc. Bằng việc đưa dàn
khoan HD 981 đến Biển Đông, Trung
Qu ốc đã qua mặt Mỹ, ngay sau khi Tổng thống Obama đến thăm
Đông Á. Phản ứng của Mỹ đối với Trung
Qu ốc chưa đủ mạnh, vì Việt Nam khác với Philippines. Quan hệ
“đối tác toàn diện” với Mỹ phải nâng lên thành “đối tác chiến lược”, bao gồm
bán vũ khí sát thương, tập trận chung, và sử dụng căn cứ quân sự tại Cam Ranh
(như Philippines và Singapore đã làm với Mỹ). Nhưng thể chế chính trị độc tài
của Viêt Nam, với hồ sơ nhân quyền xấu vì đàn áp tự do dân chủ, là trở ngại
chính đối với việc nâng cấp quan hệ với Mỹ. Viêt Nam cũng khó hòa nhập sâu hơn
vào thị trường thế giới (WTO và TPP) vì vẫn bám giữ “định hướng XHCN” và chậm
chuyển đổi hẳn sang kinh tế trị trường.
Phản ứng của ASEAN đối với sự kiện HD 981 cũng khá yếu. Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN (10/5/2014 tại Myanmar) ra được tuyên bố chung nhưng không dám nêu đích danhTrung Qu ốc.
ASEAN là một tổ chức lỏng lẻo gồm nhiều nước có thành phần đa dạng, dễ bị Trung Qu ốc phân hóa và vô hiệu
hóa. Bó đũa ASEAN đang bị Trung
Qu ốc tách ra để bẻ gãy từng chiếc, nếu không đoàn kết trong
một cộng đồng mạnh hơn. Trong nhiều năm, ASEAN đã không ép được Trung Qu ốc ký COC (quy tắc ứng
xử) tại Biển Đông. ASEAN không có cơ chế an ninh tập thể nên không thể can
thiệp để bảo vệ các nước thành viên, kể cả khi bị đe dọa.
Căng thẳng và xung đột trong khu vực đã thúc đẩy nhiều nước chạy đua vũ trang. Việt Nam trở thành khách hàng lớn mua vũ khí của Nga. Nhưng điều này dẫn đến hai nguy cơ lớn: Một là, chi phí quốc phòng tăng lên trong khi kinh tế suy thoái sẽ đặt Viêt Nam vào thế tiến thoái lưỡng nan; Hai là, Việt Nam sẽ bị hở sườn nếuTrung Qu ốc
và Nga nâng cấp đối tác chiến lược để đối phó với Mỹ (như đang diễn ra hiện
nay). Nếu Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ thành đối tác chiến lược (như dự
kiến), thì các hệ thống vũ khí hiện đại mua của Nga có thể không còn an toàn để
chống Trung Qu ốc
nữa (đặc biệt là hợp đồng mua 6 tàu ngầm Kilo class 636 và mua thêm 12 máy bay
chiến đầu Su-30MK2 còn đang trong quá trình chuyển giao). Vì vậy, việc Mỹ bỏ
cấm vận vũ khí sát thương là rất quan trọng đối với Việt Nam lúc này.
Nước cờ tiếp theo
Việt Nam tuyên bố chính sách đa phương hóa quan hệ và có “đối tác chiến lược” với hơn 10 nước (nhưng chưa có Mỹ). Lúc này, chẳng đối tác chiến lược nào (ngoài Mỹ) có thể giúp Viêt Nam răn đe
Chính sách “xoay trục” của Mỹ sang Đông Á chưa có hiệu lực răn đe
Phản ứng của ASEAN đối với sự kiện HD 981 cũng khá yếu. Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN (10/5/2014 tại Myanmar) ra được tuyên bố chung nhưng không dám nêu đích danh
Căng thẳng và xung đột trong khu vực đã thúc đẩy nhiều nước chạy đua vũ trang. Việt Nam trở thành khách hàng lớn mua vũ khí của Nga. Nhưng điều này dẫn đến hai nguy cơ lớn: Một là, chi phí quốc phòng tăng lên trong khi kinh tế suy thoái sẽ đặt Viêt Nam vào thế tiến thoái lưỡng nan; Hai là, Việt Nam sẽ bị hở sườn nếu
Nước cờ tiếp theo
Tiếp tục
“Tam chủng Chiến pháp”
Sự kiệnTrung Qu ốc
đưa dàn khoan HD 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và bạo loạn chống Trung Qu ốc tại Bình Dương và
Vũng Áng là lời cảnh báo về những tử huyệt của Viêt Nam. Nhưng nếu lãnh đạo Hà
Nội vẫn không tỉnh ngộ để tìm cách thoát khỏi cái bẫy ý thức hệ và dũng cảm đối
phó với thực tế mới, thì Trung
Qu ốc sẽ tiếp tục thao túng những tử huyệt này để đạt được mục
đích, mà chẳng cần chiến tranh.
Trung Qu ốc
đã lợi dụng tử huyệt của lãnh đạo Viêt Nam để dùng dàn khoan HD 981 lấn chiếm
chủ quyền tại Biển Đông như chuyện đã rồi, để thử phản ứng các bên liên quan.
Người ta nghi ngờ tay sai của Trung
Qu ốc tại Việt Nam đã ngầm xúi giục công nhân gây bạo loạn tại
Bình Dương, Vũng Áng và những nơi khác để Trung Qu ốc lấy cớ rút người và đầu tư, và để các nhà
đầu tư Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản sợ không dám đầu tư. Việc này nhằm gây sức
ép để chính phủ Việt Nam tiếp tục trấn áp biểu tình chống Trung Qu ốc. Ngoài ra Trung Qu ốc có thể dùng những
đòn bẩy khác để gây bất ổn cho xã hội Viêt Nam, như dùng mạng lưới tay sai cài
cắm trong nội bộ chính quyền và cộng đồng để tác động vào các sự kiện, dùng
biện pháp tài chính thương mại để thao túng thị trường, dùng chiến tranh mạng
để gây nhiễu, dùng truyền thông để tác động vào dư luận, và dùng công cụ pháp
lý để lật lại vấn đề. Đây là một phần của học thuyết “Tam chủng Chiến pháp”
(Chiến tranh tâm lý, truyền thông và pháp lý) mà lãnh đạo của họ đã thông qua
từ năm 2003. Trong khi chính phủ Việt Nam chưa dám nộp đơn kiện, thì ngày 9/6, Trung Qu ốc đã bất ngờ đệ trình
Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc một tài liệu chính thức về quan điểm đối với tranh
chấp tại Biển Đông để lưu chuyển cho tất cả 193 thành viên
LHQ.
Phản ứng của lãnh đạo Viêt Nam quá chậm và im hơi lặng tiếng, trừ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có những tuyên bố kịp thời và mạnh mẽ về hành động hiếu chiến củaTrung Qu ốc,
tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN ở Myanmar (10/5) và tại Diễn đàn Kinh tế Thế
giới về Đông Á ở Manila (22/5), ghi điểm cao và nổi bật trước các đối thủ chính
trị khác. Trước mắt, Thủ tướng đã giành lại được sự ủng hộ của dân chúng và
chính danh của người lãnh đạo quốc gia cho sứ mạng bảo vệ chủ quyền. Điều
này là thiết yếu trong cuộc chạy đua vào vị trí số một tại Đại Hội Đảng tới. Sự
kiện này đã tạo ra một bước ngoặt làm phân hóa nội bộ lãnh đạo Việt Nam, có thể
đảo lộn những toan tính trước đó về sắp xếp nhân sự. Đây là cơ hội tốt để Thủ
tướng khẳng định vị thế chính trị, và tạo ra những thay đổi cơ bản về chính trị
và đối ngoại. Nhưng điều này còn phụ thuộc vào lòng dũng cảm và thành tâm chính
trị của người lãnh đạo. .
Phản ứng của dân chúng quá nhanh và mạnh. Có lẽ hơi quá bồng bột để “các thế lực thù địch” lợi dụng gây bạo loạn tại Bình Dương, Vũng Áng và các nơi khác, làm mất uy tín Việt Nam và phá hoại nền kinh tế đang khủng hoảng. Nếu chính phủ biết cách khắc phục hậu quả, hy vọng tác động tiêu cực đến đầu tư FDI, như rút người rút vốn, chỉ là nhất thời. Sau lúng túng ban đầu, chính phủ đã có những biện pháp mạnh hơn để đối phó. Nhưng đừng quá mạnh tay với dân chúng và nhẹ tay với bọn đầu sỏ thủ phạm, vì đó là dấu hiệu họ đứng về phía nào. Đây là cơ hội tốt để các lực lượng yêu nước tập hợp, vì hòa giải và đoàn kết dân tộc, để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Đây cũng là thời điểm tốt để phe cải cách lật ngược bàn cờ chính trịvà giành lại thế thượng phong. Nhưng sau chuyến thăm củaDương Khi ết
Trì (18/6/20014), hình như cả hai phái lãnh đạo Việt Nam vẫn lúng túng và bất
lực, chưa dám hành động.
Tuy phe bảo thủ thânTrung
Qu ốc bị choáng váng, hoang mang và mất thể diện, nhưng họ vẫn
nắm quyền quyết định. Việc Ngoại trưởng Phạm Bình Minh phải hoãn chuyến đi Mỹ
theo lời mời của Ngoại trưởng John Kerry (22/5), và những phát biểu yếu ớt của
Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh tại Đối thoại Shangri-La 2014 (30/5) là
những tín hiệu xấu, chứng tỏ lãnh đạo Việt Nam vẫn sợ Trung Qu ốc, tiếp tục duy trì
nguyên trạng về ý thức hệ, mặc dù nguy hại cho chủ quyền quốc gia. Một khi Trung Qu ốc rút dàn khoan và tàu
thuyền về, phe bảo thủ sẽ lại hồi phục và thế cân bằng chính trị lại tiếp diễn.
Kinh nghiệm cho thấy, chỉ có thể thay đổi cơ bản khi nào dân chúng thoát khỏi
nỗi sợ để hòa giải và đoàn kết dân tộc thành sức mạnh nhân dân, tạo sự đột phá
bằng quá trình thay đổi từ dưới lên, chứ không phải chỉ từ trên xuống. Giai
đoạn Đổi mới (1986-1990) là một bài học về quá trình thay đổi từ trên xuống bị
chết yểu khi chính quyền đột nhiên quyết định đóng cửa.
Phản ứng quốc tế mạnh hơn trước, nhưng chưa đủ mạnh để răn đeTrung Qu ốc. Không nên ảo tưởng
là quốc tế luôn ủng hộ Viêt Nam chống Trung Qu ốc, vì thế lực Trung Qu ốc quá lớn và quá mạnh,
bàn tay của họ quá dài vươn ra khắp nơi. Viêt Nam phải thay đổi thái độ chính
trị để có bộ mặt tử tế hơn Trung
Qu ốc, vì không ai muốn ủng hộ một chế độ độc tài tham nhũng,
với hồ sơ nhân quyền quá xấu. Đây là cơ hội tốt để Việt Nam nâng cấp quan hệ
với Mỹ thành đối tác chiến lược để đối phó với Trung Qu ốc. Nhưng đừng quá ảo
tưởng vào “lá bài Mỹ” (cũng như “lá bài Nga” trước đây). Chủ trương “xoay trục”
và trò chơi TPP của Mỹ còn đang diễn biến. Đối với Washington, Trung Qu ốc quan trọng hơn nhiều
so với Việt Nam. Hơn nữa, Mỹ còn đang sa lầy tại Trung Đông và dính líu tại
Ukraine, trong khi phải đối phó với ngân sách quốc phòng bị cắt giảm và xu
hướng trong nước muốn co lại. Trong bài diễn văn về đối ngoại dài 9 trang tổng
thống Obama đọc tại West Point (28/5/2014) chỉ có mấy dòng mờ nhạt đề cập đến
tranh chấp trên biển tại khu vực này, trong đó chỉ nhắc đến Biển Đông và Trung Qu ốc hai lần, và không
nói gì đến Việt nam cũng như dàn khoan của Trung Qu ốc.
Trung Qu ốc
khó có khả năng duy trì quá lâu dàn khoan khổng lồ HD 981 và một đội tàu hộ
tống quá lớn tại Biển Đông. Đơn giản là quá tốn kém, dù cho bất kỳ lý do gì. Trung Qu ốc có thể rút dàn khoan
HD 981 vào giữa tháng 8 như dự kiến, hoặc thậm chí sớm hơn nếu đã xong nhiệm
vụ, hoặc nếu mùa mưa bão ập đến sớm hơn. Nhưng dù sao, Trung Qu ốc sẽ không bao giờ bỏ
cuộc, và sẽ sử dụng tối đa “chiến thuật dàn khoan”. Họ có thể triển khai thêm
nhiều dàn khoan tại những vị trí khác, và ráo riết xây dựng hạ tầng chiến lược
tại các bãi đá họ chiếm để đòi “vùng đặc quyền kinh tế”, và “khu vực nhận dạng
phòng không”. Trung Qu ốc
sẽ “tùy cơ áp đặt” để từng bước độc chiếm Biển Đông, nhưng tránh đối đầu quân
sự với Mỹ. Nước cờ dàn khoan của họ cho thấy nếu xung đột vũ trang xảy ra, nó
sẽ xảy ra chớp nhoáng trên biển, với những đòn tấn công chính xác của hải quân
và không quân, để phát huy ưu thế, nhằm đảm bảo thắng nhanh để Mỹ không kịp can
thiệp. Trận hải chiến tại Gạc Ma năm 1988 là một ví dụ.
Nhưng khi hạm đội tàu ngầm Viêt Nam gồm 6 chiếc Kilo class 636 được bàn giao và sẵn sàng hoạt động, với 12 máy bay chiến đấu Su-30MK2 mới bổ xung,Trung Qu ốc sẽ khó tự do tung
hoành ở Biển Đông. Đặc biệt, khi quan hệ với Mỹ được nâng cấp thành “đối tác
chiến lược”, bao gồm bán vũ khí sát thương và tập trận chung với Hạm đội 7, và
nhất là sau khi Nhật Bản chuyển giao đội tàu tuần duyên loại Bizan cho cảnh sát
biển Việt Nam, thì tư thế phòng thủ của Viêt Nam ở Biển Đông sẽ được cải thiện
đáng kể. Tuy Trung Qu ốc
không muốn xô đẩy Viêt Nam vào vòng tay người Mỹ, nhưng hành động ngang ngược
mới của họ có thể làm thay đổi cục diện, dẫn đến những hệ quả không mong muốn.
Trung Qu ốc
có những phương án khác trong chiến lược vươn ra biển khơi của mình. Nếu lối ra
Ấn Độ Dương của họ bị ngăn chặn vì những thay đổi gần đây ở Miến Điện, với sự
gia tăng ảnh hưởng của Mỹ tại đây, Trung
Qu ốc phải tìm lối ra Vịnh Thailand và xa hơn nữa. Vì những lý
do kinh tế và địa chính trị, Trung
Quôc phải kết nối các tỉnh phía Nam với biển khơi bằng một
hành lang trong đất liền như một tuyến đường huyết mạch đi qua mấy nước láng
giềng, để đối phó với chiến lược “bao vây trên biển” của Mỹ nhằm phong tỏa Trung Qu ốc tại các điểm yết hầu
trên biển. Gần đây, Trung Qu ốc
đã giành được một số dự án lớn ở Lao, Campuchea và Thailand, để xây dựng những
cơ sở giao thông và hậu cần có giá trị cao, bao gồm các hệ thống đường sắt,
đường cao tốc, đường sông, sân bay, trạm ra đa, hải cảng và kho tàng.
ViệcTrung Qu ốc
triển khai dàn khoan khổng lồ HD 981 và đội tàu hộ tống rất lớn tại đây là một
phần của kế hoạch nhằm độc chiếm Biển Đông, và kiểm soát các đường hàng hải
huyết mạch, bằng cách triển khai học thuyết A2/AD (anti-access/area-denial) mà
Mỹ và các đồng minh rất quan ngại. Gã khổng lồ đói năng lượng tất nhiên thèm
khát tài nguyên ở Biển Đông, bao gồm 11 tỷ thùng dầu và 190 nghìn tỷ mét khối
(Anh) khí đốt (theo đánh giá của US Energy Information Administration) hoặc 17
tỷ thùng dầu và 498 nghìn tỷ mét khối khí đốt (theo đánh giá của China National
Offshore Oil Corporation). Nhưng, Trung
Qu ốc còn muốn kiểm soát cả đường hàng hải, vì hơn 5 nghìn tỷ
USD hàng hóa hàng năm phải qua đây (gồm 3/4 số dầu Trung Qu ốc nhập khẩu và hầu hết
số dầu chuyển đến Japan, South Korea, và Taiwan). Vì tất cả hàng hóa của họ vận
chuyển bằng đường biển phải qua đây, nên Trung Qu ốc rất lo ngại chiến lược “Kiểm soát Ngoài
khơi” (Offshore Control) của Mỹ nhằm bảo vệ “Vành đai các đảo tiền tiêu” (First
Islands Chain) và dùng các điểm yết hầu như eo Malacca hay Lombok để chặn đường
xuất nhập khẩu của Trung Qu ốc.
Vì vậy, trong khi Trung Qu ốc
tìm kiếm các con đường bộ khác (qua Lao, Campuchea, Thailand), họ phải kiểm
soát bằng được Biển Đông.
Điều một dàn khoan trị giá gần một tỷ đô la đến Biển Đông, với hơn một trăm tàu hộ tống các loại vây quanh trong mấy tháng liền, chi phí mỗi ngày gần một triệu đô la,Trung Qu ốc
không chỉ nhằm một mục đích. Nếu không phải chủ yếu để khoan dầu như dư luận
nghi vấn, thì nó phải có một nhiệm vụ gì khác quan trọng hơn. Dàn khoan này có
thể được dùng để đánh lạc hướng dư luận trong khi họ lặng lẽ xây dựng đảo nhân
tạo và căn cứ quân sự tại các bãi đá ở Trường Sa, nhằm áp đặt “đường lưỡi bò”
(như chuyện đã rồi), tuyên bố “khu vực nhận dạng phòng không” (ADIZ) và đòi
“vùng đặc quyền kinh tế” (EEZ) như tại Hoàng Sa. Nếu đúng Trung Qu ốc đang đóng thêm một
dàn khoan khổng lồ thứ hai (HD 982) như tin đồn, thì việc sử dụng dàn khoan
khổng lồ có công năng kép này chứng tỏ là một công cụ chiến lược hiệu quả, vừa
để khoan dầu vừa để khẳng định chủ quyền.
Vì vậy, điều quan trọng là phải quan sát thật kỹ xemTrung Qu ốc đang lặng lẽ làm gì
tại các địa điểm chiến lược khác ở Biển Đông, cũng như ở Viet Nam, Lào, Campuchea,
và Thailand (từ sau đảo chính). Các công trình đang được xây dựng ở Trường Sa
(như đường băng trên bãi đá Gac Ma, đảo nhân tạo và căn cứ quân sự trên bãi đá
Chữ Thập) sẽ được kết nối với căn cứ hải quân Du Lâm tại đảo Hải Nam và đảo Tam
Sa tại Hoàng Sa. Theo đường chim bay, căn cứ Du Lâm chỉ cách đặc khu kinh tế
Vũng Áng hơn 350km. Mấy nghìn công nhân Trung Qu ốc đang làm việc tại Vũng Áng (Hà Tĩnh, Miền
Trung), tại dự án Bô xít Tân Rai và Nhân Cơ (Tây Nguyên) là một rủi ro lớn về
an ninh. Nếu có chiến sự, Trung
Qu ốc dễ dàng cắt đôi Việt Nam tại điểm xung yếu này. Về phía
Tây có tuyến đường sắt cao tốc Côn Minh-Vientiane (Lào), các căn cứ tại Koh
Kong và Bokor (Campuchea), kênh đào Kra Isthmus (Thailand). Một khi các cơ sở
chiến lược này hoàn thành và được kết nối, thì Trung Qu ốc có thể vô hiệu hóa
kế hoạch “xoay trục” của Mỹ nhằm ngăn chặn Trung Qu ốc, và dễ dàng khống chế Việt Nam. Họ chỉ
cần hăm dọa, cưỡng ép và bắt chẹt cũng đạt được mục đích, mà không cần phải
đánh, vì lúc đó mọi sự kháng cự của Việt Nam là quá yếu ớt và quá muộn…
Năm 1973 “cú sốc dầu hỏa” làm Nhật Bản được một bài học nhớ đời, phải vội vã điều chỉnh chiến lược năng lượng, nên bị thiên hạ gọi là “quái vật kinh tế”.Trung Qu ốc học
bài rất nhanh, đã kịp thời bắt tay với Nga gần đây để đảm bảo nguồn cung cấp
năng lượng và lá bài địa chính trị trong trò chơi nước lớn mới. Trong khi đó, Trung Qu ốc đã triển khai hung
hăng hơn tại Biển Đông để tranh thủ giành lợi thế do khoảng trống quyền lực tại
đây vì ASEAN yếu và phân hóa, còn Mỹ và các đồng minh đều vướng các vấn đề khác
nên không thể hành động quyết đoán. Đây là nước cờ có tính toán nhưng rất nguy
hiểm vì Trung Qu ốc
không chỉ là một “quái vật kinh tế” khổng lồ đã vượt qua Nhật Bản, mà còn là
một “quái vật được vũ trang” đầy tham vọng, sẵn sàng thách thức các quyền lợi
toàn cầu của Mỹ. Họ không còn đủ kiên nhẫn để chơi theo luật chơi cũ. “Cú sốc
dàn khoan” này là một lời cảnh báo và một bước ngoặt mới, không chỉ đối với
Việt Nam mà cho toàn khu vực. Dù có kiềm chế, khả năng xảy ra xung đột vũ trang
do sai sót kỹ thuật hay con người, hoặc do trục trặc về truyền thông là rất
lớn.
Làm thế nào để “thoát Trung”
Sự kiện
Phản ứng của lãnh đạo Viêt Nam quá chậm và im hơi lặng tiếng, trừ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có những tuyên bố kịp thời và mạnh mẽ về hành động hiếu chiến của
Phản ứng của dân chúng quá nhanh và mạnh. Có lẽ hơi quá bồng bột để “các thế lực thù địch” lợi dụng gây bạo loạn tại Bình Dương, Vũng Áng và các nơi khác, làm mất uy tín Việt Nam và phá hoại nền kinh tế đang khủng hoảng. Nếu chính phủ biết cách khắc phục hậu quả, hy vọng tác động tiêu cực đến đầu tư FDI, như rút người rút vốn, chỉ là nhất thời. Sau lúng túng ban đầu, chính phủ đã có những biện pháp mạnh hơn để đối phó. Nhưng đừng quá mạnh tay với dân chúng và nhẹ tay với bọn đầu sỏ thủ phạm, vì đó là dấu hiệu họ đứng về phía nào. Đây là cơ hội tốt để các lực lượng yêu nước tập hợp, vì hòa giải và đoàn kết dân tộc, để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Đây cũng là thời điểm tốt để phe cải cách lật ngược bàn cờ chính trịvà giành lại thế thượng phong. Nhưng sau chuyến thăm của
Tuy phe bảo thủ thân
Phản ứng quốc tế mạnh hơn trước, nhưng chưa đủ mạnh để răn đe
Nhưng khi hạm đội tàu ngầm Viêt Nam gồm 6 chiếc Kilo class 636 được bàn giao và sẵn sàng hoạt động, với 12 máy bay chiến đấu Su-30MK2 mới bổ xung,
Việc
Điều một dàn khoan trị giá gần một tỷ đô la đến Biển Đông, với hơn một trăm tàu hộ tống các loại vây quanh trong mấy tháng liền, chi phí mỗi ngày gần một triệu đô la,
Vì vậy, điều quan trọng là phải quan sát thật kỹ xem
Năm 1973 “cú sốc dầu hỏa” làm Nhật Bản được một bài học nhớ đời, phải vội vã điều chỉnh chiến lược năng lượng, nên bị thiên hạ gọi là “quái vật kinh tế”.
Làm thế nào để “thoát Trung”
Phản tỉnh
dể thoát khỏi cái bẫy ý thức hệ
Quan hệ Viêt-Trung phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và hai bên cùng có lợi. Nhưng thực tế điều này không thể có giữa một nước nhỏ yếu với một láng giềng khổng lồ, lại có truyền thống bá quyền đại Hán. Cách duy nhất là Việt Nam phải độc lập và đủ mạnh để răn đe đối vớiTrung Qu ốc (như Israel đối với
các láng giềng lớn hơn).
Nhưng muốn độc lập và mạnh, trước hết phải “thoát Trung” vì cái bẫy ý thức hệ đã trói buộc và kìm hãm Viêt Nam trong hơn một nửa thế kỷ. Cơ hội “thoát Trung” tốt nhất là khiTrung
Qu ốc bi khủng hoảng và suy yếu (như thời Cách mạng Văn hóa).
Mô hình Trung Qu ốc
trước đây đã thất bại (như đại nhảy vọt) và sắp tới cũng không thể thành công
(như Giấc mộng Trung Hoa ),
trừ phi có thay đổi chính trị cơ bản (điều này rất khó). Đó là nghịch lý phát
triển kiểu Trung Qu ốc.
Gordon Chang dự đoán “Trung Qu ốc
sắp xụp đổ” trong khi Paul Krugman xác nhận “Trung Qu ốc đang gặp rắc rối
lớn”, vì đã đến điểm giới hạn. Ngày phán quyết của họ đang đến gần. Vậy tại sao
Việt Nam cứ đi theo Trung Qu ốc?
Muốn “thoát Trung”, trước hết Việt Nam phải đổi mới tư duy, từ “trong cái hộp” phải tư duy “ngoài cái hộp”. Người Việt phải học hỏi kinh nghiệm “thoát Á” của người Nhật dưới thời Minh trị, theo tư tưởng đổi mới vĩ đại của Fukuzawa Yukichi (1835-1901). Những nước Đông Á nào quyết tâm đổi mới tư duy để hiện đại hóa đất nước, đều trở thành cường thịnh và có sức sống (như Nhật Bản, Hàn Quốc). Chỉ 2 hay 3 thập kỷ sau chiến tranh bị tàn phá lớn, họ đã chấn hưng được đất nước, trở thành cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới.
Trong hơn một nửa thế kỷ qua, Viêt Nam đã xa lầy vào quỹ đạo ý thức hệTrung Qu ốc hai lần. Lần thứ
nhất là từ khi biên giới hai nước thông thương (1950) để hai bên “núi liền núi,
sông liền sông”, gắn bó như “môi với răng”, và để chủ nghĩa Mao tràn vào Viêt
Nam, gây bao đại họa (như cải cách ruộng đất, tập thể hóa nông nghiệp, đàn áp
phong trào nhân văn Giai phẩm…). Lần thứ hai là tại gặp gỡ cấp cao Thành Đô (9/1990) khi
hai “anh em tử thù” lại đột nhiên ôm chầm lấy nhau như các đồng chí “bốn tốt”
với phương châm “16 chữ vàng”. Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Trung Qu ốc một cách “bất bình
thường”, dại dột tự chui đầu vào cái bẫy ý thức hệ của Trung Qu ốc, để bây giờ mới vỡ
mộng khi Trung Qu ốc
công khai lộ bộ mặt thật. Hệ lụy nặng nề của sai lầm to lớn tại Thành Đô đã
được cố ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch dự báo, nay đang diễn ra tại Biển Đông và
những nơi khác.
Giữa hai kinh nghiệm thảm họa đó khi Viêt Nam đi theo quỹ đạoTrung Qu ốc, thì Viêt Nam đã cố
“thoát Trung” một lần sau năm 1975, khi Viêt Nam xâm lược Campuchea để đánh
Khmer Đỏ là đồng minh của Trung
Qu ốc (12/1978), và đánh trả Trung Qu ốc xâm lược Viêt Nam để
“dạy bài học” (2/1979). Viêt Nam đã coi Trung Qu ốc như “kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm”, thậm
chí ghi cả điều đó vào Hiến pháp (1980) và Cương lĩnh Đảng (1982). Viêt Nam đã
mắc sai lầm chiến lược to lớn, sập bẫy của Trung Qu ốc, bị cô lập với thế giới (trừ Liên Xô), và
xa lầy tại Campuchea. Viêt Nam đã cố “thoát Trung” một cách lầm lẫn: chống Trung Qu ốc (nhưng vẫn giữ
nguyên ý thức hệ), chủ quan (tưởng Liên Xô là thành trì vững chắc) và ngây thơ
(đối đầu với Trung Qu ốc
khi họ đã bắt tay được với Mỹ).
Nay nếu Viêt Nam định “thoát Trung” bằng cách đi đêm với Mỹ như đối tác chiến lược để chốngTrung Qu ốc,
trong khi không chịu từ bỏ ý thức hệ đã lỗi thời, thì sẽ lặp lại sai lầm. Viêt
Nam chỉ có thể dựa vào Mỹ để “căn bằng” với Trung Qu ốc, chứ không thể “đối đầu” với họ. Chỉ có
thể “thoát Trung” về ý thức hệ, chứ không thể “thoát Trung” về địa chính trị.
Về lâu dài, người Việt phải sống khiêm tốn, tử tế, tương kính với người Hoa như
những láng giềng thân thiện, cùng nhau đổi mới kinh tế và chính trị, xây dựng
một xã hội khá giả và dân chủ. Độc tài và tham nhũng là kẻ thù chung của hai
dân tộc. Vì vậy, muốn “thoát Trung” trước hết phải phản tỉnh để thoát khỏi ý
thức hệ đã lỗi thời, là nguyên nhân chính dẫn đến mọi tai họa.
Làm thế nào để sống bên cạnhTrung
Qu ốc?
Quan hệ Viêt-Trung phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và hai bên cùng có lợi. Nhưng thực tế điều này không thể có giữa một nước nhỏ yếu với một láng giềng khổng lồ, lại có truyền thống bá quyền đại Hán. Cách duy nhất là Việt Nam phải độc lập và đủ mạnh để răn đe đối với
Nhưng muốn độc lập và mạnh, trước hết phải “thoát Trung” vì cái bẫy ý thức hệ đã trói buộc và kìm hãm Viêt Nam trong hơn một nửa thế kỷ. Cơ hội “thoát Trung” tốt nhất là khi
Muốn “thoát Trung”, trước hết Việt Nam phải đổi mới tư duy, từ “trong cái hộp” phải tư duy “ngoài cái hộp”. Người Việt phải học hỏi kinh nghiệm “thoát Á” của người Nhật dưới thời Minh trị, theo tư tưởng đổi mới vĩ đại của Fukuzawa Yukichi (1835-1901). Những nước Đông Á nào quyết tâm đổi mới tư duy để hiện đại hóa đất nước, đều trở thành cường thịnh và có sức sống (như Nhật Bản, Hàn Quốc). Chỉ 2 hay 3 thập kỷ sau chiến tranh bị tàn phá lớn, họ đã chấn hưng được đất nước, trở thành cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới.
Trong hơn một nửa thế kỷ qua, Viêt Nam đã xa lầy vào quỹ đạo ý thức hệ
Giữa hai kinh nghiệm thảm họa đó khi Viêt Nam đi theo quỹ đạo
Nay nếu Viêt Nam định “thoát Trung” bằng cách đi đêm với Mỹ như đối tác chiến lược để chống
Làm thế nào để sống bên cạnh
Phải thay
đổi hoặc mất hết.
Nhìn lại quá khứ với những bài học đau đớn, Viêt Nam phải làm thế nào để sống được bên cạnh một nước láng giềng khổng lồ có truyền thống bá quyền đại Hán (nhưTrung Qu ốc)?
Thứ nhất, lãnh đạo của nước nhỏ hơn phải giỏi hơn về thuật trị quốc, để nước láng giêng lớn hơn không dễ bắt nạt. Để có lãnh đạo giỏi, phải biết trọng dụng nhân tài, không phân biệt và kỳ thị nguồn gốc, như người Đức trọng dụng bà Angela Markel gốc Đông Đức hayông Philipp Koeller gốc Việt. Lãnh đạo quốc gia phải
vì lợi ích dân tộc, chứ không vì lợi ích nhóm hay cá nhân. Nếu lãnh đạo chạy
chức chạy quyền không theo luật pháp, thì các quan tham sẽ vơ vét tài sản quốc
gia làm giàu cho mình, làm đất nước khánh kiệt.
Thứ hai, dân trí của nước nhỏ hơn phải cao hơn trong một xã hội dân sự, để nước láng giềng lớn hơn không dễ lừa gạt. Phải khai tâm khai trí cho dân, và phải tôn trọng quyền tự do dân chủ của người dân. Đất nước không thể có nhân tài nếu người dân không được suy nghĩ sáng tạo và tự do tư tưởng. Không thể phát huy được nội lực quốc gia để dựng nước và giữ nước nếu không có hòa giải dân tộc và xã hội dân sự.
Thứ ba, tiềm lực kinh tế và quốc phòng của nước nhỏ hơn phải có chất lượng cao hơn, để nước láng giềng lớn hơn không dễ áp đặt. Trong quá trình dựng nước, phải học bài học “quốc gia khởi nghiệp” của Israel, và kinh nghiệm phục hồi kinh tế sau chiến tranh của Đức, Nhật và Hàn Quốc. Mặc dù Nhật và Đức thua trận phải đầu hàng, nhưng chỉ hai-ba thập kỷ sau chiến tranh, họ đã phục hồi, trở thành cường quốc kinh tế đứng thứ hai và thứ ba thế giới. Trong khi đó Việt Nam tuy thắng trận, nhưng bốn thập kỷ sau chiến tranh, đất nươc vẫn nghèo nàn lạc hậu và lệ thuộc. Muốn phát triển kinh tế bền vững, phải đổi mới thể chế chính trị, để hậu thuẫn cho cải cách kinh tế và đổi mới công nghệ.
Thứ tư, quan hệ đối tác chiến lược của nước nhỏ hơn phải đủ mạnh để răn đe tham vọng bá quyền của nước láng giềng lớn. Hiện nay, Viêt Nam có rất ít sự lựa chọn và rất ít thời gian, không thể tiếp tục bắt cá hai tay để cân bằng quan hệ với cảTrung Qu ốc
và Mỹ. Sự kiện dàn khoan HD 981 là một bài học. Trong thế giới đa cực ngày nay,
quan hệ đối tác chiến lược không còn phụ thuộc vào ý thức hệ mà chỉ dựa vào lợi
ích quốc gia và địa chính trị. Nếu Viêt Nam không chịu thay đổi tư duy thì sẽ
trở thành tù binh của quá khứ, và thất bại.
Nếu thiếu hụt những yếu tố trên, Viêt Nam dễ trở thành mồi ngon của chủ nghĩa bá quyền đại Hán. Nguy cơ bắc thuộc ngày càng lớn lên cùng sự trỗi dậy củaTrung Qu ốc
và tụt hậu của Viêt Nam. Để giữ độc lập và chủ quyền quốc gia, người Việt cần
phản tỉnh để thoát khỏi cái bẫy ý thức hệ và cải cách thể chế chính trị. Đã đến
lúc phải thay đổi hoặc mất hết.
NQD, 6/2014
(Nguyen Quang Dy is a Harvard Nieman Fellow, 1993).
Theo Viet- studies
......................................
References:
1. Peril of Pride and Prejudice, Philip Bowring, South China Morning Post, May 14, 2014
2. Beijing’s actions in the South China Sea demand a U.S. response, Elizabeth Economy and Michael Levi, World Policy, May 15, 2014
3. China’s Push in South China Sea Divides the Region, Murray Hiebert, CSIS, May 16, 2014
4. Hot oil on troubled waters, Economist, May 17th 2014 |
5. Vài Đánh giá Ban đầu về Cuộc Xung đột Viêt-Trung Hiện nay (Initial Assessments on Sino-Vietnamese Conflict now), Trần Ngân, Viet-Studies, May 18, 2014
6. China Miscalculates with its Drill Rig, Bill Hayton, Asia Sentinel, May 19, 2014
7. Mồi lửa & Đống củi (The Sparks & the Firewood), Huy Đức, Viet-Studies, May19, 2014
8. Xi Jinping’s Excellent adventure: A Calibrated Takeover of South China Sea, Nayan Chanda, Yale Global online, May 20, 2014.
9. Kịch bản Chiến tranh Viêt- Trung (Scenarios of a Sino-Vietnamese War), BBC interviewed Carl Thayer, May 22, 2014
10. Vietnam Won’t be Pushed Around by China, H.D.S. Greenway, Boston Globe, May 25, 2014
11. Vụ Khoan dầu khiến Việt Nam Đi Trên Lộ trình Mới (China oil rig set Vietnam on a new direction), Người Việt interviewed Jonathan London, May 28, 2014
12. Vietnam: Turning Point, David Brown, Asia Sentinel, June 2, 2014
Nhìn lại quá khứ với những bài học đau đớn, Viêt Nam phải làm thế nào để sống được bên cạnh một nước láng giềng khổng lồ có truyền thống bá quyền đại Hán (như
Thứ nhất, lãnh đạo của nước nhỏ hơn phải giỏi hơn về thuật trị quốc, để nước láng giêng lớn hơn không dễ bắt nạt. Để có lãnh đạo giỏi, phải biết trọng dụng nhân tài, không phân biệt và kỳ thị nguồn gốc, như người Đức trọng dụng bà Angela Markel gốc Đông Đức hay
Thứ hai, dân trí của nước nhỏ hơn phải cao hơn trong một xã hội dân sự, để nước láng giềng lớn hơn không dễ lừa gạt. Phải khai tâm khai trí cho dân, và phải tôn trọng quyền tự do dân chủ của người dân. Đất nước không thể có nhân tài nếu người dân không được suy nghĩ sáng tạo và tự do tư tưởng. Không thể phát huy được nội lực quốc gia để dựng nước và giữ nước nếu không có hòa giải dân tộc và xã hội dân sự.
Thứ ba, tiềm lực kinh tế và quốc phòng của nước nhỏ hơn phải có chất lượng cao hơn, để nước láng giềng lớn hơn không dễ áp đặt. Trong quá trình dựng nước, phải học bài học “quốc gia khởi nghiệp” của Israel, và kinh nghiệm phục hồi kinh tế sau chiến tranh của Đức, Nhật và Hàn Quốc. Mặc dù Nhật và Đức thua trận phải đầu hàng, nhưng chỉ hai-ba thập kỷ sau chiến tranh, họ đã phục hồi, trở thành cường quốc kinh tế đứng thứ hai và thứ ba thế giới. Trong khi đó Việt Nam tuy thắng trận, nhưng bốn thập kỷ sau chiến tranh, đất nươc vẫn nghèo nàn lạc hậu và lệ thuộc. Muốn phát triển kinh tế bền vững, phải đổi mới thể chế chính trị, để hậu thuẫn cho cải cách kinh tế và đổi mới công nghệ.
Thứ tư, quan hệ đối tác chiến lược của nước nhỏ hơn phải đủ mạnh để răn đe tham vọng bá quyền của nước láng giềng lớn. Hiện nay, Viêt Nam có rất ít sự lựa chọn và rất ít thời gian, không thể tiếp tục bắt cá hai tay để cân bằng quan hệ với cả
Nếu thiếu hụt những yếu tố trên, Viêt Nam dễ trở thành mồi ngon của chủ nghĩa bá quyền đại Hán. Nguy cơ bắc thuộc ngày càng lớn lên cùng sự trỗi dậy của
NQD, 6/2014
(Nguyen Quang Dy is a Harvard Nieman Fellow, 1993).
Theo Viet- studies
......................................
References:
1. Peril of Pride and Prejudice, Philip Bowring, South China Morning Post, May 14, 2014
2. Beijing’s actions in the South China Sea demand a U.S. response, Elizabeth Economy and Michael Levi, World Policy, May 15, 2014
3. China’s Push in South China Sea Divides the Region, Murray Hiebert, CSIS, May 16, 2014
4. Hot oil on troubled waters, Economist, May 17th 2014 |
5. Vài Đánh giá Ban đầu về Cuộc Xung đột Viêt-Trung Hiện nay (Initial Assessments on Sino-Vietnamese Conflict now), Trần Ngân, Viet-Studies, May 18, 2014
6. China Miscalculates with its Drill Rig, Bill Hayton, Asia Sentinel, May 19, 2014
7. Mồi lửa & Đống củi (The Sparks & the Firewood), Huy Đức, Viet-Studies, May19, 2014
8. Xi Jinping’s Excellent adventure: A Calibrated Takeover of South China Sea, Nayan Chanda, Yale Global online, May 20, 2014.
9. Kịch bản Chiến tranh Viêt- Trung (Scenarios of a Sino-Vietnamese War), BBC interviewed Carl Thayer, May 22, 2014
10. Vietnam Won’t be Pushed Around by China, H.D.S. Greenway, Boston Globe, May 25, 2014
11. Vụ Khoan dầu khiến Việt Nam Đi Trên Lộ trình Mới (China oil rig set Vietnam on a new direction), Người Việt interviewed Jonathan London, May 28, 2014
12. Vietnam: Turning Point, David Brown, Asia Sentinel, June 2, 2014