LG Đức Thành
Hiến pháp mới
tại “chương chế độ chính trị”, điều 1
qui định: 1, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân,
do Nhân dân và Vì Nhân dân. 2… Tất cả
quyền lưc thuộc về Nhân dândo nhân dân làm chủ mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giaI cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Mới nghe tưởng
như đây là nhà nước tốt đẹp nhất văn minh nhất mà không ở đâu trên trái đất này
có được. Chỉ có duy nhất ở Việt Nam.
Thực tế thì sao?
Với lực lượng đông đảo công nhân được đảng coi là nền tảng chính của nhà nước
thì thân phận của họ đều là lao động làm thuê
với đồng công rẻ mạt, không phát huy được chất xám nếu có và phụ thuộc hoàn toàn vào chủ tư bản kể cả doanh nghiệp tư bản nhà nước trong lòng một nhà nước XHCN ở VN
hiện nay, phụ thuộc hoàn toàn vào giới chủ để chấp nhận “được bóc lột” hòng
nuôi sống bản thân theo nghĩa chỉ để tồn tại thì thử hỏi họ có quyền lực nỗi
gì?
Đối với nông dân
là lực lương đông đảo nhất của đất nước, họ làm ra nông sản, hàng hóa cho chính
đất nước và xã hội thì Hiến pháp và luật đất đai đã coi họ là lao động làm thuê
trên chính tư liệu sản xuất mà nói là của họ ( toàn dân) nhưng họ không có
quyền sở hữu chiếm hữu và định đoạt cái đất đai mà từ thưở hồng hoang của loài
người họ đã có nhờ công khai phá của họ mà họ mới thực sự cho hiệu quả sản xuất
tốt nhất nếu họ có đầy đủ quyền sở hữu nhưng đằng này đảng lại chỉ giao quyền
được sử dụng có thể bị lấy mất bất cứ khi nào thì làm sao họ yên tâm canh tác.
Thời kỳ phong kiến tuy chế độ hà khắc đẩy người dân đến nghèo khó nhưng nhà nước phong kiến và
thuộc địa VN ít nhiều còn thừa nhận có
sở hữu tư nhân về tư đất đai và các tài sản khác. Còn ngày nay, mặc dù được
đảng thừa nhận là người chủ của nhà nước, được coi là một nền tảng chính
“ Bao nhiêu quyền lợi đều ở nơi dân” vậy
mà họ phải làm thuê trên chính đất đai do nhà nước quản lý thì không biết giới
cầm quyền lừa mỵ dân đến khi nào!
Đội ngũ trí thức
là lực lượng thứ 3 trong cái nền tảng của nhà nước nhưng họ được đối xử ra sao chắc mọi người
đều biết. Trong vai trò của mình, họ đem kiến thức, trí tuệ , chất xám vạch ra
những sai lầm ấu trĩ của một hệ ý thức hệ lỗi thời ảo tưởng siêu hình mà đảng
cầm quyền cố tình đeo bám dẫn đến hệ lụy
xấu về mọi mặt cho đất nước. Họ đã bóc mẽ rồi cảnh báo bản chất thật của ông
bạn vàng 4 tốt của đảng nhưng thực
tế đến nay vẫn có kẻ mang danh lãnh đạo
đảng tuyên truyền rằng những đóng góp đó
của đội ngũ trí thức ấy là giọng điệu
của thế lực thù địch. Tổ chức nào phản biện mạnh nhất thì đảng ép phải giải tán nên dù lãnh đạo đảng nhà nước có phát biểu ở
đâu nhằm tâng bốc đề cao đội ngũ trí
thức mà không thực chất ra những quyết sách,
hành động để phản biện lại đường lối chính sach về về
phát triển đất nước, về mở rộng dân chủ, nhân quyền, về tự do chính kiến …thì
chừng đó không chỉ riêng đội ngũ trí thức mà toàn thể xã hội có quyền nghi
ngờ đảng, nghi ngờ về sự “ treo đầu dê bán thịt chó” trong
các nghị quyết của đảng.
Nhà nước XHCN
thực sự là là loại nhà nước gì , nó như thế nào và đích đến thành công là đâu, có giống với dạng nhà
nước nào trên thế giới? Đến nay chưa có nhà lý luận Mác xít nào hay người
đứng đầu cao nhất của ĐCS Việt Nam chỉ ra được cho dân tộc và đất nước để nhân dân yên tâm đi theo. Cái mô hình nhà nước Xô- viết mà đảng đã dân
dắt cho dân tộc trong chặng đường đầu tiên xây dựng XHCN cuối thập kỷ 20 phải
noi theo đã bị chính nhân dân Liên –xô và các nước Đông Âu đạp đổ ngay từ
đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Sau hội nghị Thành Đô mờ ám đã ngót phần tư thế kỷ, rõ ràng mô hình nhà
nước XHCN kiểu Hán hóa đã càng ngày càng bộc lộ bộ mặt nham hiểm của CNXH mang
màu sắc Trung Qu ốc
với chính cái thể chế XHCN tại Việt Nam do chính cái Đảng anh em của đảng cộng
sản Tàu lãnh đạo. Với mô hình XHCN mang màu sắc Đại Hán, thế giới đang phải đau
đầu vì nó không cần biết đến luật pháp Quốc Tế, không cần biết đến trách nhiệm
của một nước lớn đến với cộng đồng, và
người ta đang ngày càng nhận ra nó
đang hủy hoại chính dân tộc của nó cũng như cộng đồng thế giới bằng nạn
ô nhiễm, bằng độc tài toàn trị, bằng tham nhũng .
Thế giới đang
phải vất vả để đưa nó vào quĩ đạo phát
triển chung của xã hội loài người . Chẳng lẽ với một đảng có trí tuệ tột bậc
anh hùng hiển hách đánh đổ hai đế quốc to nhưng
khi Liên Xô và Đông Âu tan dã
Đảng ấy lại cam tâm ôm chân bợ đỡ
đảng Tàu để xây dựng một mô hình nhà nước na ná
cùng ý thức hệ CS kiểu Tàu tại Việt Nam. Nếu mô hình này là thật được
khởi phát từ hội nghị Thành Đô thì thật là thảm họa ,nguy hiểm cho dân tộc
này!.
Sau cái mật nghị
Thành Đô, bằng tiếp tục dương cao ngọn cờ Mác- Xít được mềm hóa thêm cái đuôi “
và tư tưởng Hồ ChíMinh” trong hơn 20 năm qua ( tính từ hiến pháp 1992) đã đưa
đất nước của Đảng lãnh đạo ngày càng lệ thuộc vào Tàu cộng về mọi mặt đó là một
sư thật mà người cầm quyền cao nhất của đảng cũng như 15 vị UVBCT chưa bao giờ
dám đề cập và phản bác lại.
Xét về mô hình
nhà nước của Việt Nam trước hiến pháp 92 được thể hiện trong Hiến pháp 1980 đó
là mô hình “nhà nước đảng trị tuyệt đối” bởi “Đảng cộng sản Việt Nam là lực
lượng “duy nhất” lãnh đạo nhà nước và xã hội (không còn, và không thể ai khác
ngoài đảng CSVN). Hệ quả của thời kỳ này là nền kinh tế kiệt quệ đất nước ,lòng
dân hoang mang, chiến tranh kéo dài liên miên, Việt Nam bị cô lập nhất trên trường
Quốc tế.
Và một dấu ấn
không bao giờ phai mờ đối với những công dân có trách nhiệm của đất nước là
đảng lãnh đạo đất nước kiệt quệ như thế nhưng không hề phải chịu trách nhiệm
trước dân tộc đất nước mà vẫn, chưa bao giờ thực sự thành tâm xin lỗi nhân dân
mình mà còn ngạo mạn tự phong là lực
lượng lãnh đạo đất nước cho đến ngày nay.
Từ Hiến pháp 1992
đến nay với mô hình quyền lực nhà nước như hiện nay, thực ra nó là biểu hiện
quyền lực “Nhà nước Quân chủ , đảng trị mang danh lập hiến” . Tuy đã bỏ được
hai từ “ duy nhất” sau cụm từ là lực lượng lãnh đạotai điều 4 nhưng không thể che dấu nổi đó là chế độ
“quân chủ đảng trị mang danh lập
hiến” Được thể hiện bởi những yếu tố đặc
điểm sau:
1.Cơ quan Chủ
tịch nước hiện nay mặc dù được thừa nhận vị trí vai trò “ nguyên thủ quốc gia”
nhưng chủ tịch nước chỉ có vai trò tượng trưng như ban bố tình trạng chiến
tranh mỗi khi có biến, ký lệnh tổng động viên, ân giảm hay bác án tử hình , sắc
phong,khen thưởng cấp nhà nước hay tiếp và đón các nguyên thủ quốc gia khác…
Thật giống với mô hình những nhà nước quân chủ trên thế giới mà nhiệm vụ của vua, quốc vương hay nữ hoàng
cũng tương tự như thế. Chỉ có điều khác là
vua , hay quốc vương hoặc nữ hoàng
là do hoàng gia lựa chọn còn những ông “ vua” của Việt Nam dưới thời
XHCN hiện đại do đảng lãnh đạo lựa chọn và bầu bán theo nhiệm kỳ ( hoàn toàn
không phải dân bầu vì chưa có cử bầu trực tiếp)
Cái áp đặt chính
sách ngu dân nhất của nhà nước “XHCN” tại VN là tại những nước có nền quân chủ
lập hiến thì sự phân chia quyền lực rất
rõ ràng theo nguyên tắc tam quyền phân lập chứ không phải quyền lực tập trung thống nhất trong tay một nhúm đảng viên mà có lực lượng
suy thoái nhất không cách gì khắc phục
được như ở Việt Nam.
Nhà vua ở những
đất nước ấy được tôn vinh trong thực tế là người trong hoàng tộc đã có những
công trạng to lớn trong lịch sử của đất nước họ . Được cả dân tộc họ tôn vinh
dù nhà nước ấy có rất nhiều chính đảng nhưng ai ai cũng dương cao ngọn cờ vì
nhà nước của vua ( lấy Thái lan là một ví dụ khi các đảng phái không thể dung
hòa mâu thuẫn ấy là lúc nhà vua đứng ra hòa giải .Vì ngày sinh nhật vua lực
lượng chống đối chấp nhận ngừng biểu tình). Liệu ĐCSVN có đủ uy tín để làm việc
này khi chính đảng là thủ phạm gây ra mâu thuấn bất ổn nhất hiện nay .
Ở những nước có nền quân chủ ấy vua có lý do để tồn tại là tập hợp mọi thành phần trong dân tộc biết phát huy giữ gìn những giá trị truyền
thống cũng như tiếp thu những giá trị văn minh nhân loại. Vua tồn tại không
phải vì tiếm giữ quyền lực như mà vua được dân tộc và đất nước tôn vinh. Còn
Việt Nam thì sao 1 đảng với hơn 8o năm trưởng thành từ tầng lớp bần cố
nông nêu cao khẩu hiệu người cày có
ruộng để kích động lớp người này “ trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ”
khiến cho bao người con ưu tú của dân
tộc ngã xuống bởi chính bàn tay của
đảng. Muốn giành chính quyền bằng mọi giá Đảng đã bị chính ý thức hệ cộng sản
quốc tế chi phối , bằng niềm tin ngây thơ chính trị tưởng rằng có “một thế giới
đại đồng” thực sự nên đã chấp nhận vay mượn súng đạn của những nước lớn tiến
hành cuộc chiến tranh đẫm máu nhất trong lòng dân tộc suốt 30 năm. Để rồi cuối cùng luôn luôn vỗ ngực rằng đã chiến
thắng chính đồng bào mình?!.
Với tư duy hiếu
thắng nên không chịu hòa hợp hòa giải dân tộc
để làm sức mạnh ngăn ngừa ngoại bang dòm ngó thì đằng này lại cam tâm
coi kẻ thù của dân tộc thành những người đồng chí bạn vàng bốn tốt. Và bằng lược lượng 90% đảng viên áp đảo đảng
đã dễ dàng thông qua được hiến pháp ghi nhận vại trò lãnh đạo của đảng nhưng số
đó không bao giờ phản ánh trung thực ước nguyenj thật của 90 triệu dân. Và như
thế Chế độ XHCN mà Việt Nam đang có với nền quân chủ lập hiến ở một số nước ai
văn minh hơn ai?
Hệ thống chính
trị Việt Nam hiện nay rất giống với chế độ quân chủ phản động không lập hiến đó
là mọi quyền lực đều tập trung ở nơi vua
tức vua là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội “ thay trời hành đạo” và không
có chuyện tam quyền phân lập . Hãy xem lại hiến pháp mới và các phát biểu của
lãnh đạo đảng trong thời kỳ sửa đổi hiến pháp rằng “ Việt Nam không có nhu cầu
đa đảng, không có chuyện tam quyền” mà không thèm trưng cầu dân ý sẽ thấy đâu
là bộ mặt thật của đảng đối với dân tộc.
Nhưng thực tế
để bớt bị chỉ trích đảng chỉ chấp nhận phân chia quyền lực trong đảng mà
đảng ấy đang thừa nhận trước bàn dân thiên hạ là đang suy thoái với bộ phận lớn hiện nay đang bộc lộ đã liên
kết với xã hội đen (vụ cán bộ đảng quận Cầu Gi ấy mà báo chí vừa đưa tin là một
ví dụ) chưa biết đến bao giờ khắc phục được.
Bởi thế cho
nên nguyên chủ tich Quốc hội Nguyễn Văn An đã chỉ đích danh đó là
“những ôngvua tập thể”.
2.Quốc hội là cơ
quan quyền lực cao nhất nó có cả quyền lập hiến lẫn lập pháp nhưng thực ra nó
chỉ là cụ thể hóa đường lối chính sach của đảng, và cơ cấu trong cái Quốc hội
này chiếm tới hơn 90% số đại biểu là
đảng viên thì nếu không là đảng trị mang
danh lập hiến thì là đảng có quyền lập hiến trong quốc hội nên những văn bản
cao nhất từ hiến pháp đến các luật hiện hành
đều sặc mùi đảng trị.
Nào là “ đất đai
thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý” nhưng đảng thì lại là lực lượng lãnh đạo đồng thời
người của đảng lại nắm toàn bộ bộ máy quản lý nhà nước nên đảng chính là chủ
thể quản lý đất đai mới là chính xác
nhất! và dân oan kiếu kiện đất đai đầy đường trong thời gian qua không ai khác
chính là đảng gây ra.
Một khía cạnh
khác.
Thực chất đất đai
là sở hữu toàn dân mà mà khái niệm “
toàn dân” là một tập hợp lớn của những tập hợp nhỏ còn gọi là một bộ phận dân
hoặc nhỏ hơn là những cá nhân dân thì
đem chia nhỏ các tập hợp toàn dân ấy
thành ra nhiều cá nhân dân dù nhỏ đến đâu thì hai chữ sở hữu kèm theo ấy
ít ra nó chỉ nhỏ đi tương ứng chứ tai sao bỗng nhiên nó lại mất đi để biến
sang thành “ sở hữu- quản lý”của một chủ thể khác đó là
“ Nhà nươc”- Cái chủ thể này hoàn toàn
độc lập và đối lập với chủ thể nhân dân . Điều này chỉ có thể lý giải rằng Đảng
đã lái “toàn dân” là không phải những bộ
phận dân, những cá nhân dân mà phải hiểu đó
là tập hợp không dân mà đã là không dân thì người quản lý ( đảng) muốn
làm gì thì làm.
3. Lâp pháp
và hành lẫn lộn: Luật ra vừa yếu tính dự báo, tính ổn định ,
tính kế thừa. Nguyên nhân vì đâu, chưa bao giờ được xem xét đánh giá đúng mức. Chỉ biết rằng nhân dân lại phải è ổ
đóng góp sưu cao thuế nặng cho đảng làm công tác sửa đổi sau vài ba năm thậm
chí một hai năm ban hành những sản phẩm luật có giá trị thấp hay “ sản phẩm
luật quá rởm” như vây.
Tình trạng cho phép cơ quan
hành pháp ban hành các văn bản hướng dẫn luật như ban hành các nghị định
thông tư hướng dẫn ngày càng phổ biến tức là tình trạng cơ quan hành pháp ngang
nhiên lấn sân cơ quan lập pháp trong việc ban hành văn bản qui phạm pháp luật.
Điều này dẫn đến hệ quả là giải thích luật tùy nghi, theo ý chí của người thừa
hành mà không phải ý chí nguyện vọng của người dân. Mà biểu hiện rõ nhất là
người được giao quyền hướng dẫn luật chỉ ra văn bản hướng dẫn khi thấy cần
thiết cfn khi nó không cần thiết cho người thừahafnh thì dù luaatj đã có hiệu
lực một hai năm hoặc bao năm đi nữa luật hãy cứ đợi đấy cho dù nó là sản phẩm
của “cơ quan quyền lực cao nhất”.
Luật sai trái vi hiến
đến đâu cũng không có cơ chế để hủy vì
đảng quyết tâm không chấp nhận tòa án hiến pháp. Hiến pháp có được xây
dựng đúng nhu cầu đòi hỏi của dân không không tài nào biết được bởi không có
luật trưng cầu dân ý. Không có cơ chế để phúc quyết hiến pháp thì làm sao lại
hồ đồ rằng hiến pháp là thể hiện ý đảng lòng dân…
Để nhặt ra những đặc điểm của một nhà nước đảng trị kiểu
quân chủ phản động mang danh lập hiến mà đảng đang lòe bịp đó là nhà nước XHCN
tại Việt Nam từ trong hiến pháp, trong
các văn bản luật , trong nghị quyết đại hội đảng và trong thực tế điều hành của
các cơ quan đảng nhà nước hiện nay là rất nhiều với những chứng cứ vô cùng sống
động.
Với những biểu hiện như trên liệu chúng ta có thể trông đợi
vào thứ chính thể XHCN mà đảng áp đặt cho dân tộc việt Nam chúng Ta như thế hay
không. Hay lại phải đợi “ 100 năn nữa
không biết có CNXH hoàn thiện ” theo kiểu đảng trị mang hình thức na ná “quân chủ xưng vương, xưng danh lập hiến” được hoàn thiện hơn ở Việt Nam
hay không?
Hiên nay mọi người đang bàn về vấn đề thoát Trung nhưng
thiết nghĩ chúng ta hãy tìm cách thoát chính chúng ta. Thoát ngay cái tư tưởng
đảng trị lỗi thời kiểu quyền lưc thuộc về Quân vương tập thể và mang danh lập
hiến nhưng không chịu phân chia quyền
lực như đã phân tích ở phần trên thì mới có cơ hội thoát Trung và bình đẳng với
người Tàu cũng như sớm lấy lại được chủ quyền biển đảo. Và trên hết dân tộc đất
nước mới có cơ hội phát triển, thịnh vương bình đẳng ấm no dân chủ hạnh phúc
như chính ước nguyện ngàn đời của dân tộc Việt
ĐT