1. Kể từ tháng 5/2014, khi
Đến nay, trong cộng đồng
trí thức Việt Nam, đã có nhiều ý kiến trả lời cho câu hỏi: thoát Trung
là gì ?[hay là thoát cái gì?] Theo nhận thức của đa số, thoát
Trung là một nổ lực chuyển hướng nhằm ra khỏi quỹ đạo ảnh hưởng của Trung Qu ốc, hướng sang một quỹ
đạo mới hầu phát triển Việt Nam theo hướng dân chủ, hiện đại. Sở dĩ phải khẩn
trương thực hiện cuộc chuyển hướng này là vì: chừng nào còn nằm trong vòng ảnh
hưởng của Trung Qu ốc
(về chính trị, kinh tế, văn hóa ...), chừng đó Việt Nam còn mang thân phận
nhược tiểu lệ thuộc, sớm muộn sẽ trở thành đối tượng lí tưởng cho tham vọng
bành trướng của quốc gia láng giềng. Tuy nhiên, phía sau lớp vỏ hợp lí bề
ngoài, cách nhìn này lại chưa cụ thể hóa được bản chất của vấn đề.
Thoát Trung thì đã đành rồi nhưng cụ thể là thoát cái gì? Hơn nữa, người ta có
quyền nghi ngờ sức thuyết phục của nó vì nếu cho rằng ảnh hưởng của Trung Qu ốc là thậm xấu thì tại
sao một số quốc gia Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan lại vươn lên thành
cường quốc mặc dù họ đã từng chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn minh Trung Hoa ?
Rõ ràng, thoát Trung là
một đòi hỏi chính đáng và tất yếu nhưng không thể thoát Trung một cách chung
chung, mơ hồ. Để tìm ra một lối đi khả dĩ, vấn đề thoát Trung cần được nhận
thức lại. Có lẽ, chúng ta nên dựa vào một khái niệm có khả năng định hướng nhận
thức, phân tích và mở rộng vấn đề. Với cách nhìn như thế, bài viết này được
triển khai dựa trên một khái niệm: chất Tàu. Tác giả cho rằng, thực
chất của thoát Trung là đoạn tuyệt với cái gọi là chất Tàu nhằm chuyển hóa nội
lực dân tộc sang một trạng thái mới, phẩm chất mới.
2. Khái niệm chất Tàu - kitaitshina
(tiếng Nga) được triết gia lỗi lạc người Nga Vladimir Soloviev sử dụng
trong khảo luận xuất sắc của ông: Trung
Qu ốc và châu Âu[1].
Trong khảo luận đó, chất Tàu được V. Soloviev định nghĩa là cái
nguyên tắc lịch sử đã và đang làm cơ sở cho cái thể chế hạn hẹp và ngoại biệt
của đời sống Trung Hoa ,
là cơ sở đạo đức-xã hội trường tồn vừa tạo ra sức mạnh vừa tạo ra sự hạn
chế của dân tộc ấy[2]. Kết hợp định nghĩa này với toàn bộ nội
dung khảo luận, có thể hiểu rằng, chất Tàu là các đặc tính đã góp phần
làm nên đời sống Trung Hoa
cổ truyền, một kiểu đời sống hết sức đặc trưng, ngoại biệt. Dĩ nhiên, là tập
hợp của nhiều đặc tính văn hóa, chất Tàu không dễ dàng mất đi. Trong hơn 50 năm
qua, dưới một hình thức đã biến thái ít nhiều, chất Tàu tiếp tục trỗi
dậy và chi phối đường lối phát triển của nước Trung Hoa hiện đại. Vậy thì,
các đặc tính nổi bật đã làm nên chất Tàu là gì?
- Sùng bái mô hình
chuyên chế và bạo lực: Trong lịch sử chính trị Trung Hoa , qua rất nhiều biến
động và xáo trộn, mô hình nhà nước tồn tại xuyên suốt là mô hình chuyên chế. Đó
là kiểu nhà nước mà toàn bộ quyền lực tập trung vào một nhân vật đã được thần
thánh hóa: Hoàng đế - Thiên tử - con Trời. Để biện minh cho tính chính danh của
mình, nhà nước quân chủ chuyên chế dựa vào Nho giáo. Từ đời Hán trở về sau, Nho
giáo được nâng lên hàng quốc giáo, thống trị đời sống tư tưởng Trung Hoa , đẩy các trường phái
triết học, tư tưởng, tôn giáo khác xuống hàng thứ yếu (Phật giáo, Lão giáo,
...). Trên thực tế, các nhà nước quân chủ chuyên chế đã tìm cách kết hợp Nho
gia lẫn Pháp gia trong đường lối trị quốc. Nếu Nho gia buộc chặt con người
trong vô số nguyên tắc của Lễ, biến con người thành con người chức năng, con
người nghĩa vụ; thì Pháp gia lại đề cao bạo lực, xem bạo lực như một phương
tiện hữu hiệu để tập trung, thống nhất quyền lực trong nước và mở rộng quyền
lực ra bên ngoài bằng chiến tranh xâm lược.
- Sùng bái quá
khứ: Dân tộc Trung Hoa
có một cách nhìn quá khứ rất đặc biệt. Thừa nhận ở bên trên mình quyền lực của
chỉ một quá khứ, họ chối từ tư duy sáng tạo, chối từ sáng kiến chủ động, đè nén
trong mình mọi ước mơ về một tương lai khác, tốt đẹp hơn. Giữ nguyên vẹn
bất biến cái thể chế đời sống mà cha ông để lại và chuyển giao nó cho
các thế hệ mai sau, không thêm bớt một tí gì - đó là thực chất của minh triết Trung Hoa , cái minh triết rõ
ràng bảo thủ và sùng cổ, có thể nói nệ cổ[3].
Nhờ vậy, chế độ chuyên chế Trung
Hoa trường thọ hơn bất cứ nhà nước nào trên thế giới và gần
như miễn nhiễm với các dự án cải cách, đổi mới.
- Coi khinh văn hóa:
Xu hướng coi khinh văn hóa có nguồn gốc sâu xa trong quan điểm của Pháp gia.
Theo Pháp gia, con người không có xu hướng vươn đến cái thiện như lời Khổng
Mạnh; nó cũng không phải là vị ngã chỉ lo giữ gìn sinh mệnh và lạc thú của thân
mình từ đó mà có thái độ xa lánh đi đến phi chính trị, phi xã hội như Đạo gia.
Ngược lại, bản tính của con người là thói vị kỷ, là xu hướng đòi thoả mãn những
bản năng tầm thường trong tình trạng sống còn dã man, chưa có đòi hỏi văn hoá
nhưng lại sợ uy vua, phép nước[4].
Pháp gia coi con người như súc vật, như công cụ và tìm cách biến con người
thành súc vật, thành công cụ nhằm phục vụ cho lợi ích của nhà nước. Vì giá trị
con người bị hạ rẻ nên văn hóa cũng được quy giản như một phương tiện của chính
trị. Văn hóa không có chức năng nào hơn là phản ánh và phục vụ chính trị vô
điều kiện. Trí thức - lực lượng tinh hoa của văn hóa, chỉ đơn giản là người có
học vấn, đi thi, làm quan, phụng sự hoàng đế. Vậy nên, trong lịch sử tồn tại
của nó, các nhà nước chuyên chế Trung
Hoa đều nhất quán thực hiện chính sách ngu dân, mị dân. Điều
này đã kích thích con người suy nghĩ và hành động theo bản năng thuần túy, biểu
hiện thành các dị tật trong đạo đức xã hội. Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX,
nhiều trí thức Trung Hoa
cấp tiến đã phê phán gay gắt các căn bệnh ích kỷ, tàn bạo, dối trá, hình thức
trong tính cách Trung Hoa. Đ ể
đảm bảo tính khách quan, chúng tôi xin dẫn lại nhận xét của Vladimir Soloviev –
một người quan sát từ bên ngoài. Theo triết gia Nga, trong nền tảng đạo đức của
người Hoa, «chúng ta không tìm thấy một lời nào lên án sự giả dối và
sự nhẫn tâm. Tinh thần đề cao lễ tiết một chiều luyện cho con người
thói quen lấy vẻ bề ngoài thay thế thực chất, thậm chí còn tạo điều kiện cho tính
đạo đức giả, tính dối trá phát triển. Còn nếu nói về sự nhẫn
tâm thì không có một chỉ huấn có tính nguyên tắc nào chống lại nó trong đạo lý Trung Hoa (Khổng giáo), đạo lý
ấy chỉ thừa nhận những nghĩa vụ xác định đối với loại người này hay loại người
kia, chứ tuyệt đối không phải đối với con người nói chung»[5].
Chất Tàulà sản phẩm tự nhiên của
môi trường chính trị - kinh tế - xã hội Trung Hoa cổ truyền. Ở đó, đặc điểm bao trùm là sự
tồn tại dai dẳng của nhà nước quân chủ chuyên chế. Dựa trên một hệ tư tưởng độc
đoán, mị dân và bạo lực, nhà nước chuyên chế đã phủ bóng lên toàn bộ đời sống Trung Hoa cổ truyền và định
hình nên chất Tàu hết sức đặc trưng. Chất Tàu vừa tạo ra một
vài ưu thế, vừa cản trở nghiêm trọng sự phát triển của dân tộc Trung Hoa. M ột mặt, nó tạo
cơ sở cho phép chế độ chuyên chế Trung
Hoa trường tồn; mặt khác, nó để lại những khuyết tật nặng nề
cho chính dân tộc này: không thể phát triển đúng sức do bị kìm hãm lâu dài
trong giáo điều, thủ cựu, bạo lực và chia rẽ. Bởi vậy, Vladimir Soloviev hoàn
toàn có cơ sở khi cho rằng: «văn hoá Trung Hoa , với tất cả tính bền vững và sung mãn vật
chất của nó, lại nghèo nàn về tinh thần và ít bổ ích cho nhân loại»[6].
3. Từ đầu công nguyên,
các nhà nước chuyên chế Trung Qu ốc
đã tiến hành thôn tính lãnh thổ, thực hiện đồng hóa văn hóa hòng biến nước ta
thành thuộc địa vĩnh viễn. Tuy nhiên, với ý thức dân tộc mạnh mẽ, suốt 1000 năm
Bắc thuộc, người Việt liên tục nổi dậy và đến thế kỉ X, đã khôi phục được quyền
tự chủ. Bấy giờ, một vấn đề cơ bản được đặt ra đối với các nhà nước Việt Nam là
lựa chọn mô hình phát triển nào để bảo vệ và duy trì nền độc lập non trẻ vừa giành
được. Cho đến trước thế kỉ XV, trong hào quang của kỉ nguyên Lí – Trần, đặc
biệt trong thời Trần, người Việt đã thành công với chủ trương tiếp nhận hạn chế
các giá trị Trung Hoa ,
đồng thời đặt trọng tâm phát triển trên các giá trị căn bản của Phật giáo và
truyền thống dân tộc: khoan dung, vị tha, cởi mở, hòa hiếu. Tuy nhiên, từ thế
kỉ XV trở về sau, xu hướng thân Hoa (sinophile) ngày càng chiếm ưu thế
và đạt đến đỉnh cao dưới thời Lê
Thánh Tông trị vì (1460 - 1497):
- Bộ máy quản lí
nhà nước được tổ chức theo mô hình chuyên chế Trung Hoa ;
- Nho giáo (Tống nho)
trở thành hệ tư tưởng chính thống của nhà nước;
- Chế độ giáo dục và thi
cử Nho giáo được áp dụng và mở rộng trên phạm vi toàn quốc;
- Nền kinh tế lấy nông
nghiệp làm căn bản, thủ công nghiệp tồn tại nhỏ lẻ, thương nghiệp không đủ điều
kiện phát triển thành kinh tế hàng hóa;
- Nho sĩ và nông dân là
hai lực lượng xã hội trụ cột, trong đó, nếu giấc mơ của nho sĩ là thi đỗ, làm
quan thì giấc mơ của người nông dân là trời yên biển lặng để vun vén cho niềm
hạnh phúc bé nhỏ, mong manh của họ.
Các điều kiện nêu trên
đã trực tiếp tạo nên một môi trường lí tưởng cho chất Tàu hình thành,
nảy nở. Sang thế kỷ XIX, trong bối cảnh quốc tế và trong nước đã hoàn toàn thay
đổi, triều Nguyễn không khác triều Lê là bao khi tiếp tục đi trên con đường mòn
của triều đại trước, chìm đắm trong giấc mơ Tống nho và thờ ơ với mọi chủ
trương canh tân. Từ cuối thế kỉ XIX trở đi, mặc dù đã xuất hiện một số điều
kiện khách quan để thay đổi phẩm tính người Việt theo hướng hình thành tư cách
công dân hiện đại, nhưng quá trình này đã bị gián đoạn và chấm dứt giữa chừng.
Nhìn lại lịch sử Việt
Nam, có thể nói, chất Tàu đã đưa đến những hậu quả nặng nề đối với sự phát
triển của dân tộc:
- Xu hướng chuyên chế và
độc tôn tư tưởng đã làm nghèo nền văn hóa dân tộc do tính đa dạng, đa nguyên
của đời sống văn hóa ngày càng bị bào mòn, xâm phạm. Thiếu một nội lực cần
thiết, nền văn hóa bị mất sức đề kháng, mất khả năng độc lập để hình thành nên
một chủ thuyết phát triển cho riêng mình. Bởi vậy, từ sau thế kỷ XV, người Việt
luôn bị động chạy theo các học thuyết bên ngoài. Phan Chu Trinh gọi hiện
tượng này là tâm lí vọng ngoại và cho rằng, muốn dân tộc trở nên độc
lập, phú cường, trước hết phải thoát khỏi tâm lí vọng ngoại bằng cách đào tạo
con người có nhân cách tự chủ để xây dựng một nền văn hóa tự chủ, một xã hội tự
chủ.
- Xu hướng chuộng bạo
lực đã biến bạo lực thành phương tiện giải quyết các vấn đề chính trị - xã hội,
kể cả văn hóa. Bạo lực xuất hiện tùy tiện, tràn lan làm đảo lộn sinh hoạt xã
hội, tàn phá, hủy hoại vốn văn hóa dân tộc. Lịch sử Việt Nam ghi nhận một thực
tế quen thuộc: sự thay đổi thể chế nhà nước/triều đại luôn diễn ra song hành
với quá trình xáo trộn, đứt gãy cơ tầng văn hóa dân tộc. Đó là chưa nói rằng,
bạo lực còn gây nên tình trạng chia cắt đất nước, làm suy yếu giống nòi.
- Tính vị kỉ, bè phái,
ngôi thứ đã tạo nên một cộng đồng rời rạc, manh mún, rất dễ chia cắt và phân
hóa. Hiện nay, đặc điểm bao trùm trong đời sống xã hội là tình trạng thiếu liên
kết, thiếu niềm tin, thiếu khoan dung giữa các cá nhân, các thế hệ, các nhóm và
các cộng đồng.
- Bệnh khoa trương, hình
thức ru ngủ người Việt trong ảo tưởng về năng lực của chính mình. Dần dà, họ
mất liên hệ với thực tế bên ngoài, không dám nhìn thẳng vào sự thật, không dám
điều chỉnh để cải thiện hiện trạng dù hiện trạng ấy ngày càng trở nên bất lợi
cho họ.
Vĩ thanh
Từ chỗ là sản phẩm đặc
trưng của xã hội Trung Hoa ,
khi các điều kiện cần và đủ xuất hiện, chất Tàu đã hình thành, nảy nở trong xã
hội của người Việt, trở thành một bộ phận của tính cách dân tộc, chi phối sự
phát triển của dân tộc trong cả quá khứ lẫn hiện tại. Với đặc trưng là xu hướng
chuyên chế, bạo lực, coi khinh văn hóa, vị kỷ, bè phái, giả tạo, hình thức, não
trạng phát triển ấy chỉ mang đến đặc quyền đặc lợi cho một nhóm thiểu số
nắm trong tay quyền lực, nhưng hoàn toàn bất lợi cho sự phát triển của đất nước
và nhân dân trên con đường đi tới dân chủ, văn minh, hiện đại. Không nên quy
nguyên nhân lạc hậu, trì trệ của đất nước cho tác động của văn hóa Trung Qu ốc vì chất Tàu là do
chúng ta tự nguyện chuốc lấy. Bởi vậy, trong bản chất, thoát Trung không
phải là một chuyển động hướng ngoại mà là một cuộc phản tỉnh của toàn thể dân
tộc nhằm khắc phục những nhược điểm từ bên trong, phát triển nội lực, chấn hưng
đất nước.
[1]Vladimir Soloviev (1890), Trung Qu ốc và châu
Âu, Phạm Vĩnh Cư dịch, bản word) (Khảo luận này đã được đăng nhiều kỳ trên
Tạp chí văn hóa Nghệ An. Nguồn: vanhoanghean.com.vn).
[4]Trần Đình Hượu, Nho Pháp tịnh dụng và con đường bành
trướng thiên triều, Nguồn: vanhoanghean.com.vn