Âu Dương Thệ
Nguyên nhân
và điều kiện để chính giới biết tưởng nhớ quá khứ và mở cửa tương lai thay vì
khép lại quá khứ là đóng cửa tương lai.
Tâm lí và
tri thức khác biệt của hai thái độ và lập trường này: Một bên có lí trí sáng
suốt, thức thời và có ý chí dám vượt qua con đường mòn đã sai lầm của lịch sử;
còn bên kia thì không dám vượt qua cái bóng của mình chỉ khư khư ôm ấp lấy quá
khứ đã hoàn toàn bất cập với thời đại!
Tưởng nhớ quá khứ để mở cửa tương lai
Ngày Chủ nhật 3.8 tại ngọn núi Hartmannsweilerkopf nằm ở biên giới
Pháp-Đức, nơi chôn vùi hàng chục ngàn binh sĩ Pháp-Đức tử thương, hai Tổng
thống Pháp-Đức F. Hollande và J. Gauck đã cùng nhau nghiêng mình trước những
binh sĩ hai nước đã phải hi sinh đúng 100 năm trước trong Thế chiến thứ nhất.
Chính nơi này 100 năm trước đã diễn những trận đánh trận địa chiến giữa hai bên
cực kì tàn khốc và dã man làm cho hàng chục ngàn binh sĩ hai bên đã bị chôn vùi
trong khu vực này. Sự khốc hại và dã man đến nỗi các thế hệ sau đã đặt cho núi
này một tên mới là „Núi ăn thịt người“!
Trước sự tham dự đông đảo của nhiều giới, đặc biệt là thanh niên Pháp-Đức,
Tổng thống Gauck đã nói „Các
thế hệ ông cha của chúng ta không thể nghĩ rằng, ngày hôm nay chúng ta lại có
thế đứng cạnh bên nhau!“ và „cuộc
chiến tranh thật là tàn khốc và vô nghĩa!“ Hai Tổng thống
Pháp-Đức đã cùng nhau ôn lại lịch sử, tưởng nhớ quá khứ, nhìn nhận những sai
lầm trong lịch sử của hai bên và lặng lẽ ôm chầm lấy nhau ngay trước tượng đài
kỉ niệm. Cảnh tượng này gây xúc động sâu xa không chỉ cho những người có mặt
trong buổi lễ mà còn tạo ra xúc cảm mạnh cho hàng triệu người theo dõi qua các
kênh truyền hình Pháp, Đức, Âu châu và thế giới.
Hai Tổng thống Pháp và Đức tưởng niệm
100 sau Thế chiến thứ I.
Ngày hôm sau tại thành phố Lüttich (Bỉ) một buổi lễ tưởng nhớ Thế chiến thứ
nhất với sự tham dự của 20 nguyên thủ và 80 phái đoàn của nhiều nước trên thế
giới như cácTổng thống Hollande, Gauck, Thủ tướng Anh, Quốc vương Bỉ và Tây ban
nha….Chính vào ngày này một trăm năm trước vua Đức Wilhelm II. đã bất chấp
chính sách trung lập của Bỉ đưa quân Đức xâm chiếm Bỉ và dùng Bỉ mở đường sang
đánh Pháp. Thế chiến thứ nhất kéo dài trong 4 năm (1914-18) đã làm thiệt mạng
17 triệu người, trong đó có nhiều triệu thanh niên các nước, nhất là ở Âu châu.
Thế chiến thứ nhất kết liễu nhưng chính giới nhiều nước, nhất là một số
quốc gia lớn ở Âu châu khi ấy, đã không sáng suốt và đủ ý chí rút ra được bài
học đúng-sai trong lịch sử, nên lại sớm rơi vào hận thù, nghi kị và tìm cách trả đũa nhau theo những chủ trương
dân tộc cực đoan. Cuối cùng lại làm bùng nổ Thế chiến thứ 2 (1939-45) gây ra
thiệt hại nhân sự và tàn phá còn khủng khiếp hơn trước. Cả châu Âu chỉ còn là
những đống tro tàn, những cảnh di tản và đói rách thảm thương. Mãi khi đó lãnh
đạo mới ở nhiều nước, nhất là hai tử thù Pháp-Đức, mới tỉnh ngộ và quyết chí
chọn giải pháp hợp tác thay vì đối đầu, từ đó mở màn cho kỉ nguyên hòa bình,
phồn vinh và dân chủ suốt gần 7 thập niên ở nhiều nước Tây Âu và từ hơn 20 năm
cả nhiều nước cựu CS Đông Âu. Chính họ đã biết tưởng nhớ quá khứ, rút ra
những bài học sai lầm, nên đã xây dựng tương lai Âu châu sáng lạn!
Trong dịp này cả hai Tổng thống Pháp-Đức cũng như nhiều chính khách trong
Liên hiệp Âu châu (EU) đã không chỉ cùng nhau tưởng nhớ tới quá khứ. Họ còn
nhấn mạnh phải biết rút ra những bài học lịch sử. Đó là hòa bình, phồn vinh,
dân chủ và nhân quyền, những thành quả sáng chói của EU ngày hôm nay, không
phải tự nhiên mà có; nó là một chuỗi không biết bao nhiêu những cố gắng của các
chính quyền và nhân dân các nước xuyên qua nhiều thế hệ. Vì thế các vị đứng đầu
EU đã cảnh báo phải biết gìn giữ và bảo vệ những giá trị, không để những khuynh
hướng chính trị cực đoan lợi dụng các khó khăn để phân hóa EU, đồng thời cũng
không để chủ trương bá quyền của Tổng thống Nga Putin đe dọa hòa bình ở Âu châu
và thế giới.
Vì sao mà hai nước tử thù trong nhiều giai đoạn lịch sử, nhưng từ sau Thế
chiến thứ 2 Pháp-Đức và nhiều nước trong EU đã trở thành đồng minh và láng
giềng thân hữu với nhau, bình đẳng với nhau giữa các nước lớn với 70-80 triệu
dân tới các nước nhỏ chỉ vài trăm ngàn dân? Tại sao họ đã biết gìn giữ hòa bình
và cùng nhau chia sẻ sự phồn vinh cũng như hạnh phúc cho cả nửa tỉ người ? Các
nhà lãnh đạo Pháp, Đức và nhiều nước
trong EU sau Thế chiến 2 đã sáng suốt và đủ ý chí rút ra được những bài học đắt
giá trong lịch sử và quyết từ bỏ các chủ trương dân tộc cực đoan, lấy những
giá trị căn bản của Dân chủ Đa nguyên làm cơ sở chung xây dựng ở từng nước và
cũng là cơ sở để cùng nhau hợp tác để kiến tạo hòa bình, kinh tế phồn vinh,
nhân phẩm của mọi người được tôn trọng và bình đẳng giữa các nước hội viên, bất
kể lớn hay nhỏ.
Khép lại quá khứ là đóng cửa tương lai !
Trong lúc đó khi phái đoàn cao cấp CSVN sang Thành Đô (Trung quốc) đầu
tháng 9.1990 để xin cầu thân với Bắc kinh, hai bên đã đưa ra tiêu chí „khép
lại quá khứ“. Nghĩa là đóng cửa lịch sử lại, sai trái không xin lỗi, không được đụng vào;
vì thế tuy miệng tuyên bố hợp tác chiến lược toàn diện và bạn bè tin cậy, nhưng
thực tình chỉ vì chẳng đặng đừng mới phải chung sống với nhau mà thôi. Đây là
cảnh đồng sàng dị mộng, Bắc kinh đưa ra khẩu hiệu hợp tác theo lối „4 tốt“ („đồng chí tốt, bạn bè tốt, láng giềng tốt, đối
tác tốt“ !!! ), nhưng thực tình thì chỉ lợi dụng và chờ thời cơ xâm lấn lãnh thổ và bòn
rút tài nguyên của VN theo đúng kiểu thực dân. Còn khi đó Hà nội đang trong
cảnh thất thế, thế cô lực tận, để cứu chế độ toàn trị nên phải nhận lại sự đùm
bọc của Bắc kinh, như người ngậm bù hòn cay đắng nhưng vẫn khen là ngọt!
Chính thái độ bất đắc dĩ và bất bình đẳng trong hợp tác, nên từ sau Hội
nghị Thành Đô Hà nội đã không được phép và không dám tổ chức kỉ niệm hàng năm
các lễ 19.1 (Bắc kinh chiếm Hoàng sa của VN 19.1.1974) và 17.2 (Chiến tranh
biên giới VN-Trung quốc 17.2.1979). Trái với chủ trương cùng nhau tưởng nhớ quá
khứ để cùng nhau xây dựng tương lai như Pháp, Đức và nhiều nước EU, Bắc kinh và
Hà nội lại chủ trương „khép lại quá khứ“ theo cách nói trên, nên chưa có lần nào lãnh đạo hai nước cùng nhau tới
thăm viếng và tưởng nhớ tới những binh sĩ hai bên đã bị giết hại, thậm chí đầu
năm nay Tập Cận Bình còn dùng đường giây nóng điện thoại ra lệnh Nguyễn Phú
Trọng không được tổ chức các lễ kỉ niệm này. Vì thế Hà nội cũng không dám để cả
thân nhân, bạn hữu các binh sĩ quá cố
tới thắp hương tưởng niệm! Vì không dám thành thực tưởng nhớ quá khứ,
nhận ra những sai lầm, nên họ lại nhắm mắt theo vết xe cũ, con đường mòn cũ để
cuối cùng bị tắc nghẽn ngoại giao không có tương lai mà đỉnh cao mới là giàn
khoan HD 981!
Giàn khoan HD 981 của Trung quốc
Đối với đồng bào ruột thịt, những người cầm đầu chế độ toàn trị CSVN, xuyên
qua nhiều thế hệ, cũng giữ thái độ „khép lại quá khứ“, không đủ lí trí và ý chí để dám nhìn thẳng vào lịch sử để nhận ra những
sai trái lỗi lầm; nhưng lại chỉ tìm cách tô hồng, boi son và nếu bất đắc dĩ
phải nhận những khuyết điểm thì lại tự bào chữa đổ cho tình thế lúc đó, chứ
lãnh đạo luôn luôn đúng đắn! Cho nên
suốt chiều dài gần 70 năm cầm quyền hầu như chưa có một người lãnh đạo nào phải
bị tù tội vì những sai lầm và tội ác đã gây ra cho nhân dân và đất nước! Điển
hình như phong trào „cải cách ruộng đất“, „đấu tố địa chủ“ theo kiểu Mao do Hồ Chí Minh phát động vào giữa thập niên 50 đã giết hại
hàng chục ngàn nông dân. Sau đó tuyên bố „sửa
sai“, Trường Chinh tuy bị mất chức Tổng bí thư nhưng vẫn giữ ghế Ủy viên Bộ
chính trị và sau đó tiếp tục leo lên những vị trí quan trọng khác trong Đảng và
Nhà nước! Tiếp đến phong trào „Trăm hoa đua nở“ học theo Mao để đàn áp
các trí thức và văn nghệ sĩ muốn được suy nghĩ và viết độc lập theo hiểu biết
và lương tâm của mình vào cuối thập niên 50, cho tới nay cũng những người cầm
đầu trước đây và hiện nay chưa một lần chính thức nhìn nhận sai lầm và xin lỗi
những người đã bị tù tội. Cả cuộc dựng đứng và đàn áp nhiều trí thức, sĩ quan
và cán bộ cấp cao bị kết tội „Xét
lại chống đảng“ từ đầu thập niên 60 cho tới nay cũng vẫn im lìm! Tất cả những tội ác và sai
lầm khủng khiếp này đều xuất phát từ chủ trương „khép lại quá khứ“, nghĩa là lãnh đạo tìm mọi cách bịt lại những sai lầm, không chịu xin lỗi
và cũng không cho ai được khui ra!
Chủ trương „khép lại quá khứ“ càng được những người có trách nhiệm của chế độ toàn trị tổ chức tinh vi và
xảo quyệt đối với các thành phần nhân dân ở miền Nam sau 1975. Lập ra những „trại cải tạo“ từ Bắc-Trung-Nam để
giam cầm bóc lột sức lao động, hành hạ tinh thần và thể xác hàng mấy trăm ngàn
công chức, binh sĩ của Việt nam Cộng hòa (VNCH) hàng chục năm. Gần 40 năm „chiến thắng“ tuyên bố hòa hợp dân
tộc, nhưng bên thắng cuộc vẫn không trợ giúp thương binh VNCH, không cho tự do
thăm viếng và trùng tu các nghĩa trang quân đội miền Nam. Chính sách trả thù và
ngược đãi đã khiến cho mấy triệu người phải bất dĩ làm thuyền nhân vượt Thái
bình dương tìm tự do, hàng trăm ngàn phải bỏ mình trên biển cả! Nhưng tới nay
chưa có một lần giới lãnh đạo toàn trị nhìn nhận đó là những sai lầm và tàn
bạo. Ngược lại, những năm đầu thì lại kết án họ là „chạy
theo đế quốc“, đến khi cần đến „kiều
hối“ thì lại không ngượng miệng và xỏ xiên ngọt ngào gọi họ là „đồng bào ruột thịt xa ngàn dặm“!
Chiến dịch „đánh đổ tư sản mại bản“ do Đỗ Mười cầm đầu mở ra ở miền Nam vào cuối thập niên 70 làm tan nát hệ
thống kinh doanh miền Nam, hàng trăm ngàn tư thương và gia đình bị đẩy về những
vùng „kinh tế mới“ ở những nơi rừng thiêng nước độc, thay vào đó là dựng lên các Doanh nghiệp
nhà nước chỉ làm ăn thua lỗ. Chủ trương „kinh
tế tập thể“ với các hợp tác xã nông nghiệp… ở miền Nam đã dẫn tới nạn đói khủng khiếp ở
VN vào thập niên 80. Đây là những sai lầm cực kì nguy hiểm trong kinh tế, nhưng
chưa bao giờ những người cầm đầu nhìn nhận công khai là sai lầm, quá lắm chỉ âm
thầm sửa sai và nói đó là „đổi
mới“ và còn tự tâng bốc đây là sáng suốt. Không những thế, những người có trách
nhiệm như Đỗ Mười chẳng chịu một hình phạt nào mà còn nắm chức Thủ tướng rồi
Tổng bí thư để sau đó lại cho tái lập các loại Doanh nghiệp nhà nước kiểu mới
như các „tổng công ti và tập đoàn
kinh tế nhà nước“ dưới thời Nguyễn Tấn Dũng đang trở thành
nơi các con ông cháu cha và các nhóm lợi ích trong Đảng đục khoét hàng trăm
ngàn tỉ công quĩ từ thuế của dân!
Trong những năm gần đây các hành động xâm lấn biển đảo, bòn rút tài nguyên
của bá quyền Bắc kinh ngày càng ngang ngược và nguy hiểm; nên các giới trí
thức, văn nghệ sĩ, thanh niên và cả nhiều đảng viên tiến bộ đã công khai tố cáo
và tổ chức những cuộc biểu tình phản đối. Đây là những hành động yêu nước đúng
đắn, nhưng nhóm cầm đầu hiện nay thay vì ủng hộ lại thẳng tay đàn áp, theo dõi
và giam giữ nhiều người. Ngay cả khi Bắc kinh dựng giàn khoan HD 981 từ Nguyễn
Phú Trọng tới Nguyễn Tấn Dũng cũng vẫn cấm nhân dân không được tự do biểu lộ
lòng yêu nước bằng phương pháp bất bạo động. Đó cũng chỉ vì họ phải tuân lệnh
của Bắc kinh là „khép lại quá khứ“!
Tất
cả những tội ác và sai lầm khủng khiếp và triền miên suốt mấy thập kỉ vừa qua,
như trình bày ở trên, từ trong đối ngoại tới kinh tế và nội trị đều qui vào một
mối: Chế độ độc đảng áp dụng chủ nghĩa Marx-Lenin theo thế giới đại đồng đã bị
thực tế phủ nhận hoàn toàn và trở thành viển vông hoang tưởng. Nhưng những người đang nắm vận mệnh đất nước
lại không có lí trí và ý chí nhận ra những sai lầm nguy hại này, họ vẫn chủ
trương „khép lại quá khứ“ và đẩy đất nước vào một tương lai đen tối!
Sự khác biệt căn bản giữa „tưởng nhớ quá khứ“ và „khép lại quá khứ“
Như đã định nghĩa ở phần đầu, „tưởng nhớ quá khứ“ và „khép
lại quá khứ“ vừa là chủ trương chính trị vừa là thái
độ tâm lí của những người lãnh đạo của từng nước. Nhưng hai việc này hoàn toàn
trái ngược nhau như ngày với đêm, trắng với đen. Trong khi „tưởng
nhớ quá khứ“ đòi hỏi khả năng lí trí sáng suốt và ý
chí muốn thay đổi thực sự của những người nắm trọng trách, đồng thời đòi hỏi xã
hội đó phải có những cơ chế cởi mở, trong đó đảng cầm quyền chỉ là một thành
phần của xã hội mà thôi. Bên cạnh đó còn có các chính đảng đối lập, báo chí độc
lập và các tổ chức xã hội dân sự được tự do thành lập và hoạt động theo lãnh
vực nghề nghiệp của mình. Xã hội đó còn có cơ chế phân quyền độc lập giữa lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Tất cả các cơ chế tổ chức này tạo thành một hệ
thống chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục và xã hội tạo ra những cuộc đối
thoại, tranh luận, phản biện công khai và thường xuyên không chỉ trong nghị
trường mà cả trong báo chí và các tổ
chức dân sự khác. Nhờ thế xã hội đó trở nên thông thoáng, có những cơ
chế và tổ chức vừa kiểm soát lẫn nhau, nhưng đồng thời cũng là động lực thúc
đẩy cạnh tranh vươn tới tương lai tốt hơn không chỉ trong chính trị mà cả trong
kinh tế…Chính
xã hội mở này giúp cho dư luận thấy rõ và thấy sớm đâu là những đồng thuận được
đa số ủng hộ, đâu là những chủ trương mị dân, quá khích và phiêu lưu. Những cuộc tranh luận công khai, thẳng thắn và cởi mở giúp cho các giới
trưởng thành về chính trị, các chính đảng luôn luôn phải chịu những thử thách
và quyết định của dư luận nhất là trong các mùa tranh cử quan trọng. Khiến cho
thủ lãnh chính đảng cầm quyền không thể tự thần thánh hóa mình, không thể dễ
dàng đánh lừa cử tri, không thể im lặng trước những bức xúc của nhân dân và
càng không thể dấu diếm các sai lầm theo kiểu „khép lại quá khứ“ được!
Cả hai điều kiện - một chính giới có lí trí sáng suốt và có ý chí muốn thay
đổi thực sự và xã hội cởi mở - đã có ở một số nước Âu châu từ sau Thế chiến 2,
đặc biệt Pháp và Đức, từng là cựu tử thù. Khi ấy cả Tổng thống Pháp De Gaulle
và Thủ tướng Đức Adenauer cùng các cộng sự chính đã sớm nhận ra là: Không thể
xây dựng một tương lai mới cho châu Âu trên nền tảng hòa bình, phồn vinh và dân
chủ mà lại không dám nhìn thẳng vào quá khứ; vì „khép lại quá khứ“, tránh không nhìn nhận lỗi lầm là giúp cho chủ trương phục thù của các bên
có thể trỗi dậy trở lại và đe dọa hòa bình! Khi đó nếu Đức và Pháp không hòa
thuận lại với nhau thì có thể nguy cơ Hồng quân Liên xô khi ấy có thể nhuộm đỏ
không chỉ ở Đông Âu mà cả toàn Âu châu, trong đó cả Pháp lẫn Đức. Vì thế chính
phủ Đức đã công khai nhìn nhận những sai lầm của chế độ độc tài Hitler và tuyên
bố muốn cùng Pháp và các nước Tây Âu xây dựng một liên minh chính trị, kinh tế
mới, dựa trên các nền tảng tin cậy và dân chủ. Chủ trương thức thời và khôn
ngoan này đã được dư luận đa số ở Pháp, Đức và một số nước Tây Âu triệt để ủng
hộ. Các thế hệ tiếp theo trong chính giới Pháp, Đức… đã thấy rõ những lợi ích
rõ ràng của chính sách „mở cửa tương lai“ bằng cách „tưởng nhớ quá khứ“!
Chính
vì sáng suốt và khôn ngoan nên giới lãnh đạo mới ở Tây Âu sau Thế chiến hai đã
dám „tưởng
nhớ quá khứ“ nhận ra những sai lầm và biết dùng ý chí để vượt qua tâm
lí của bóng tối hận thù và chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Chính nó đã „mở
cửa tương lai“ cho một EU dân chủ, nhân quyền, phồn vinh và hòa bình từ
trên nửa thế kỉ nay!
Trái lại, vì không sáng suốt và không đủ ý chí nên những người cầm đầu CSVN
đã chủ trương „khép lại quá khứ“, đóng cửa quá khứ, không dám nhìn nhận những sai lầm và đã bỏ lỡ nhiều cơ
hội để có thể mở cửa tương lai tươi sáng cho VN. Vì vậy sau gần 70 năm nắm
quyền nhưng hận thù và chia rẽ vẫn ngự trị, bộ máy công an mật vụ đàn áp nhân
dân càng được tăng cường; vẫn ngoan cố duy trì hệ thống Doanh nghiệp nhà nước
làm kinh tế tụt hậu, nợ công chồng chất, tham nhũng như rươi. Trong
khi ấy, vì giữ mục tiêu đảng trước nước sau nên những người cầm đầu chế độ toàn
trị lại cứ tiếp tục nhắm mắt cúi đầu quì gối trước Bắc kinh, mở cửa cho phương
Bắc thực hiện các chủ trương bành trướng và vơ vét tài nguyên của VN, đang đe
dọa chủ quyền và độc lập của đất nước! Vì thế tương lai của dân tộc đang rất
đen tối!
Gần đây nhiều đảng viên tiến bộ có tên tuổi và biết quí tự trọng đã lên
tiếng báo nguy về những sai lầm cả trong đường lối đối ngoại với Trung quốc và
các chính sách phản dân chủ với nhân dân đang đẩy đất nước vào môt tương lai
đen tối, có thể dẫn tới mất chủ quyền và độc lập. Nguyên nhân của nó là do
những người đứng đầu chế độ toàn trị vẫn theo con đường mòn „khép
lại quá khứ“ cả với nhân dân và với bên ngoài, không đủ sáng suốt và ý
chí để nhận ra những sai lầm để dám thay đổi triệt để. Đây là những lời cảnh
báo chính xác và có động cơ trong sáng. Vì thế nhiều đảng viên tiến bộ và nhiều
giới ủng hộ.
Cuộc vận động chính trị mới rất cương quyết và kiên trì của nhiều giới, đi
đầu là trí thức và thanh niên, cho một nước VN dân chủ mới đang được sự hưởng
ứng nhiệt tình của nhiều đảng viên tiến bộ và biết quí tự trọng. Trọng tâm của nó là làm
thay đổi tương quan lực lượng giữa dân chủ-tiến bộ và độc tài-bảo thù, với mục
tiêu trong sáng là mở cửa tương lai cho VN đặt trên những giá trị nền tảng phù
hợp với văn minh thời đại là đoàn kết, dân chủ, độc lập, phồn vinh và hòa bình,
sánh vai bình đẳng với các dân tộc văn minh khác!
8. 8. 2014