"Căn cứ khoản 3 điều 58, khoản 1 điều 107, khoản 1 điều 169 BLTTHS 2003, tôi đề nghị Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao:
- Ra quyết định đình chỉ vụ án “Nguyễn Hữu Vinh cùng đồng bọn lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” theo điều 258, BLHS”; và
- Trả tự do ngay cho ông Nguyễn Hữu Vinh Và bà Nguyễn Thị Minh Thuý. Xin trân trọng cảm ơn"
"Căn cứ khoản 3 điều 58, khoản 1 điều 107, khoản 1 điều 169 BLTTHS 2003, tôi đề nghị Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao:
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
________________________
Hà Nội, ngày 21 tháng 11 năm 2014
KIẾN NGHỊ ĐÌNH CHỈ VỤ ÁN
V/v: Đề nghị Viện kiểm sát Nhân dân Tối cao ra quyết định đình chỉ vụ án “Nguyễn Hữu Vinh cùng đồng bọn lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” theo điều 258, BLHS.
Kính gửi: Ông Nguyễn Hoà Bình Viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân Tối cao
Tôi là Lê Thị Minh Hà, vợ ông Nguyễn Hữu Vinh, hiện cư trú tại 4D Đặng Văn Ngữ , phường Trung Tự, quận Đống Đa , thành phố Hà Nội, gửi tới ông kiến nghị như sau.
- Căn cứ vào bản kết luận điều tra của Cơ quan An ninh Điều tra, Bộ Công An;
- Căn cứ vào bản kiến nghị của Luật sư Hà Huy Sơn, Công ty Luật TNHH Hà Sơn thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội, địa chỉ số 156 Lê Đức Thọ kéo dài (Trần Vĩ), phường Mai Dịch, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội;
Tôi nhận thấy Cơ quan An ninh Điều tra (CQANĐT) đã vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng cũng như sử dụng các chứng cứ làm căn cứ buộc tội không hợp pháp, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền tự do của chồng tôi, cụ thể như sau:
Lệnh bắt khẩn cấp vi phạm các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS)
- Lệnh bắt khẩn cấp dựa trên chứng cứ được thu thập một cách bất hợp pháp
Theo hồ sơ vụ án, CQANĐT, Bộ Công an đã căn cứ vào tin báo là Công văn số 469/CV ngày 01/04/2014 của Cục Bảo vệ Chính trị 6 (Cục 6), Tổng cục An ninh I để khởi tố vụ án.
Tại Công văn 469/CV ngày 01/04/2014, Cục 6 cho biết trước đó Cục đã nhận được: Văn bản số 223/CV-FPT-TEL-NOC và 283/CV-FPT-TEL-NOC, ngày 19 và 31/03/2014 của Công ty cổ phần Viễn thông FPT; văn bản số 486/VDC-CN và 495/VDC-CN, ngày 31/03 và ngày 01/04/2014 của Công ty Điện toán và Truyền số liệu VDC.
Các Văn bản này thông báo kết quả việc họ (FPT, VDC) theo yêu cầu của Cục 6 đã theo dõi và cung cấp thông tin cá nhân của khách hàng cho Cục 6. Hành vi này của FPT, VDC là trái với quy định của điều 38 Bộ luật Dân sự 2005 và khoản 2 Điều 26 Nghị định 72/2013/NĐ-CP, khi không có quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát. Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân chỉ được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
CQANĐT khi nhận được tin báo của cơ quan, tổ chức đã không tiến hành kiểm tra, xác minh nguồn tin một cách đầy đủ theo quy định của Điều 103, BLTTHS và khoản 2 Điều 10, Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLTBCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC để xác định thiệt hại của tổ chức, cá nhân người bị hại, danh tính của tổ chức, danh tính cá nhân trước khi quyết định khởi tố vụ án.
Với việc vi phạm trình tự thu thập chứng cứ ngay từ đầu, toàn bộ các tiến trình tố tụng sau đó đều đương nhiên không có hiệu lực.
- Lệnh bắt khẩn cấp không thỏa mãn điều kiện bắt khẩn cấp của BLTTHS
Lệnh bắt khẩn cấp ngày 05/05/2014 của CQANĐT, Bộ Công an đối với ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy theo điểm c, khoản 1, Điều 81, BLTTHS 2003: “Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ.”và sau đó ra lệnh tạm giam ông Vinh và bà Thúy là vi phạm tố tụng.
Tại các bút lục số 331, 332 trong hồ sơ vụ án thể hiện khi khám xét khẩn cấp nơi ở của ông Nguyễn Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy cùng ngày 05/05/2014 không thu được chứng cứ nào ngoài một số các bài viết được in ra tại nhà từ máy tính của ông Vinh, bà Thúy.
Bản kết luận điều tra số 14/ANĐT ngày 30/10/2014 của CQANĐT sau này cho rằng các bài viết in ra được xác định là chứng cứ, bao gồm: ở máy tính của ông Vinh có 06 bài in từ blog chepsuviet.wordpress.com, ở máy tính của bà Thúy có 02 bài in ra từ blog diendanxahoidansu.wordpress.com.
Ông Vinh không ký biên bản khám xét mà chỉ có 02 người chứng kiến ký là: Ông Phạm Văn Vinh, Cảnh sát khu vực phường Xuân La, quận Tây Hồ, Hà Nội và ông Ngô Sỹ Lợi, người láng giềng.
Bà Thúy không ký biên bản khám xét mà chỉ có 02 người làm chứng kiến ký là: Ông Hoàng Chí Thanh, Cảnh sát khu vực phường Thành Công, quận Ba Đình, Hà Nội và bà Nguyễn Thị Khiêu, người láng giềng.
Không có căn cứ để khẳng định những người chứng kiến việc khám xét ngày 05/05/2014 là có kiến thức, hiểu biết về internet nên việc chứng kiến của họ là không có giá trị khách quan. Điều này đồng nghĩa CQANĐT không có căn cứ cho rằng các bài viết được in ra ở trên là chứng cứ, hay đó là các dấu vết của tội phạm tại chỗ ở của ông Vinh, bà Thúy.
Các bài viết trên mạng internet Cơ quan điều tra đều biết trước và hoàn toàn có thể in ra từ internet và thu giữ máy tính của ông Vinh, bà Thúy để in ra các tài liệu lưu trong đó mà không ai (ông Vinh, bà Thúy) có thể tiêu hủy được hoặc cản trở.
Chứng cứ làm căn cứ luận tội được thu thập không đúng quy định pháp luật.
CQANĐT chỉ căn cứ vào các văn bản của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông (Công ty cổ phần viễn thông FPT, Công ty điện toán và truyền dẫn số liệu VDC, Công ty cổ phần viễn thông Hà Nội HTC, Công ty dịch vụ viễn thông Vinaphone) để khẳng định tính liên quan của các thông tin cung cấp với bị can Nguyễn Hữu Vinh và bị can Nguyễn Thị Minh Thúy mà không trưng cầu giám định là vi phạm Điều 64 và Điều 66 BLTTHS.
Các văn bản do các doanh nghiệp trên cung cấp không đảm bảo tính khách quan (điều 10 BLTTHS), tính hợp pháp để xác định trách nhiệm hình sự của các bị can.
Kết luận giám định ngày 19/09/2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông không phải là chứng cứ hợp pháp, bởi vì:
- Căn cứ Luật giám định tư pháp 2012, Khoản 1, Điều 2, quy định:
“Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật này.”
Như vậy, giám định tư pháp là việc sử dụng các kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn để xác lập chứng cứ vật chất liên quan đến hoạt động điều tra vụ án.
Do đó, các tài liệu là 37 bài viết theo Quyết định trưng cầu giám định số 60/ANĐT-P3 ngày 07/08/2014 của CQANĐT mà Kết luận giám định ngày 19/09/2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông là những chứng cứ phi vật chất không thuộc đối tượng của giám định tư pháp.
- Căn cứ:
Luật giám định tư pháp 2012, Khoản 1, Điều 3 về “Nguyên tắc thực hiện giám định tư pháp”, quy định: “Tuân thủ pháp luật, tuân theo quy chuẩn chuyên môn.”
Khoản 2, Điều 41 về “Nhiệm vụ, quyền hạn của bộ, cơ quan ngang bộ quản lý chuyên môn về lĩnh vực giám định tư pháp”, quy định: “Ban hành quy chuẩn giám định tư pháp hoặc hướng dẫn áp dụng quy chuẩn chuyên môn cho hoạt động giám định tư pháp theo yêu cầu và đặc thù của lĩnh vực giám định thuộc thẩm quyền quản lý.”
Thông tư số 24/2013/TT-BTTTT ngày 27/12/2013 của Bộ Thông tin và Truyền thông, kKhoản 1, Điều 10 về “Áp dụng quy chuẩn chuyên môn cho hoạt động giám định tư pháp;”, quy định:
“Hoạt động giám định tư pháp trong lĩnh vực thông tin và truyền thông được thực hiện căn cứ vào quy chuẩn chuyên môn trong lĩnh vực thông tin và truyền thông hiện hành (bao gồm Tiêu chuẩn quốc gia và Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia trong lĩnh vực thông tin và truyền thông) và các văn bản pháp luật có liên quan đến nội dung cần giám định.”
Có thể khẳng định, kết luận giám định ngày 19/09/2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông không tuân theo một quy chuẩn chuyên môn nào trong lĩnh vực thông tin và truyền thông hiện hành.
Do đó, kết luận giám định ngày 19/09/2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông không phải là chứng cứ hợp pháp.
KIẾN NGHỊ:
Căn cứ khoản 3 điều 58, khoản 1 điều 107, khoản 1 điều 169 BLTTHS 2003, tôi đề nghị Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao:
- Ra quyết định đình chỉ vụ án “Nguyễn Hữu Vinh cùng đồng bọn lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” theo điều 258, BLHS”; và
- Trả tự do ngay cho ông Nguyễn Hữu Vinh Và bà Nguyễn Thị Minh Thuý. Xin trân trọng cảm ơn.
Người làm đơn
(đã ký)
LÊ THỊ MINH HÀ
Nơi nhân:
- Chủ tịch nước Trương Tấn Sang;
- Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng;
- Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng;
- Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình.