THƯ GÓP Ý viết: " Làm sao định hình “thế trận lòng dân” khi nhìn đâu cũng thấy “các thế lực thù địch”, phải “chủ động phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả âm mưu “diễn biến hoà bình”, “bạo loạn lật đổ, hoạt động chống phá”? Tỉnh táo phân tích có thể chỉ rõ nguyên nhân sâu xa của sự bất bình xã hội chính là vì lòng dân không yên. Mà không yên là do sự thoái hoá biến chất của một bộ phận không nhỏ trong Đảng cầm quyền, thay vì “làm người đầy tớ trung thành và tận tụy của dân” lại cưỡi lên đầu, lên cổ dân."
Kính gửi Ban chấp hành Đảng bộ Đảng
Cộng Sản Việt Nam
Thành phố Hồ Chí Minh
Hưởng
ứng Thư của Ban Chấp Hành Đảng Bộ TPHCM “chân thành mong muốn nhận được nhiều ý kiến
góp ý tâm huyết, thẳng thắn với tinh thần trách nhiệm của nhân dân thành phố”,
chúng tôi, một số cán bộ, đảng viên từng gửi thư đến BCHTƯvà toàn thể đảng viên
ĐCSVN ngày 14.7.2014 và những người tán thành, hưởng ứng bức thư tâm huyết ấy gửi
đến Đảng Bộ Thành Phố những ý kiến đóng góp vào “Dự thảo Báo cáo Chính trị”
dưới đây.
Là
những cán bộ đã về hưu, không có điều kiện theo dõi những hoạt động mọi mặt của
thành phố, chúng tôi chỉ tập trung vào một số điều, mà theo nhận thức của chúng
tôi, là những vấn đề cơ bản có ý nghĩa then chốt trong chủ trương, giải pháp đã
đưa lại những thành tựu nổi bật nhất cũng như những yếu kém rõ rệt nhất của
thành phố chúng ta.
Xin
nêu 4 vấn đề như sau:
1. Cảm nhận chung về Dự thảo BÁO
CÁO CHÍNH TRỊ của Thành uỷ
a. Đây là một bản Báo cáo Chính trị được viết công phu, bao quát
được mọi hoạt động của thành phố với những con số khá ấn tượng nhìn nhận tình
hình về mọi mặt.
b. Đáng tiếc là Báo cáo chưa làm nổi rõ nét đặc thù của một Thành
phố lớn nhất nước, có vai trò đầu tàu về kinh tế và hội nhập mà trên thực tế,
thành phố HCM đã giữ được vai trò ấy
ngay từ bước đột phá của những năm 80 dẫn đến Đại hội VI 1986.
c. Báo cáo chìm trong câu chữ và con số mà thiếu vắng một định hướng
ý tưởng làm sợi chỉ đỏ xuyên suốt nhận định, phân tích, đánh giá tình hình và
đưa ra hướng đột phá cho bước đi tới của Thành phố HCM trong một giai đoạn lịch
sử có nhiều biến động lớn lao.
2. Một trong những điều cần đặc biệt xem xét
là trong báo cáo này hoàn toàn vắng
bóng tư tưởng hoà hợp dân tộc, một đòi hỏi nóng bỏng để
hội nhập quốc tế, thu hút đầu tư, tạo nguồn động lực cho giai đoạn mới khi mà
tiến trình hội nhập đang đi vào chiều sâu với những bước đột phá mạnh mẽ.
Nói đến nét đặc thù của thành phố Hồ
Chí Minh không thể không nhớ đến đây là nơi mà “một sự kiện liên quan đến chiến
tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn.
Đó là một vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục
làm nó thêm rỉ máu” như cố Thủ Tướng Võ Văn Kiệt, khi là Bí Thư Thành Uỷ
thành phố đã khởi động và mở đường cho việc “phá rào” góp phần dẫn tới sự nghiệp
Đổi Mới trong cả nước, đã từng thiết tha chỉ rõ. Chính định hướng nhận thức ấy
đã sự mở lối cho sự hoà hợp, phát huy truyền thống dân tộc, phát huy tinh thần
đại đoàn kết cho các thế hệ công dân thành phố khi mà cuộc chiến đã lùi sâu gần
nửa thế kỷ. Họ đã là, đang là một thành tố lịch sử của Thành phố.
a. Vậy thì, trong “thế
trận lòng dân” mà Báo cáo Chính trị nói đến, đã lưu ý đến nét đặc thù ấy chưa? Khi nói “ổn
định chính trị với nền tảng là an dân thực sự là cơ sở chính trị quan trọng…tăng
cường mối quan hệ máu thịt với Nhân dân, dựa vào Nhân dân, phát huy sức dân để
chăm lo cho Nhân dân” thì trong nhận thức của lãnh đạo cũng như trong những
giải pháp chính sách đã thể hiện như thế nào?
Đọc
kỹ nội dung báo cáo, chúng tôi có cảm nhận rằng, hướng chủ đạo trong nhận thức
và tư tưởng chỉ đạo của Thành uỷ vẫn chỉ đặc biệt chú trọng “nâng cao cảnh giác”, “giữ vững ổn định
chính trị trong mọi tình huống, không để bị động bất ngờ….chủ động phòng ngừa,
phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn
lật đổ, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, bọn phản động, cơ hội
chính trị, cực đoan chống đối trong và ngoài nước….” mà chưa có một cái
nhìn xa hơn về sức mạnh và lợi thế tiềm ẩn trong tính đặc thù của thành phố
không nơi nào có được.
Đương
nhiên, cảnh giác là tuyệt đối cần thiết. Nhưng cảnh giác không phải là, không
thể là chẳng có một câu, một chữ nào biểu tỏ tinh thần hoà hợp dân tộc. Ngần ấy trang Báo cáo không hề đả động gì đến “vết
thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm
rỉ máu” mà chỉ nhấn mạnh đi, nhấn mạnh lại tinh thần và giải pháp đối
phó với “thế lực thù địch”… Chính
cái đó cho người ta dễ có nhận xét là: phải chăng trong tư duy của lãnh đạo chỉ
hiểu được nét đặc thù của thành phố ở khía cạnh phải nâng cao tinh thần “cảnh
giác”! Cũng có nghĩa là thường trực trong tư duy của lãnh đạo là nặng về định
hình những giải pháp đối phó, chứ không phải là chủ động
và mạnh dạn phát huy sức mạnh và lợi thế tiềm ẩn của Sài
Gòn, nay là thành phố Hồ Chí Minh, nhằm
tạo dựng tính đồng thuận mang ý nghĩa nhân văn. Ấy vậy mà “muốn để mọi người Việt cùng chung
tay tạo dựng thì chúng ta phải thực tâm hoà hợp”, đấy là chìa khoá mở
cánh cửa hội nhập và phát triển mà Võ Văn Kiệt đã từng chỉ ra.
b. Vậy thì khi Báo cáo viết rằng “ổn định chính trị với nền tảng là an dân
thực sự là cơ sở chính trị quan trọng” thì cái nền tảng của ổn định chính trị mà Báo cáo xác định là “an dân” thì quyết sách và biện pháp an dân là đối phó với “lực lượng thù địch”
đang “mưu toan bạo loạn lật đổ” hay
là phát huy sức mạnh của đồng thuận
xã hội, khơi mở tình yêu nước, nghĩa đồng bào, nuôi dưỡng truyền thống đại đoàn
kết dân tộc?
Làm
sao định hình “thế trận lòng dân”
khi nhìn đâu cũng thấy “các thế lực thù
địch”, phải “chủ động phòng ngừa,
phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả âm mưu “diễn biến hoà bình”, “bạo loạn lật đổ, hoạt động chống phá”?
Tỉnh táo phân tích có thể chỉ rõ nguyên nhân sâu xa của sự bất bình xã hội
chính là vì lòng dân không yên. Mà không yên là do sự thoái hoá biến chất của một
bộ phận không nhỏ trong Đảng cầm quyền, thay vì “làm người đầy tớ trung thành và tận
tụy của dân” lại cưỡi lên đầu, lên cổ dân. Tệ tham nhũng được xem là “quốc
nạn” càng chống càng tăng và đang như một bệnh dịch thì do ai gây ra?
Chính cái cơ chế đã sản sinh và nuôi dưỡng “quốc nạn” ấy sẽ thách thức
sự phẫn nộ của lòng dân không sớm thì muộn dẫn đến cái kết cục “tức
nước vỡ bờ” mới thực sự nguyên nhân đẩy tới “tình huống bị động bất ngờ” phải “chủ động phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả”
mà Báo cáo nói đến.
Chính
cái đó đang phá hoại “thế trận lòng dân”
một cách dữ dằn nhất. Cho nên, muốn có “thế
trận lòng dân” thì một mặt phải biết chĩa mũi nhọn vào cái cơ chế đẻ ra “quốc
nạn” nói trên, mặt khác phải biết hun đúc, phát huy tính đồng thuận
trong tự tình dân tộc vốn sâu đậm tình yêu nước, nghĩa đồng bào, tinh thần
tương thân tương ái, chia ngọt sẻ bùi, tối lửa tắt đèn có nhau.
Vì
vậy, nếu chỉ dồn sức cho sự đối phó thể hiện khá rõ trong việc
nhắc đi nhắc lại những từ này trong Báo cáo cho thấy đó là âm hưởng nặng nề chi phối tư duy của lãnh đạo, thì hệ
luỵ không tránh khỏi sẽ là sự phân biệt đối xử làm xói mòn sức dân. Liệu
cách thể hiện đó có tính đến tâm trạng của những người dân bình thường vốn từng
là công dân thành phố Sài Gòn trước 1975, [hãy chỉ tính những người từ 40 tuổi
trở lên không phải từ R hay “tập kết” trở về và từ Miền Bắc vào sau 1975] và
con cháu họ sinh ra và lớn lên trong thành phố từ sau 1975 cho đến nay và bà
con, họ hàng của họ đang sống ở nước ngoài vẫn thường xuyên có mối liên hệ mật
thiết.
Làm
sao để những công dân thành phố đó hiểu được rằng, và tin được rằng, họ cũng nằm
trong “thế trận lòng dân”, cũng là nền
tảng của sự “ổn định chính trị”. Đây
chính là điều mà người lãnh đạo thành phố phải thực tâm trong tư tưởng, tình cảm
để thể hiện ra trong quyết sách và giải pháp. Nền tảng chính trị chỉ có thể xây đắp vững bền khi biết tôn trọng quyền làm chủ của mọi công dân,
không phân biệt đối xử. Cần nhớ rằng thế hệ công dân của thành phố ra đời
dưới chế độ mới đã có 40 năm trải nghiệm. Họ là một thành tố làm nên sự tồn tại
và phát triển của thành phố chúng ta. Thực tâm mở rộng dân chủ trong mọi mặt hoạt
động và sinh hoạt của thành phố sẽ phát huy khả năng sáng tạo của mỗi người,
góp phần xóa bỏ mặc cảm, tăng cường tính đồng thuận xã hội và truyền thống yêu
nước của mỗi người dân. Chỉ làm như thế mới thực sự “an dân”.
3.
Nét đặc thù nổi bật nhất của Thành phố Hồ
Chí Minh cần phải được đặc biệt nhìn nhận, phân tích, để từ đó rút ra bài học
cho hôm nay là gì, nếu không phải là bề dày vốn có của một thành phố từng được
vận hành trong nền kinh tế thị trường đã để lại dấu ấn đậm nét trong sản xuất,
kinh doanh, quản lý doanh nghiệp, trong nếp sống đô thị, tập quán văn minh
thương mại… Đừng quên rằng Sài Gòn trước đây đã từng được mệnh danh là “Hòn ngọc
Viễn Đông” khi mà Bangkok chưa là gì cả.
a. Thành phố HCM đã từng “phá rào” để tự cứu mình và từ hành động
dũng cảm phù hợp với quy luật vận động của cuộc sống đó đã dẫn đến những thay đổi
trong tư duy của những người lãnh đạo cao nhất của đất nước, chấp nhận những giải
pháp thực tiễn trái với những “nguyên tắc” giáo điều, xơ cứng, dẫn tới đường lối
Đổi Mới. Vậy thì, trong 30 năm qua, những thành tựu nào cho thấy đó là sản phẩm
của những quyết sách và giải pháp “phá rào” cần phải chỉ ra để vận dụng
vào bước ngoặt hôm nay?
b. Vốn có bề dày của kinh tế thị trường trước 75, Sài Gòn từng vượt
xa Bangkok, Singapore, cho nên “phá rào” cũng có nghĩa là phá những
ràng buộc của cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp không chấp nhận quy luật
thép của thị trường, để trở lại với kinh tế thị trường vốn
là cội nguồn của Sài Gòn từng trở thành “Hòn ngọc Viễn đông”.
Cần
phải tổng kết bài học này để tiếp tục thực hiện “vai trò, vị trí của thành phố, là nơi hội tụ và lan toả, vì cả nước,
cùng cả nước…làm đầu tàu cho cả nước” như Dự tháo Báo cáo đã nêu lên. Nhất
là khi chính những người lãnh đạo cao nhất đang thiết tha đề nghị các nước và một
số tổ chức quốc tế “công nhận Việt Nam
thực sự là một nền kinh tế thị trường đầy đủ” đúng như nó cần có, thì TP
HCM phải nắm lấy thời cơ để chính thức hoá những cách làm, những mô hình đã tỏ
rõ trong thực tiễn là có hiệu quả, nhưng chưa dám công khai chính thức hoá.
Đã
đến lúc chúng ta phải có đủ sự sự sòng phẳng và sự liêm sỉ cần thiết để không tự
mâu thuẫn với mình, nói với thế giới một đằng nhưng nói với nhân dân trong nước
một nẻo. Người dân thành phố Hồ Chí Minh cần sự minh bạch về những thành tựu
cũng như những khuyết tật và hạn chế với nguyên nhân sâu xa chưa được trình bày
một cách thẳng thắn, công khai. Đây phải là nội dung thiết thực nhất và quan trọng
nhất của việc “chú trọng tổng kết thực
tiễn, nhân rộng các mô hình, cách làm hiệu quả” đã nêu trong Dự thảo Báo
cáo.
TPHCM
lại đang kết nghĩa với một số thành phố “điển hình của kinh tế thị trường” ở Mỹ,
Nhật, Anh…thì từ thực tiễn sống động của mình, cần mạnh dạn tổng kết, rút ra
bài học và quyết tâm đẩy tới. Xin hãy nhớ lại những quyết sách mạnh dạn và sáng
suốt với bản lĩnh dám làm, dám chịu trách nhiệm trước cuộc sống người dân, chấm
dứt được thời kỳ Sài Gòn ăn bobo và lãnh đạo chỉ dồn sức chạy gạo, bằng việc từng
bước vận hành guồng máy kinh tế, xã hội theo quy luật thép của thị trường.
c. Không cần phải viết dài, chỉ cần nêu lên một số điển
hình thành công nhất của việc tuân theo quy luật thị trường. Từ đó, rút ra bài
học để đưa tới những quyết sách hoặc những định hướng mạnh dạn cho thời gian 5
năm tới với những mũi nhọn cần tập trung chỉ đạo. Nếu đúng là những quyết sách
được cuộc sống chấp nhận, tự chúng sẽ có sức lan toả, xuất hiện những nhân tố mới,
gọi dậy những sáng tạo của những con người mới, tập thể mới như đã từng xuất hiện
trong giai đoạn “phá rào” trước đây. Linh hoạt vận dụng bài học ấy để mạnh dạn
đưa ra những quyết sách và giải pháp độc đáo cho những vấn đề gặp phải, nhằm
đưa đến những đột phá có ý nghĩa mở đường cho giai đoạn mới, phải là quyết tâm
của lãnh đạo Thành phố.
4. Một trong những nhân tố quan trọng
nhất làm nổi bật nét đặc thù của Thành phố
Hồ Chí Minh là đội ngũ trí thức,
doanh nhân có bề dày kinh nghiệm, vốn tri thức, kỹ năng nắm bắt và vận dụng
công nghệ hiện đại vào nền kinh tế thị trường. Nét đặc thù này còn khá mờ nhạt
trong “Báo cáo Chính trị” của Đảng Bộ Thành phố.
a. Về câu chữ đã đề cập đến chuyện này nằm rải rác trong
các đề mục của Báo cáo thì không thiếu, nhưng chúng chưa cho thấy được vấn đề cực
kỳ quan trọng này, chưa là mối quan
tâm đúng như nó cần phải có trong tư duy của lãnh đạo thành phố. Ấy vậy mà đây
chính là vấn đề then chốt nhất của việc tái
cơ cấu nền kinh tế, đổi mới công nghệ, thu hút đầu tư, chủ động hội nhập, xây dựng
chính quyền đô thị kiến tạo phát triển hiệu lực, kết quả để tạo ra bước đột phá, giữ được vai trò đầu tàu của cả nước như Báo
cáo đã nêu lên.
b. Trong số anh em chúng tôi ký vào thư này, có người đã
trực tiếp nghe cố Tổng Bí thư Lê Duẩn nhắc nhở lãnh đạo thành phố sau 1975 phải
nhận cho rõ cái vốn quý nhất hiện có của Sài Gòn lúc bấy giờ là đội ngũ trí thức và chuyên gia còn ở lại, cần
phải biết cách khai thác và phát huy. Bốn mươi năm qua kể từ buổi ấy, vốn
quý đó đã được phát triển hay là đã mai một đi và nguyên nhân tại đâu, ai phải
chịu trách nhiệm về việc này?
Cũng
trong bối cảnh đó, bí thư Thành uỷ Võ Văn Kiệt đã tìm mọi cách thuyết phục những
trí thức, chuyên gia của chế độ cũ để họ dằn lòng ở lại với Thành phố. Khi
không thuyết phục nổi, ông đã tìm mọi cách tháo gỡ để giảm bớt khó khăn cho họ,
thậm chí tìm cách bảo lãnh những người không may bị cầm giữ khi vượt biên, đưa
họ trở lại với công việc. Hành động có phần đơn độc và mạo hiểm của người giữ
trách nhiệm cao nhất của thành phố lúc bấy giờ tuy hạn chế về kết quả cụ thể, song lại có sức thuyết phục lớn đối
với tâm tư, tình cảm của người trí thức yêu nước, yêu dân, giàu lòng tự trọng.
Việc hình thành “nhóm thứ Sáu” gồm những trí thức, chuyên gia có kinh nghiệm vận
hành kinh tế thị trường trước 75 để tư vấn về kinh tế, tài chính cho lãnh đạo
Thành phố là sản phẩm của đầu óc cởi mở, thực sự cầu thị, trân trọng lắng nghe
nhằm vận dụng vào xây dựng kinh tế, quản lý đô thị vốn rất bỡ ngỡ đối với người
vừa bước ra khỏi cuộc chiến.
Liệu
hôm nay, trong đội ngũ lãnh đạo thành phố những ai có được tầm vóc tư duy và
cách ứng xử đậm chất nhân ái như Võ Văn Kiệt để trân trọng và phát huy vốn quý
tiềm ẩn trong thành phố lớn nhất nước này?
c. Việc “xây dựng
con người thành phố là nhân tố chủ yếu”, “chính sách thu hút chuyên gia khoa học-công nghệ”, “thu hút, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao” chỉ mới là “thí điểm” như
đã viết. Vậy thì kết quả “thí điểm”
đó có cho thấy đây chính là “vấn đề của vấn đề” đối với một “đô thị đặc biệt”, “là nơi hội tụ và lan toả, vì cả nước, cùng cả nước” mà Báo cáo
Chính trị dõng dạc nêu lên không? Muốn được như vậy thì trước mắt phải làm gì,
lâu dài phải ra sao? Phải chăng là cần nghiên cứu lại cách làm và mô hình đã từng
được vận dụng của thời kỳ “phá rào” với nhiều sáng kiến và giải pháp linh hoạt
xuất phát từ đòi hỏi của cuộc sống người dân lúc ấy mà lãnh đạo Thành phố Hồ
Chí Minh đã làm như vừa gợi lên.
Để
làm gì? Để từ bài học thành công và thất bại của giai đoạn ấy mà biết cách vận
dụng sáng tạo, tìm ra những quyết sách mới, giải pháp mới tương thích với bối cảnh
mới. Cần có một thiết chế linh hoạt đủ sức quy tụ đội ngũ chuyên gia giỏi trong
và ngoài nước nhằm hình thành nên một bộ phận tư vấn cho lãnh đạo trên từng chủ
đề quan trọng và thiết thực nhất của quá trình hoàn thiện nền kinh tế thị trường
đích thực tại thành phố năng động vào loại bậc nhất của cả nước.
Cuộc
sống mạnh hơn những giáo điều và những nguyên tắc khô cứng bóp chết sáng tạo,
kìm hãm sự phát triển. Cuộc sống sẽ tự mở đường cho chính nó như đã từng chứng
minh trong giai đoạn “phá rào”. Nếu người lãnh đạo lại biết nhận ra sai lầm, biết
thuận theo quy luật để có định hướng đường lối và giải pháp đúng thì sẽ đẩy
nhanh được tiến trình phát triển của thành phố đang tiềm ẩn trong nó những sức
mạnh lớn lao. Đây là điều cần phải thật sự tường minh trong tư duy của lãnh đạo
thành phố. Có vậy mới phát huy được sức mạnh tiềm ẩn đó…Sức mạnh ấy sẽ tạo ra sự
“lan toả vì cả nước, cùng cả nước”
như mong muốn của lãnh đạo và ý nguyện của nhân dân, đặc biệt là của thế hệ trẻ
thành phố.
Đây
là nguồn lực hết sức quyết định, rất giàu sức sống,cháy bỏng khát vọng thay đổi
để phát triển. Điều cần phải xác định rõ là: lực lượng nòng cốt và giữ vai trò
xung kích trong thay đổi để làm cho Thành phố Hồ Chí Minh đóng được vai trò đầu
tàu kinh tế chính là đội ngũ doanh nhân giàu tiềm năng và kinh nghiệm, giàu sức
bật. Trong đó cần đặc biệt bồi dưỡng đội ngũ doanh nhân trẻ. Điều này đang còn
quá mờ nhạt trong Báo cáo Chính trị.
Nguồn
lực quý báu của thành phố cần phải đặc biệt coi trọng là trí thức và chuyên gia người Việt
đang sống ở nước ngoài vốn có mối liên hệ mật thiết với gia đình, người
thân và bạn bè ở thành phố. Đã đến lúc cần phải có một cách nhìn mới để hình
thành những chính sách thích hợp nhằm thu hút, quy tụ và phát huy nguồn lực quý
báu đó để tạo chuyển biến đưa tới những đột phá trong giai đoạn mới đấy thử
thách khi nước ta gia nhập TPP. Thay vì trong tư duy của lãnh đạo thành phố chỉ
nhìn thấy “còn tiềm ẩn nhiều yếu tố gây
bất ổn” phải thấy cho ra “còn tiềm ẩn
nhiều nhân tố đặc thù của nguồn lực quý báu” cần phải biết trân trọng. Phải
đổi mới cách nhìn để thực tâm mời gọi và tạo ra những cơ chế đặc thù nhằm khai
thác và phát huy nguồn lực tiềm ẩn đó.
Để
thành phố Hồ Chí Minh trở thành đầu tàu kinh tế và văn hoá đủ sức lan toả như
đã từng có trong bước khởi đầu của sự nghiệp Đổi Mới thì phải thấy rằng: nguồn
động lực được tạo ra bằng những giải pháp mạnh mẽ và sáng tạo có sức bung phá
những trì trệ, xơ cứng để có bước phát triển ấy nay đã cạn. Muốn phát triển tiếp,
cần phải có nguồn động lực mới. Đổi mới thể chế nhằm đề cao tinh thần thượng
tôn pháp luật, hoàn thiện nhà nước pháp quyền gắn liền với quá trình dân chủ
hoá trong mọi hoạt động xã hội, trong làm ăn sinh sống của người dân, dân có
quyền làm tất cả những gì pháp luật không cấm và biết sử dụng pháp luật để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Làm được như vậy sẽ tạo ra nguồn động lực
mới. Nội lực chưa được khai mở của thành phố chúng ta còn rất lớn. Với những cơ
chế chính sách cởi mở và thông thoáng phù hợp với quy luật vận động của cuộc sống,
nội lực ấy sẽ bung ra.
Thưa
Ban chấp hành Đảng Bộ Thành phố,
Trên
đây là một số ý kiến của chúng tôi gửi đến Thành Ủy. Như đã nói ở mở đầu bức
thư, chúng tôi chỉ tập trung nêu lên 4 vấn đề lớn mà theo chúng tôi là những vấn
đề có ý nghĩa then chốt trong việc tạo ra bước đột phá để đưa thành phố của
chúng ta đi tới. Nghĩ sao nói vậy, nếu có điều gì chưa đúng mong được mạnh dạn
trao đổi để tìm ra sự đồng thuận.
Hưởng
ứng lời kêu gọi của Thành Uỷ đã đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng nên chúng tôi
thẳng thắn và công khai nói lên những ý kiến đóng góp của chúng tôi qua bức thư
gửi đến Thành Uỷ thông qua báo Sài Gòn Giải phóng. Chúng tôi mong nhận được sự
trả lời minh bạch và công khai. Được như vậy sẽ tạo nên một không khí cởi mở và
dân chủ trong đông đảo nhân dân Thành phố chúng ta.
Xin
gửi lời chào trân trọng.
TP Hồ Chí Minh ngày 21 tháng 9 năm 2015
Danh sách những người ký tên dưới bức thư:
1. Huỳnh Tấn Mẫm, nguyên Chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Sài gòn trước 1975, nguyên Đại biểu
Quốc Hội khóa VI, nguyên Tổng Biên Tập Báo Thanh Niên, ,Hiện là Ủy viên Ủy Ban Ủy
Ban Mặt Trận Tổ Quốc TPHCM,
2. Lê Công Giàu, nguyên Tổng Thư ký Tổng Hội
Sinh Viên Sài Gòn 1966, nguyên Phó Bí thư thường trực Thành đoàn Thanh niên Cộng
sản TP HCM, nguyên Giám đốc FTDC, ITPC, TP HCM
3. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng Thư ký Hội
Trí thức Yêu nước TP HCM
4. Tương Lai nguyên thành viên Tổ Tư vấn Võ
Văn Kiệt, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên
Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam
5. Đào Công Tiến, PGS, nguyên Hiệu trưởng Đại
học Kinh tế TPHCM, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải,
hiện là Phó Chủ tịch Hội Khoa Học Kinh tế Việt Nam, TP HCM
6. Tống Văn Công, nguyên Tổng Biên tập Báo
Lao Động, TP HCM
7. Bùi Tiến An, nguyên cựu tù chính trị chuồng
cọp Côn Đảo trước 1975, Nguyên là chuyên viên ban Dân vận Thành ủy TP HCM
8. Võ Văn Thôn, nguyên Giám Đốc Sở Tư Pháp
TP HCM
9. Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), nguyên Thư ký của
đc Mai Chí Thọ, TP HCM
10. Hạ Đình Nguyên - hưu trí - địa chỉ 577/3
Quốc lộ 13, p Hiệp Bình Phước, Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh
11. Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng Biên tập
báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM
12. Tô Lê Sơn, kỹ sư, thành viên CLB Lê Hiếu
Đằng, TP HCM
13. Lưu Trọng Văn, nhà văn, nhà nghiên cứu
văn hoá, TP HCM
14. Hà Quang Vinh, cán bộ hưu trí Quận 5, TP
HCM
15. Nguyễn Thu Giang, nguyên Phó Giám đốc Sở
Tư pháp TPHCM
16. Nguyễn Lê Thu An, nguyên phó tổng biên tập
tạp chí Phim, TP HCM
17. Trần Minh Quốc, nhà giáo hưu trí, hội
viên CLB Lê Hiếu Đằng, TP HCM
18. Hà Thúc Huy, PGS.TS., Giảng dạy Đại học,
Tp HCM
19. Hồ Hiếu, nhà giáo Sài Gòn, phong trào
Tranh thủ Dân chủ Đà Lạt 1966, nguyên Chánh văn phòng Ban Dân vận Thành Ủy TP
HCM
20 . Lê Thân, Hưu trí, cựu tù chính trị Côn Đảo,
TP HCM
Kính gửi ông Tổng
Biên tập Báo Sài Gòn Giải phóng
Hưởng ứng
Thư của Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam TP Hồ Chí Minh gửi đồng
bào Thành phố Hồ Chí Minh đăng trên Báo Sài Gòn Giải phóng ngày 10.9.2015 “chân
thành mong muốn nhận được nhiều ý kiến góp ý tâm huyết, thẳng thắn với tinh thần
trách nhiệm” vào Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội Đại biểu thành
phố lần thứ X, chúng tôi đề nghị ông Tổng Biên tập hai điều như sau :
1.Chuyển
thư góp ý của chúng tôi đến Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh mà quý báo
đã đăng toàn văn Thư mời góp ý kiến đó.
2.Theo tinh
thần như đã nêu lên trong Thư của
BCHĐBTPHCM, đây là những “góp ý tâm huyết, thẳng thắn với tinh thần
trách nhiệm” được trình bày một cách minh bạch và công khai, nên chúng
tôi mong được Báo Sài Gòn Giải phóng sớm cho đăng trên quý báo để nhân dân
Thành phố biết những đóng góp mạnh dạn, thẳng thắn của chúng tôi. Việc sớm
chính thức đăng công khai trên “Sài Gòn Giải Phóng”, Cơ quan của Đảng bộ Đảng Cộng
sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh; Tiếng nói của Đảng bộ, Chính quyền và Nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh THƯ GÓP Ý sẽ nói lên tính nghiêm túc và chân thành lắng
nghe, thực sự cầu thị của lãnh đạo và nhân dân thành phố.
Điều này, theo chúng tôi, sẽ có tác dụng động viên mọi tầng lớp
nhân dân và tất cả đảng viên của Đảng mạnh dạn và thẳng thắn đóng góp những ý
kiến tâm huyết, củng cố thêm “thế trận lòng dân” để phát huy mạnh
mẽ chính sách “an dân” mà Dự thảo Báo cáo đã nêu lên.
Xin trân trọng cám ơn.
TP Hồ Chí Minh ngày 21.9.2015
Thay mặt những người gửi thư góp ý
Huỳnh Tấn Mẫm