Thụy My
Phạm Chí Dũng: "Tại thời điểm đó, theo một nguồn tin đáng tin cậy mà tôi có được, phía Việt Nam hầu như đã chấp nhận điều kiện hình thành công đoàn độc lập do phía Mỹ nêu ra. Cụ thể, công đoàn độc lập sẽ được cho phép ra đời và hoạt động tại cấp cơ sở là các doanh nghiệp (chưa rõ doanh nghiệp thuộc thành phần nào – nhà nước, tư nhân hay đầu tư nước ngoài)."
Công nhân một công ty sản xuất phụ tùng xe hơi và xe gắn máy ở Vĩnh Yên, ngoại thành Hà Nội, 19/08/2015.REUTERS/Kham |
Trên một tờ
báo mạng Việt Nam cách đây hai ngày xuất hiện một bài báo đáng chú ý mang tựa
đề « Chúng ta chỉ còn hai lựa chọn, mở cửa hay là chết ». Ông Nguyễn Đức
Kiên, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội khi trả lời phỏng vấn đã hé lộ việc
Việt Nam đã vượt qua được các điều kiện về công đoàn và lao động, khi kết thúc
đàm phán song phương TPP với các nước, đặc biệt là Hoa Kỳ.
Như vậy có
thể hiểu là Hà Nội đã nhượng bộ về vấn đề công đoàn độc lập khi thương lượng
Hiệp định Đối tác Chiến lược xuyên Thái Bình Dương, tuy không tuyên bố chính
thức ? Sự kiện này có liên hệ gì với việc Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng được đón
tiếp trọng thể tại Mỹ trong chuyến công du hồi tháng Bảy hay không ?
RFI Việt ngữ
đã đặt câu hỏi này với nhà bình luận Phạm Chí Dũng ở Saigon.
RFI : Thân chào nhà bình luận Phạm
Chí Dũng. Thưa anh, ngày 10/09/2015, báo điện tử Vietnamnet đã đăng bài phỏng
vấn Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội Nguyễn Đức Kiên về vấn đề «
lao động khi tham gia các FTA » – một khía cạnh rất thường bị Việt Nam xem là
« nhạy cảm » hoặc thậm chí bị gán ghép « diễn biến hòa bình của các thế lực thù
địch ». Anh có ấn tượng gì về bài phỏng vấn này?
Nhà bình
luận Phạm Chí Dũng : Đây là bài phỏng vấn cần được dư luận đặc biệt lưu ý, vì nếu tôi nhớ
không lầm, đây là lần đầu tiên một quan chức có trách nhiệm của Việt Nam công
khai một số thông tin về tiến trình hình thành tổ chức công đoàn độc lập ở Việt
Nam, liên quan trực tiếp đến quá trình Việt Nam đàm phán đa phương và song
phương với các nước khác về Hiệp định TPP. Còn trước đây, mọi thông tin về công
đoàn độc lập hầu như không tồn tại trên mặt báo chí nhà nước.
Việt Nam đã
chấp nhận công đoàn độc lập?
RFI : Theo cách nhìn của anh, ông
Nguyễn Đức Kiên đã công khai vấn đề gì đáng lưu ý nhất?
Nội dung đặc
biệt nhất trong toàn bộ bài phỏng vấn là câu trả lời của ông Nguyễn Đức Kiên:
« Chúng ta cam kết thế, phải luật hóa các cam kết đó, và phải
thực hiện 24 tiếng sau khi phê chuẩn TPP » cho câu hỏi của phóng viên «
Theo thông tin của ông, Việt Nam có được hưởng ân hạn trong cam kết về
công đoàn và lao động hay không? ».
Khái niệm « công đoàn và lao động » mà phóng viên hỏi chính là yêu cầu bắt buộc về sự hình thành tổ chức công đoàn độc lập, là một trong những điều kiện then chốt của TPP nếu phía Việt Nam muốn tham gia hiệp định này. Câu trả lời của ông Nguyễn Đức Kiên đã gián tiếp xác nhận rằng Nhà nước Việt Nam đã chính thức chấp nhận và cam kết điều kiện cho thành lập tổ chức công đoàn độc lập (hay « công đoàn cơ sở » theo cách gọi né tránh của Việt Nam) sau khi hoàn tất đàm phán song phương với các nước, đặc biệt với phía Hoa Kỳ.
Khái niệm « công đoàn và lao động » mà phóng viên hỏi chính là yêu cầu bắt buộc về sự hình thành tổ chức công đoàn độc lập, là một trong những điều kiện then chốt của TPP nếu phía Việt Nam muốn tham gia hiệp định này. Câu trả lời của ông Nguyễn Đức Kiên đã gián tiếp xác nhận rằng Nhà nước Việt Nam đã chính thức chấp nhận và cam kết điều kiện cho thành lập tổ chức công đoàn độc lập (hay « công đoàn cơ sở » theo cách gọi né tránh của Việt Nam) sau khi hoàn tất đàm phán song phương với các nước, đặc biệt với phía Hoa Kỳ.
Nhưng điều
thú vị của bài phỏng vấn này là còn gợi ra cho độc giả một kỹ thuật đọc báo
theo cách « đọc câu hỏi », hoặc nói cách khác là « thông tin không
nằm trong câu trả lời mà trong chính câu hỏi ». Kỹ thuật đặt câu hỏi vừa
khéo léo vừa mang tính gợi mở của phóng viên đã cung cấp những thông tin đắt
giá cho độc giả, mặc dù người trả lời phỏng vấn mà vì lý do tế nhị nào đó đã
không thể trả lời trực diện toàn bộ các vấn đề.
Câu hỏi vừa
nêu của phóng viên đã gián tiếp xác nhận một vấn đề quan trọng không kém là
không có thời gian ân hạn, nói cách khác là độ trễ muộn, dành cho việc thực
hiện công đoàn độc lập khi vào TPP. Còn trước đây, chỉ có một số tin tức không
chính thức cho biết phía Việt Nam đề nghị thời gian ân hạn thực hiện công đoàn
độc lập là 5 năm, tương đương với thời gian ân hạn đề nghị để cải tổ doanh
nghiệp nhà nước để được quốc tế công nhận là « kinh tế thị trường đầy đủ ».
RFI : Từ cuối năm 2014 và sang quý I
năm 2015, khi diễn ra chuyến làm việc của Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang tại
Washington, có phải đã bắt đầu xuất hiện những thông tin không chính thức và
vài tín hiệu nào đó, về khả năng phía Việt Nam chấp nhận công đoàn độc lập?
Đúng như
vậy, có những tín hiệu đã xuất hiện từ cuối năm ngoái và đầu năm nay. Vào cuối
tháng 8/2014, tức chỉ ít ngày sau chuyến thăm Việt Nam của Chủ tịch Ủy ban Châu
Âu, Manuel Barroso, một sự kiện có vẻ khá « bất ngờ » là Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam tổ chức hội thảo « Việc làm, quan hệ lao động và
hoạt động công đoàn khi Việt Nam gia nhập Hiệp định đối tác chiến
lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt
Nam-châu Âu (EVFTA) » tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Ấn tượng lớn
nhất của cuộc hội thảo này là sự đề cập « Hai hiệp định này có nhiều nội
dung mang tính phi thương mại như quyền của người lao động, các tổ chức xã hội
dân sự, tiêu chuẩn lao động, tự do hiệp hội-công đoàn… đặt ra yêu cầu các nước
tham gia phải thực thi các nguyên tắc và quyền cơ bản tại nơi làm việc theo
tuyên bố năm 1998 của Tổ chức lao động quốc tế ».
Chúng ta
hoàn toàn có thể hiểu là vấn đề tự do hiệp hội và tự do công đoàn của hội thảo
này chính là « tự do lập hội » và « công đoàn độc lập ». Cũng tại
hội thảo này, chi tiết đáng chú ý là ông Vũ Quang Thọ, Viện trưởng Viện Công
đoàn (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam), cho biết vấn đề tự do hiệp hội – công
đoàn cũng là những hiệp định đòi hỏi các quốc gia khi tham gia phải có những
điều chỉnh lớn về chính sách, pháp luật lao động-công đoàn.
Còn vào đầu
năm 2015, Hoa Kỳ bất chợt sôi nổi hẳn và mời ông Trần Đại Quang đi Mỹ. Chuyến
đi này mang mục đích quan trọng nhất là chuẩn bị cho chuyến công du Washington
của ông Nguyễn Phú Trọng – Tổng bí thư (TBT) đảng Cộng sản Việt Nam. Vào thời
điểm đó, dư luận và cả giới quan sát có vẻ bất ngờ trước động thái nhiệt tình
của Mỹ cùng sự đáp ứng không mấy ngần ngại của Việt Nam.
RFI : Không những không ngần ngại mà
ông Nguyễn Phú Trọng còn tỏ ra khá thoải mái và tự tin khi gặp Tổng thống Obama
tại Phòng Bầu dục vào tháng 7/2015. Liệu thái độ ấy có liên quan gì đến bài nói
chuyện khá mạnh bạo của ông Obama tại Nhà máy Nike vào tháng 5/2015 về chủ đề
lao động và công đoàn độc lập cho Việt Nam?
Tôi cho là
cách nói có nét tuyên bố khẳng định của ông Obama về công đoàn độc lập cho Việt
Nam là có cơ sở, còn khi đặt chân lên đất Mỹ, ông Trọng cũng đã thừa hiểu Việt
Nam đã phải « trả giá » đến mức nào để được tiếp hết sức trân trọng tại
Phòng Bầu dục.
Chúng ta hãy
nhớ lại là vào ngày 08/05/2015, Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đã hiện diện tại
trụ sở công ty Nike (Portland, Oregon), với một bài phát biểu rất đặc biệt,
không phải dành cho nước Mỹ mà chính Việt Nam.
Đây là lần
đầu ông Obama dùng thể khẳng định trong đoạn phát biểu để nêu ra vấn đề Công
đoàn độc lập: « Lần đầu tiên, Việt Nam sẽ phải để cho người lao động tự do
thành lập công đoàn bảo vệ quyền lợi. Điều này cũng sẽ tạo ra sự thay đổi ».
Một khả năng
có thể là phát biểu của Tổng thống Mỹ được căn cứ trên cơ sở một văn bản nào đó
chưa công bố giữa Việt Nam và Mỹ với cam kết của Nhà nước Việt Nam sẽ chấp
thuận thực hiện công đoàn độc lập ở Việt Nam.
Tại thời
điểm đó, theo một nguồn tin đáng tin cậy mà tôi có được, phía Việt Nam hầu như
đã chấp nhận điều kiện hình thành công đoàn độc lập do phía Mỹ nêu ra. Cụ thể,
công đoàn độc lập sẽ được cho phép ra đời và hoạt động tại cấp cơ sở là các
doanh nghiệp (chưa rõ doanh nghiệp thuộc thành phần nào – nhà nước, tư nhân hay
đầu tư nước ngoài). Hai vấn đề mà nói theo ngôn ngữ ngoại giao « vẫn còn
những điểm khác biệt » mà phía Việt Nam chưa đồng ý là tính liên kết của
các tổ chức công đoàn độc lập giữa các doanh nghiệp với nhau, và tính quan hệ
quốc tế của công đoàn độc lập tại Việt Nam với các tổ chức lao động, nghiệp
đoàn quốc tế.
Ngay sau lời
phát biểu của Tổng thống Obama về chủ đề công đoàn độc lập ở Việt Nam, đã xuất
hiện một luồng dư luận cho rằng bắt đầu hé lộ khả năng TBT Trọng sẽ được tiếp
bởi tổng thống Mỹ.
Đến ngày
13/5/2015 thì sự việc đã khá rõ ràng. Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam – Ted Osius –
xuất hiện trên làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) trong cuộc trả lời phỏng
vấn xoay quanh kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ và tương lai Mỹ
– Việt. Song chi tiết được dư luận đặc biệt chú ý trong bài trả lời phỏng vấn
của Ted Osius là: « Chúng tôi sẽ đón tiếp TBT Nguyễn Phú Trọng với những
nghi thức cấp cao nhất ».
Đến khi đó,
phương trình đa ẩn số đã được giải mã cơ bản. Bất chấp nhiều đồn đoán và dự
đoán về việc ông Nguyễn Phú Trọng sẽ không được Tổng thống Mỹ tiếp, hoặc có
được tiếp thì chỉ theo nghi lễ rất thông thường do ông Trọng không phải nguyên
thủ quốc gia, « nghi thức cấp cao nhất » mà đại sứ Mỹ xác nhận đã đưa
vai trò của Tổng bí thư Việt Nam và đoàn tùy tùng « nâng lên một tầm cao mới
».
RFI : Theo anh, thỏa thuận ý nghĩa
nhất mà hai quốc gia Mỹ và Việt Nam đạt được trong chuyến công du của TBT Trọng
là gì?
Trước khi
ông Trọng đi Mỹ, những thông tin chính thức và không chính thức vẫn đề cập đến
những chủ đề chính trong nghị sự là TPP, hợp tác quốc phòng và nhân quyền.
Nhưng chẳng mấy người nhắc đến công đoàn độc lập. Khi đó, TPP vừa vượt qua được
cửa ải Lưỡng viện Mỹ về quyền đàm phán nhanh (TPA) và người ta xem TPP là lĩnh
vực có thể dễ được thỏa thuận nhất giữa Việt Nam và Mỹ, nhất là khi cuộc hội
đàm cấp bộ trưởng các nước về TPP trong tháng 7/2015 được coi là « cuối cùng
».
Nhưng té ra
cuộc hội đàm ấy kết thúc có phần bế tắc, dù theo Đại diện thương mại Mỹ Michael
Froman thì đã giải quyết được đến 98% các bất đồng trong đàm phán. Trong khi
đó, vấn đề hợp tác quốc phòng Mỹ và Việt Nam vẫn chỉ tạm dừng lại ở cơ chế «
giao lưu hải quân » – theo những tin tức được công khai. Còn nhân quyền mới
đáng thất vọng, nhất là khi trong dịp lễ Quốc khánh 2/9, chính quyền Việt Nam
đã không đặc xá cho bất kỳ tù nhân chính trị nào, cho dù con số được đặc xá năm
2015 là chưa từng có – hơn 18.000 phạm nhân.
Rốt cuộc,
chỉ còn lại vấn đề có thể ít được hy vọng nhất là công đoàn độc lập, thì lại
trở thành một trong những kết quả lớn nhất cho chuyến công du Mỹ của TBT Trọng.
Theo tôi, chính kết quả này, đạt được từ trước khi ông Trọng đặt chân lên
Washington, đã giải thích vì sao ông Trọng được phía Mỹ đón tiếp trân trọng đến
vậy.
Quyền tự do
lập hội cho mọi người dân Việt Nam
RFI : Công đoàn độc lập được chấp
nhận hình thành sẽ mở ra cho dân chủ Việt Nam triển vọng ra sao?
Còn hơn cả
lĩnh vực tù nhân lương tâm, công đoàn độc lập mang tính bao trùm về quyền lập
hội của công nhân và do đó là công dân. Tất cả những gì đã được hứa hẹn, và cả
hiến định từ tận Hiến pháp 1992, về quyền tự do lập hội của công dân nhưng cho
tới nay vẫn chưa được thực thi, sẽ có cơ hội hiện thực hóa dần. Vào đầu năm
nay, « bỗng dưng » Quốc hội Việt Nam đưa ra dự thảo Luật về hội là vấn
đề vẫn còn bị coi là rất nhạy cảm chính trị, cho dù cho tới nay xã hội dân sự ở
Việt Nam đã hình thành và đã tồn tại gần ba chục tổ chức hội đoàn độc lập.
Khi trả lời
câu hỏi « những cam kết về lao động và công đoàn trong TPP cũng chỉ
là lặp lại những cam kết của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) mà
Việt Nam là thành viên » của báo Vietnamnet, ông Nguyễn Đức Kiên cũng đã
trở thành quan chức đầu tiên của VN tiết lộ một sự thật ít người biết:
« Việt Nam
trở thành thành viên của ILO năm 1998 sau khi đạt được thỏa thuận lùi
thời gian thực hiện lại, tức có lộ trình. Có 13 công ước của ILO,
trong đó, chúng ta đã và đang thực hiện 8, và 5 chưa thực hiện.
Có hai công
ước quan trọng nhất. Thứ nhất là Công ước 87 về quyền tự do lập hội
của người lao động ở cơ sở, hay nói nôm na là quyền lập công đoàn cơ
sở. Một nhà máy có thể có nhiều công đoàn, như công đoàn công chức,
công đoàn công nghiệp, công đoàn hóa chất, hay thậm chí là hội thợ
may quê Nghệ An… Người lao động được tự do gia nhập các tổ chức ấy,
hoặc là họ tự lập ra một tổ chức và chính quyền phải chấp nhận.
Họ có quy chế, có đăng ký, và các tổ chức ấy được đối xử bình đẳng.
Thứ hai là
Công ước 107, khi công đoàn tập hợp được trên 50% người lao động thì
họ có quyền liên kết lại để ký với chủ thỏa ước lao động; và nếu
cần, họ có thể đình công, hay kêu gọi đình công hợp pháp. Công đoàn
này có thể hỗ trợ công đoàn khác. Họ liên kết ngang, liên kết dọc ».
Chúng ta có
thể hiểu những quy tắc mà ông Kiên dẫn lại cũng sẽ là những nội dung mà các tổ
chức công đoàn độc lập của công nhân Việt Nam có thể thực hành trong những năm
tới. Ông Kiên còn chi tiết hóa thêm thế này: « Cố vấn pháp luật của
một đoàn đàm phán ngồi riêng nói với chúng tôi, tại sao các ngài cứ
lo về cái điều mà chúng tôi có bắt các ngài làm ngay sáng hôm sau
đâu. Cam kết ở đây là để các ngài xây dựng luật, phù hợp với các
hệ thống luật khác của các ngài.
Các ngài
có thể đồng ý cho công nhân thành lập công đoàn, nhưng các ngài quy
định, người đứng ra thành lập công đoàn cơ sở đó phải 25 tuổi trở
lên; phải làm việc trong doanh nghiệp đó ít nhất 3 năm; không có tiền
án, tiền sự; có gia sản ít nhất bằng này, vì có gia sản mới lấy
tiền đó đi hoạt động được, mà không phải lấy đóng góp từ người lao
động. Xong 4 điều kỹ thuật đó, lại quy định tiếp là người đó phải
lấy được ít nhất 10% ý kiến của người lao động ở doanh nghiệp, họ
ký vào đây đồng ý, thì Nhà nước mới cho ông lập ».
Nói tóm lại,
sự chấp nhận của chính quyền Việt Nam về công đoàn độc lập chính là thắng lợi
lớn lao của cuộc vận động không mệt mỏi trong những năm qua, của các tổ chức
nhân quyền trong nước và đặc biệt là của người Việt hải ngoại, cũng là một
thành công nho nhỏ trên bàn đàm phán của Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu với Nhà nước
Việt Nam.
Câu cuối trả
lời phỏng vấn của ông Nguyễn Đức Kiên là lời trần thuật rất tâm trạng : «
Nói thực ra là nhiều người Việt Nam cũng nghĩ đến điều này… ». Ông
ấy giải thích thêm : « Nếu Đảng và các tổ chức chính trị xã hội đi cùng
không tự vươn lên, không trở thành thỏi nam châm để thu hút người lao động,
thì người lao động họ sẽ tách ra và đi theo guồng máy của lực hút khác.
Những thách thức đó còn khốc liệt hơn nhiều, thách thức toàn diện, không chỉ
trên lĩnh vực kinh tế mà sang cả chính trị… ».
Tôi cho rằng
ông Kiên đã nói ra một sự thật trần trụi. Đã khá muộn nhưng vẫn còn hơn không.
Đảng cầm quyền ở Việt Nam phải thay đổi cách nghĩ, đừng cho rằng cứ có công
đoàn độc lập là sẽ tái hiện Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan để lật đổ chế độ. Mà
công đoàn độc lập thật ra chỉ là một thứ quyền đương nhiên và mưu sinh của
người dân.
RFI : Nhưng muốn thực thi công đoàn
độc lập cho công nhân thì lại phải chờ kết quả đàm phán TPP?
Tất nhiên là
như vậy. Nhưng tôi cho rằng đàm phán TPP chỉ còn là vấn đề thời gian. Có thể sẽ
diễn ra một cuộc đàm phán « cuối cùng » theo đúng nghĩa của cấp bộ
trưởng các nước vào tháng Chín này, hoặc cũng có thể muộn hơn một chút, nhưng
khó mà kéo dài sang năm 2016. Tiến độ có thể nhìn thấy là nếu đàm phán TPP kết
thúc trong năm 2015 thì Quốc hội Mỹ sẽ xem xét bản thảo đàm phán trong nửa đầu
năm 2016, và căn cứ vào kết quả đạt được hay vi phạm về nhân quyền của chính
quyền Việt Nam mà Quốc hội Mỹ sẽ “yes” hay “no” đối với TPP Việt
Nam.
Bao nhiêu
phần trăm cho « kịch bản Miến Điện »?
RFI : Trước đây anh vẫn hàm ý có khả
năng xu hướng dân chủ hóa ở Việt Nam có thể phần nào đó biến diễn theo cách của
Miến Điện. Những gì mà Việt Nam đang cải cách có thực chất không?
Cải cách
khung luật pháp là điều kiện lớn của TPP và của Mỹ lẫn Tây Âu. Từ cuối năm
2014, Quốc hội Việt Nam bắt đầu hé lộ ý định « sẽ ban hành các luật Trưng
cầu ý dân, Luật về hội ».
Sang năm
2015, Việt Nam bắt đầu « điều chỉnh » các luật Hình sự (sửa đổi), Luật
Tín ngưỡng và Tôn giáo, và các dự Luật về hội, Luật tiếp cận thông tin. Hiện
tượng này gần như tương tự với Miến Điện vào những năm 2012 – 2013, khi Tổng
thống Thein Sein ban hành các luật về tự do lập hội, tự do báo chí và luật biểu
tình. Đồng thời tiến hành thả đại trà đến hơn 300 tù nhân chính trị, thậm chí
thả cả người bị kết án đến hơn 100 năm tù.
Chính vì
những cử chỉ thành tâm này mà vào cuối năm 2012, Tổng thống Mỹ Obama đã lần đầu
tiên công du Miến Điện, kéo theo làn sóng xóa nợ lên đến 6 tỉ USD cho Miến Điện
từ các quốc gia Đức, Nhật Bản, Na Uy, Câu lạc bộ Paris…
Nhưng còn ở
Việt Nam thì khác hẳn. Cho tới nay khung luật pháp vẫn chỉ được điều chỉnh mang
tính đối phó, các dự luật Tín ngưỡng, Tôn giáo và lập hội tràn ngập từ ngữ «
xin – cho », còn dự luật Hình sự sửa đổi thì thật ra chẳng sửa đổi gì hết.
Vì những điều khoản bị cộng đồng quốc tế lên án là mơ hồ và dễ bị lạm dụng như
điều 79 (lật đổ chính quyền), điều 88 (tuyên truyền chống chế độ), điều 258
(lợi dụng quyền tự do dân chủ) vẫn được giữ nguyên mà chỉ thay đổi vị trí và
cách đánh số trong dự luật mà thôi.
RFI : Câu hỏi cuối cùng: nếu có thể
lượng hóa, anh thấy Việt Nam đang và sẽ thay đổi ứng với kịch bản Miến Điện ra
sao?
Cần nói chân
thành rằng kịch bản Miến Điện không mang mục tiêu lật đổ hoặc thay thế hoàn
toàn chính thể cầm quyền, mà diễn ra một cách êm thấm theo xu hướng dân chủ hóa
từng giai đoạn và tránh đổ máu – là kịch bản mà giới quan chức chính quyền
Thein Sein có lẽ cũng không mong gì hơn.
Và tôi cũng
cho rằng trong thế bế tắc chính trị, kinh tế và xã hội ở Việt Nam, hiện nay tỉ
lệ quan chức trung – cao tuy không dám nói ra nhưng mong đợi Việt Nam sẽ thay
đổi theo cách của Miến Điện không phải là nhỏ. Đơn giản đó là cách để kìm giữ
quyền lực và tài sản một cách hữu hiệu nhất, còn không thì rất có thể sẽ mất
trắng nếu dân chúng nổi loạn. Một cách nào đó, tỉ lệ này phản ánh cho tỉ lệ đến
85% người Việt Nam ủng hộ quan hệ của Việt Nam với Hoa Kỳ và chỉ hơn 10% thích
Trung Quốc – như một bản khảo sát dư luận vào giữa năm 2015 của Trung tâm
nghiên cứu Pew – Hoa Kỳ.
Hồi trước
còn có quan điểm cho rằng « theo Mỹ mất đảng còn nước », nhưng bây giờ
khi phía Mỹ đã tuyên bố tôn trọng triết lý chính trị của chính thể Việt Nam, có
lẽ phải điều chỉnh lại đôi chút: theo Mỹ còn nước và còn cả đảng, nếu đảng đó
biết đặt Tổ quốc lên trên hết.
Sau chuyến
công du Hoa Kỳ của TBT Trọng được giới tuyên giáo đảng cho là « thành công
lịch sử và vượt hơn cả mong đợi », tôi cho rằng việc chính thể Hà Nội chấp
nhận định chế công đoàn độc lập mà không còn quá lo lắng về tiền lệ Công đoàn
Đoàn kết ở Ba Lan những năm 80 của thế kỷ trước, cho thấy đã có một sự chuyển
đổi không quá nhỏ về tư duy não trạng.
Nếu sau
chuyến công du Mỹ vào năm 2013 của ông Trương Tấn Sang – Chủ tịch nước, tôi còn
thận trọng đánh giá tỉ lệ tương ứng với kịch bản Miến Điện mới đạt chỉ khoảng
3-4%, thì sau chuyến đi Mỹ của TBT Trọng, có vẻ như tỉ lệ này đã lên đến 10%.
Còn sau khi thông tin về công đoàn độc lập được Nhà nước Việt Nam chấp nhận, dù
thông tin này chỉ mang tính gián tiếp qua một quan chức Quốc hội, tôi cho rằng
tỉ lệ tương ứng kịch bản Miến Điện cho trường hợp Việt Nam đang đạt đến 15%.
Chúng ta có
thể hy vọng và đã có một ít cơ sở để hy vọng vào triển vọng này. Thậm chí nếu
sau đại hội 12 của đảng cầm quyền vào đầu năm 2016 mà xuất hiện một gương mặt
Tổng bí thư cởi mở hơn, xác suất tái hiện kịch bản Miến Điện còn cao hơn.
RFI : Nếu Thụy My nhớ không lầm, thì
năm ngoái khi trả lời RFI anh cũng đã có đặt vấn đề là người Mỹ dường như đang bắt tay giới bảo thủ Hà Nội.
Bây giờ có vẻ như nhận định đó càng được củng cố thêm phải không thưa anh. Xin
cảm ơn nhà bình luận Phạm Chí Dũng ở Saigon đã vui lòng nhận trả lời phỏng vấn
của RFI Việt ngữ.
*********
Nguồn: Theo RFI