|
Trước đây,
các hoạt động tại vùng này luôn do Hạm đội 7 đóng tại Nhật Bản đảm trách.
Nhưng nay, với
sự xuất hiện trở lại của tàu thuộc Hạm đội 3 tại Đông Nam Á lần đầu từ Thế
Chiến 2, Washington muốn chứng tỏ sức mạnh hải quân của mình tại khu vực châu
Á, theo Reuters.
Thông điệp
của Hoa Kỳ là họ có thể cùng lúc điều động hai hạm đội trên hai mặt trận, từ
Bán đảo Triều Tiên tới Philippines.
BBC Tiếng
Việt giới thiệu đội nét về hai trong số sáu hạm đội được đánh số của Hải
quân Hoa Kỳ theo tư liệu từ các trang quốc phòng Hoa Kỳ.
Đệ
tam Hạm đội
Thành lập
ngày 15/03/1945, Hạm đội 3 ban đầu do Đô đốc William F. "Bull"
Halsey chỉ huy và ông chọn đóng bộ tư lệnh tại Trân Châu Cảng, Hawaii từ
tháng 6/1944.
Hạm đội 3 từng
tham chiến ở Philippines, Đài Loan, Okinawa và tấn công vào Tokyo cùng căn cứ
Kure và đảo Hokkaido thời Thế Chiến 2.
Chiến hạm
USS Missouri (BB 63) của Đệ tam Hạm đội đưa Đô đốc Halsey đến Vịnh Tokyo
nhận sự đầu hàng của Đế chế Nhật Bản ngày 2/9/1945.
Nhưng sau Thế
Chiến, cả hạm đội được điều động về bảo vệ vùng biển phía Tây Hoa Kỳ và giải
thể.
Ngày
1/02/1973, Hạm đội 3 được khôi phục và nhận trách nhiệm từng thuộc Hạm đội
1 ở vùng Thái Bình Dương.
Từ 1991, tư
lệnh Hạm đội 3 cùng tàu chỉ huy USS Coronado, trở về San Diego, California.
Hiện Hạm
đội 3 phụ trách khu vực rộng khoảng 50 triệu dặm vuông ở vùng Đông Bắc Thái
Bình Dương, gồm Biển Bering, Alaska, quần đảo Aleutian và một phần Bắc Cực.
Theo trang web chính
thức của Hạm đội 3, lực lượng này có khả năng sẵn sàng chiến đấu,
điều khiển các tàu biển, tàu ngầm, và phi cơ.
Căn cứ chính
đặt tại California, Washington, và Hawaii.
Hạm đội 3
có hơn 30 tàu ngầm, mười tàu hỗ trợ chuyên yểm trợ cho các đơn vị tấn công.
Đệ
thất Hạm đội
Ra đời
15/03/1943 từ Lực lượng Tây Nam Thái Bình Dương và hiện nay là tổ hợp tiền
phương lớn nhất của Hải quân Hoa Kỳ, đảm trách vùng Tây Thái Bình Dương và cả Ấn
Độ Dương.
Hạm đội 7
tham chiến ở Philippines hồi Thế Chiến 2 dưới quyền của Tổng thư lệnh Thái
Bình Dương, Tướng Douglas MacArthur, tham gia cuộc chiến Triều Tiên từ 1950 và
Chiến tranh Việt Nam.
Các tàu và
phi cơ của Hạm đội 7 chống lại quân thù trong Chiến tranh Việt Nam qua các đợt
oanh kích, phi pháo từ biển hỗ trợ lục quân, đổ bộ, tuần tra và trinh sát cùng
phá mìn, trang web của Hạm đội này cho biết.
Sau Đình chiến
1973, Hạm đội 7 tuần tra phá mìn từ các vùng ngoài khơi Bắc Việt.
Năm 1990, Tổng
thống George Bush điều động tư lệnh của Hạm đội 7 sang tham gia bộ tổng tư
lệnh cho hải quân phục vụ cuộc chiến Vùng Vịnh.
Tàu USS Blue
Ridge của Hạm đội 7 đã tham gia chiến dịch Bão Sa Mạc (Desert Storm).
Năm 1996, Hạm
đội 7 có lệnh chuẩn bị cho cuộc biểu dương lực lượng ở eo biển Đài Loan.
Năm 1998, Hạm
đội 7 đưa quân ứng cứu và sơ tán công dân Mỹ khỏi Indonesia.
Từ 2001, vai
trò của Đệ thất Hạm đội có thêm phần hỗ trợ chống khủng bố và bảo vệ an ninh
trong vùng Ấn Độ - Đông Nam Á.
Các tàu và
phi cơ của Hạm đội được điều động cứu trợ nạn nhân tsunami 2004 ở Đông Nam Á,
động đất và sóng thần 2011 ở Nhật Bản.
Chiến dịch tại
Nhật mang tên 'Operation Tomodachi' từ tiếng Nhật nghĩa là 'người bạn', đã
chuyển đến các cảng Hachinohe, Miyako và Oshima/Kesennuma hàng trăm tấn hàng
hóa cứu trợ.
Tàu và máy
bay của Hạm đội 7 cũng tuần tra tìm kiếm 2000 km vuông mặt biển để tìm người
mất tích.
Mỗi năm, các
tàu của Hạm đội 7 thăm 25 quốc gia và vào chừng 500 cảng biển trong vai trò
ngoại giao quốc phòng của Hoa Kỳ.
Hiện Hạm đội 7 theo dõi trên vùng biển rộng
hơn 124 triệu cây số vuông, trải dài từ Đường Đổi ngày Quốc tế (International
Date Line) tới biên giới Ấn Độ/Pakistan, và từ Quần đảo Kuril ở phía Bắc cho tới
Nam Cực ở phía Nam.
Vùng hoạt
động của Hạm đội 7 liên quan tới 36 quốc gia, với 50% dân số thế giới, trong
đó có năm quốc gia hùng mạnh nhất về quân sự là Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Bắc
Hàn và Nam Hàn.
Hạm đội 7
đặt trụ sở chính tại Yokosuka, Nhật Bản, với một số đơn vị đóng tại Nhật và
Nam Hàn, với lực lượng gồm khoảng 60-70 tàu, 300 máy bay và 400 ngàn thủy thủ
cùng lính thủy quân lục chiến
Nguồn : Theo BBC