Ngày
6.6.2018, báo Pháp Luật đăng bài “Tranh luận đặc khu, có người cố tình đẩy yếu
tố Trung Quốc!” thuật lại cuộc trả lời phỏng vấn của Bộ trưởng KH&ĐT Nguyễn
Chí Dũng với báo chí bên hành lang Quốc hội. Bài viết này xin nêu các suy nghĩ
của tác giả, trao đổi lại cùng ông Bộ trưởng.
Những dòng
in đậm dưới đây được trích từ bài báo đó.
“Về việc dư
luận phản ứng với việc thành lập đặc khu, trong đó có yếu tố ảnh hưởng của Trung
Quốc đối với đặc khu Vân Đồn, Bộ trưởng Dũng nói: Trong dự thảo Luật không có
một chữ nào về Trung Quốc hết. ‘Họ cố tình hiểu theo hướng đó và đẩy vấn đề
lên, chia rẽ quan hệ ta với Trung Quốc’”.
Bộ trưởng
Dũng nói đúng: “Trong dự thảo Luật không có một chữ nào về Trung Quốc hết”.
Nhưng thưa Bộ trưởng, ông sẽ giải thích sao về một đoạn trong Điều 55 của dự
thảo: “công dân nước láng giềng có chung đường biên giới với Việt Nam tại tỉnh
Quảng Ninh...”? Nước láng giềng đó là nước nào? Mà công dân họ có quyền sang
Việt Nam với những điều kiện thị thực dễ dãi hơn so với công dân các nước khác?
Và, Bộ
trưởng Dũng đã không đúng vì những người phản biện không “cố tình hiểu theo
hướng đó và đẩy vấn đề lên, chia rẽ quan hệ ta với Trung Quốc” như ông nói.
Người phản biện chỉ nhìn những gì đã xảy ra trong vòng năm chục năm nay giữa
Trung Quốc với Việt Nam, kết hợp với nhìn những gì đang xảy ra, mà dự trù những
gì sẽ xảy tới. Quá khứ là bài học cho tương lai vì chứa trong nó những thông
tin để dự đoán tương lai, do đó người phản biện LO SỢ cho chủ quyền Tổ quốc.
Không ai có thể “chia rẽ quan hệ giữa ta với Trung Quốc” bằng các trận chiến
Trung Quốc đánh sâu vào lãnh thổ ta và giết trên trăm ngàn người trong cuộc
chiến biên giới 1979, các trận hải chiến Hoàng Sa 1974, Gạc-Ma 1988, bằng các
lệnh cấm đánh cá mà Trung Quốc áp đặt trên ngư trường truyền thống của Việt
Nam, bằng xác ngư dân Việt bị họ giết phải chở về đất liền trong khoang đá
lạnh...
“Không một
ai có thể vào đây tự ý làm việc gì khi đất nước ta đang có chủ quyền...”.
Thưa Bộ
trưởng, Việt Nam có chủ quyền không trên những hòn đảo Trung Quốc vừa đánh
chiếm còn tươi màu máu chiến sĩ Việt Nam? Vợ con những chiến sĩ đó còn sống,
thậm chí cha mẹ họ vẫn còn. Việt Nam có chủ quyền không khi Trung Quốc quân sự
hóa những hòn đảo họ mới chiếm của ta vài chục năm trước? Việt Nam có chủ quyền
không khi Trung Quốc đưa phương tiện họ vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam?
“Mọi
người đang hình dung tiêu cực. Mọi người đang đẩy thành vấn đề sợ Trung Quốc”.
Thưa Bộ
trưởng, dân chúng đang rất lo ngại Trung Quốc. Từ mấy chục năm nay, Việt Nam
ngày càng yếu thế hơn so với Trung Quốc, cán cân tương quan lực lượng ngày càng
nghiêng về Trung Quốc. Xem các bài viết phân tich tình hình châu Á, Biển Đông
của các tờ báo về Kinh tế, Quốc phòng của thế giới của châu Á, càng xem càng
đau lòng và lo sợ.
Tôi tin
những người này thực lòng yêu đất nước của cha ông để lại. Yêu nên lo sợ nó bị
xâm phạm hay chiếm mất.
Thực lòng,
Bộ trưởng không sợ sao?
"Cái gì
cũng sợ thì không làm được” - Bộ trưởng Dũng nói và dẫn phát ngôn của Đặng Tiểu
Bình khi thành lập đặc khu Thâm Quyến tại Trung Quốc năm 1989 là “Thôi, hãy làm
đi, không bàn nữa”.
Chữ sợ của
ông Đặng Tiểu Bình là sợ thành công hay thất bại về mặt đầu tư kinh tế. Thất
bại thì chỉ mất tiền bạc, thời gian, công sức.
Chữ sợ của
dân Việt trong dự án thành lập đặc khu lớn hơn nhiều. Họ sợ người Trung Quốc sẽ
tràn vào các đặc khu có vị trí rất nhạy cảm về quốc phòng, cái sợ này xuất phát
từ thực tế rằng chưa thành lập đặc khu, người Trung Quốc cũng đã ào ạt sang
Việt Nam tại các vị trí dọc bờ biển trong đó nhiều vị trí hiểm yếu. Nay có đặc
khu thì e không khác gì vỡ đê, người Trung Quốc ào sang trong khi, ở Việt Nam,
đơn cử như chính quyền Khánh Hòa lúng túng xử không xong vụ cái áo hình lưỡi
bò!
Dân Việt sợ
các đảo đã bị Trung Quốc quân sự hóa đang uy hiếp nước ta từ bờ Biển Đông, sợ
kết hợp giữa Biển Đông với các đặc khu một khi Trung Quốc đã khống chế các đặc
khu... Nhiều nỗi sợ lớn lắm. Nếu Việt Nam thất bại thì mất lãnh thổ, mất chủ
quyền, có thể mất cả văn hóa, dân tộc. Cái giá dân tộc phải trả nếu dự án thất
bại là quá lớn, nên cái SỢ của dân Việt lớn hơn cái sợ của ông Đặng Tiểu Bình
năm xưa gấp vạn lần, không thể so sánh được!
“Trong thiết
kế luật không hề có chủ đích đánh đổi quốc phòng an ninh lấy kinh tế. Nguyên
tắc số một khi thiết kế luật này là phải đảm bảo quốc phòng an ninh”.
Đồng ý với
tuyên bố này của ông Nguyễn Chí Dũng. Mục tiêu Phát triển kinh tế và mục tiêu
Bảo vệ chủ quyền liên quan chặt chẽ với nhau. Dân giàu hơn thì nước mạnh hơn và
chủ quyền vững chắc hơn, và ngược lại. Vị trí rất nhạy cảm và then chốt trong
việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của ba đặc khu cho thấy dự luật không thể xem
nhẹ khía cạnh bảo vệ chủ quyền. Tôi đồng ý rằng đây chỉ là dự án kinh tế, không
phải dự án quốc phòng. Nhưng nếu xem Bảo vệ chủ quyền là một giá trị cốt lõi
của dân tộc thì dự án kinh tế nào cũng phải xem xét có chịu nguy cơ chủ quyền
bị đe dọa hay xâm phạm hay không. Nếu có nguy cơ, chúng ta phải tìm cách loại
bỏ nguy cơ hoặc đưa dự án vào vùng hoàn toàn an toàn trước khi tiến hành dự án.
Nếu vẫn còn nguy cơ này thì nên bỏ dự án. Đây chính là mối lo và cũng là đòi
hỏi của dân chúng, của các phản biện tràn ngập trên các trang mạng, trên các
bàn cà phê tôi biết trong thành phố.
Tôi nghĩ
chính quyền cần đối thoại với dân chúng, cần thuyết phục dân hoặc làm theo ý
dân nếu không thuyết phục được. Về lý thuyết, chính quyền là Của Dân và Vì Dân.
An dân là điều kiện quan trọng nhất để phát triển, và cũng là nhiệm vụ người
dân đặt ra cho chính quyền!
Lê Học Lãnh
Vân