Lê Hữu Khóa(*)
Thư gởi các đảng viên của ĐCSVN
Chào
các bạn,
Tôi đã biết, đã quen những
đảng viên của ĐCSVN và tôi đã đối thoại, đã tâm sự với họ về hiện trạng của dân
tộc và tương lai của đất nước từ hơn 40 năm nay, và trong số đó, tôi nhận ra được
là những người yêu nước muốn mang lại những điều hay, đẹp, tốt, lành tới đồng bào, cho Việt tộc. Nhưng trong cuộc đối
thoại này, tôi xin phép được nêu ra một khoảng cách, tức là sự cách biệt giữa
những đảng viên yêu nước, thương dân này với các lãnh đạo hiện nay của ĐCSVN,
đã mang nhục hiệu: hèn với giặc, ác với
dân. Vì chính trong nội bộ lãnh đạo, có những kẻ đã phản bội lý tưởng yêu nước, thương dân, chúng tham quyền để
tham nhũng, trong bọn này có kẻ mang
dã tâm bán nước, nhấn đạp tiền đồ tổ tiên của Việt tộc xuống thấp để đưa tư lợi
lên ngập mặt, ngập mắt của chúng, dùng tà quyền để vùi lấp nhân quyền, dùng bạo
quyền đàn áp dân chủ.
Đối thoại này vì công ích xã hội, vì tương lai đất nước,
vì nhân phẩm của Việt tộc, thì không có chỗ cho những kẻ vào đảng để thăng quan
tiến chức, để mua chức bán quyền, để vinh thân phì da qua đặc quyền, đặc lợi…để
lợi dụng một đảng chỉ với bốn triệu đảng viên mà lại tự định vị cho mình kiểu «ghế trên ngồi tót sỗ sàng», lãnh đạo
không để mưu tìm hạnh phúc cho nhân dân, mà cai trị họ, bòn rút họ, trấn áp họ,
và tráo trở với họ trong mọi quan hệ xã hội, mọi sinh hoạt xã hội, qua tuyên
truyền ngu dân, qua bạo quyền của công an trị. Là tư vấn cho các định chế, các
cơ chế của các chính quyền Âu châu tự nhiều năm qua, tôi được tiếp cận từ lãnh
đạo tới đảng viên các đảng phái trong sinh hoạt chính trị đa đảng, trong quan hệ đa
nguyên, có nhân quyền của cộng hòa, có tự do của dân chủ, tôi nhận
ra độc đảng sinh ra độc tài của ĐCSVN là một hoạn bịnh thể chế, sinh ra ung thư
trong sinh hoạt xã hội, cả trong đời sống tâm linh của Việt tộc. Đối thoại, vì vậy
phải dựa trên dữ kiện, để nắm được chứng từ, có lý luận của sự thật để có lập
luận về chân lý, để có giải luận về lẽ phải. Đối thoại chân chính không được rời
quá trình sự thật-chân lý-lẽ phải:
· Lý
tưởng chính trị phải là câu chuyện đầu tiên trong cuộc đối
thoại này, trong đấu tranh cho độc lập dân tộc nó là đấu soi đường cho đảng,
trong tình hình hiện nay thì nó hoàn toàn vắng mặt từ hành vi tới tư cách của
các kẻ lãnh đạo ĐCSVN. Không những không có lý tưởng chính trị, họ còn làm ngược
lại với các nội dụng qua hành tác của vị kỷ vì tự lợi, bám quyền để vơ vét qua
tham nhũng, ôm quyền để ngấu nghiến qua tham ô, không có lý tưởng chính trị thì
đừng làm chính trị! Vì nếu làm thì sẽ thành loại người mà dân ta đặt cho một điếm
vị: «cướp ngày là quan», chúng là
loại ký sinh trùng do độc đảng sinh ra: «sâu
dân mọt nước». Lý tưởng chính trị làm nên niềm tin chính trị, nếu quốc thái dân an theo hướng đi lên của dân
tộc, phải giới hạn mọi hậu nạn, tăng trưởng mọi sản xuất, làm giầu thực sự cho
mọi tầng lớp có mặt trong xã hội, tự đây lý
tưởng chính trị đã làm nên sức mạnh
chính trị. Quá trình lý tưởng-niềm
tin-sức mạnh, không chỉ là quyết tâm
chính trị, mà nó chính là thông minh chính trị, quá trình này chính là xung lực để nâng lên trình độ
chính trị của dân chúng, cường độ nhận thức chính trị của nhân dân. ĐCSVN hiện
nay không còn có cái vốn lý tưởng-niềm
tin-sức mạnh này, vì các lãnh đạo của nó đã phản bội nội dung của lý tưởng,
nội hàm của niềm tin, nội lực của sức mạnh dân tộc. Lý tưởng chính trị có thực chất trong năng lực của lãnh đạo chính
trị mang luôn tiềm lực thay đổi nhân sinh
quan của một dân tộc, lấy nhân tính
để giáo dục nhân tình; làm biến đổi thế giới quan của một giống nòi, lấy
nhân tri để hiểu nhân loại; làm chuyển đổi vũ
trụ quan của quần chúng, đưa nhân đạo
vào nhân thế. Một đảng cầm quyền chân
chính phải làm cho phương trình nhân sinh
quan-thế giới quan-vũ trụ quan này được thăng hoa, vì đó chính là kết quả của
tiến bộ, của văn minh, cũng là sự thành công cụ thể của lãnh đạo chính trị. Các
lãnh tụ của ĐCSVN từ khi thành lập 1930, nhất là sau 1975 ngày thống nhất đất
nước cho tới nay, không hề có bản lĩnh chính trị, có nội công tri thức, có tầm
vóc nhân lý để làm chuyện này. Lý tưởng
chính trị biến cái tầm thường lập đi lập lại không có tiến bộ, đổi cái bình
thường vô thưởng, vô phạt, thay cái tầm phào của sống lây lất, đưa tất cả vào
quy trình hiện đại hóa có văn minh, cùng lúc giữ được các truyền thống tốt
lành, các di sản hay đẹp, đây chính là quá trình khai thị-khai minh-khai trí có trong bổn phận và trách nhiệm của
lãnh đạo chính trị, nếu lãnh đạo liêm
chính-liêm minh-liêm khiết. Hiện nay, từ Bộ chính trị tới tổng bí thư, từ
Trung ương đảng tới chính phủ không có một ai có bản lĩnh đạo lý, có nội công
luân lý, có tầm vóc đạo đức để chứng tỏ quá trình này. Đây đúng là lúc phải trả
thẻ đảng, vì đảng bất tài.
· Chỉnh lý lãnh đạo, là câu chuyện thứ hai, ở đây có chỉnh lý
lãnh đạo được xây dựng cạnh kề với thực trạng của dân tộc, có đủ cơm ăn áo mặc, không phải như hiện nay
công nhân Việt phải đi làm lao nô
ngay trên đất nước mình cho các doanh nghiệp ngoại quốc, chịu cảnh nô tỳ cho các nước láng giềng, bị đe dọa
bởi thảm cảnh nô lệ qua thực tế của một
đất nước đang bị Tàu tặc đe dọa với Tàu nạn về môi trường và thực phẩm, Tàu họa về lãnh thổ, biển đảo, và Tàu hoại về kinh tế, thương mại, nông
nghiệp… (tôi quý trọng văn hóa và nhân dân Trung Quốc, nhưng tôi xin phép được
gọi bọn lãnh đạo bành trướng và bá quyền của Bắc Kinh qua phương trình khống chế
của chúng là Tàu tặc-Tàu nạn-Tàu họa-Tàu hoại). Chỉnh
lý lãnh đạo đòi hỏi các lãnh đạo ĐCSVN phải làm được tức khắc qua quyết tâm
chính trị biết dựa vào lý tưởng chính trị,
mà không cần gọi tên qua xảo ngữ để lừa dân là lý tưởng cách mạng! Chỉnh lý
lãnh đạo còn là đưa nhân tri sáng, nhân
trí cao vào nhân tình nghèo, vào nhân thế thấp, làm cho bằng được cuộc cách
mạng nhân phẩm: quyết chí làm chủ và từ
chối làm tớ, để thành công như các nước láng giềng cùng nôi văn minh trong
tam giáo đồng nguyên với ta: Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc. Lấy sáng
kiến trong giáo dục làm ra sáng tạo trong khoa học kỹ thuật; chọn kiếp cao, bỏ
kiếp thấp, cụ thể lấy tự chủ để có tự lập lập ra tự cường, tức là chọn tự trọng
trước tổ tiên và con cháu, quyết không chọn điếm nhục với láng giềng, với thế
giới! Tại sao lại biến Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc thành đặc khu với bao hệ
lụy của trác tán, đồi trụy qua buôn lậu, rửa tiền… khi Tàu tặc tới ăn ở, sinh
sôi, chúng sẽ làm điếm nhục hóa đất Việt. Mà không biến các đặc khu này thành
các trung tâm khoa học kỷ thuật sắc nhọn, nơi mà các nguyên khí quốc gia từ
chuyên gia tới trí thức tới sinh sống và làm việc trong hệ sáng (sáng kiến, sáng lập, sáng tạo), đất dụng võ của thông minh Việt,
qua kinh nghiệm của nhiều quốc gia tiên tiến đã làm? Phải chăng vì các lãnh đạo
ĐCSVN hiện nay không có ý niệm gì về sáng tạo khoa học kỷ thuật theo kinh nghiệm
của Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapour, Trung Quốc…? Hoặc giả họ không biết
gì nên không tin về hệ năng (tài năng,
trí năng, hiệu năng) của Việt tộc, vì chính bản thân họ chưa bao giờ được
đào tạo bài bản, chưa bao giờ được học hành tử tế, chưa bao giờ có học lực thật để có học vị thật, học hàm thật,
ngược lại chế độ độc đảng hiện nay đã tạo ra con quái thai giáo dục là học giả-thi giả-bằng giả?
· Chính
quyền liêm chính phải bảo đảm các định chế
xã hội, được ghi trong hiến pháp, bảo hành luôn tất cả cơ chế trong xã hội, tự
hành chính tới giáo dục, bảo trì từ ngân sách tới xuất khẩu, từ văn hóa tới
luân lý. . . Chính quyền bảo đảm, bảo trì,
bảo hành dường như tất cả mọi sinh hoạt xã hội: thì cũng chính là chính quyền
làm sản sinh ra các vấn đề xã hội mới.
Và, nếu không giải quyết các vấn đề xã hội mới, thì chính chúng sẽ sinh đẻ ra
các khó khăn xã hội mới, nếu khó khăn
xã hội mới này không được giải quyết nhanh chóng, chính chúng sẽ tạo ra các tệ nạn
xã hội mới, và nếu các tệ nạn xã hội này không được xử lý toàn bộ, chính
chúng sẽ sinh bừa không những các bất
công xã hội mới, kể cả các bạo động
xã hội mới. Chính quyền Việt Nam hiện nay, mang thực chất của cường quyền, để lại từ khi có chuyên chính-chuyên quyền-lạm quyền, tức
là từ khi có độc quyền của ĐCSVN, loại
chính quyền này tự cho phép họ gian lận
“nói một đằng, làm một nẻo”, cùng với phản xạ “cả vú lấp miệng em”. Nó hoàn toàn trái ngược lại với định nghĩa
bình thường của chính quyền, mà theo tổ của ngành xã hội học Durkheim: “chính quyền đưa thực thể của tư duy vào
hành động cụ thể trong thực tế xã hội, qua công cụ hợp lý của chính sách, để điều
hành các định chế, các cơ chế vì lợi ích của toàn thể”. Tội của ĐCSVN hiện
nay ngày càng nhiều, càng sâu, khi họ để phụ nữ Việt phải đi làm nô tỳ, nô bộc,
thậm chí “làm gái” trong nhiều nước
láng giềng, mà số phận thua kẻ “đi ở đợ”.
Trong khi mọi người Việt đều biết không ai thấy những phụ nữ các nước láng giềng
trên đất nước Việt, một chế độ mà để bao nhiêu trăm ngàn phụ nữ đi “làm vợ lẽ”, “làm điếm”. . . Trên mạng
xã hội, cư dân mạng đều thấy bức ảnh một phụ nữ, ăn mặc hở hang, nhưng cầm trên
tay biểu ngữ “bán thân không bán nước!”
Đây không những là sự thật về chính quyền hiện nay trong đó có một số không nhỏ
lãnh đạo ĐCSVN đang trong quy trình bán
nước, mà biểu ngữ này còn nói lên một sự thật luân lý sâu xa hơn là phụ nữ
phải bán thân thì: nhân cách-tư cách-phong cách của họ còn liêm chính-liêm khiết-liêm sỉ hơn bọn bán nước! Hegel định nghĩa một chính quyền
chính thống luôn dụng lực của quyền
vì lợi ích cho tập thể cho cộng đồng, cho dân tộc. ĐCSVN không hề có lực, có tầm,
có vóc để nhận nhiệm vụ lịch sử này; bi thảm hơn họ truy diệt đa tài, họ kiềm ám đa năng, họ trù dập đa hiệu,
chỉ vì họ mất ăn mất ngũ vì tuệ giác của đa
nguyên trong đa trí của đa đảng, đây là một đại nạn cho Việt
tộc ! ĐCSVN luôn thủ tiêu hệ đa (đa tài, đa năng, đa hiệu, đa trí) của đa nguyên qua đa đảng
trong hay, đẹp, tốt, lành để tiếp tục
ngu dân qua bản chất xấu, tồi, tục, dở
của họ, họ cũng không ngần ngại đưa những hành động chính trị thâm, độc, ác, hiểm vào xã hội Việt, vào
nhân dân Việt, xã hội Việt, làm nhiễm ô cả đạo lý Việt, nhân phẩm Việt.
· Thức tỉnh phải trong hệ thức: lấy kiến thức để
xây dựng tri thức, nhận trí thức để tạo ý thức, đón nhận thức để
có tỉnh thức. Không biết hệ dây chuyền:
kiến thức-tri thức-trí thức-ý thức-nhận thức-tỉnh thức thì
ĐCSVN đừng lãnh đạo, lãnh đạo mà vô thức,
thì dẫn tới vô minh, để rơi vào bẫy vô tri, chóng chầy sẽ rơi vào vô giác, sẽ gây họa cho dân tộc, tạo nạn
cho giống nòi. Thức là hệ lãnh đạo
chính trị vừa tỉnh để có tỉnh táo, vừa
động để hành động đúng lúc hợp thời,
đúng thế. Hãy xem lại quá trình đào tạo lãnh đạo tại các nước văn minh, nếu
không nói là tân tiến, ở đó có kiến thức
trước quần chúng để gầy dựng tri thức sớm làm nền cho mọi chính sách, tránh hẳn chuyện “sai một ly đi một dặm”, như kinh nghiệm khốn nạn của boxit Tây
Nguyên, của Formosa tại Vũng Áng, giờ lại reo rắc thêm ba thảm kịch mới trên ba
đặc khu mới Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc. Các lãnh đạo ĐCSVN chưa bao giờ
được đào tạo về điều tra cơ bản qua tri thức dân chủ trong quy trình chuẩn bị
thượng nguồn các chính sách; tại đây phải có một hệ trí thức chỉnh chu làm gốc cho ý
thức chu toàn, để không xẩy ra chuyện “sai
con toán bán con trâu”. Để khi hành động, thì được vũ trang bằng nhận thức chính xác về dữ kiện để có tỉnh
thức sáng suốt của “người khôn chưa đắn đã đo, chưa ra tới biển
đã dò nông sâu”, trước khi nhập cuộc và biết chống chỏi trước mọi thử
thách! Trong quá trình lãnh đạo, từ ngày lập đảng cho tới bi kịch hiện nay của
một đất nước ngày càng tụt hậu, các lãnh đạo của ĐCSVN không bao giờ trực diện để trực thoại với trí thức qua
truyền thông đại chúng cũng như qua hội thảo, hội nghị, hội luận, mà trí thức
chính là chuyên gia trong chuyên môn qua chuyên ngành của họ. Đây là một dàn dựng
biển lận tri thức trong lãnh đạo của
ĐCSVN, cũng như Việt tộc đã thấy qua biển
lận dân chủ, kiểu «đảng cử, dân bầu»;
mà trong sự thật lịch sử thì chưa bao giờ dân tộc Việt Nam bầu cho ĐCSVN lãnh đạo
số mệnh của dân tộc, vận mệnh của đất nước, nói lên một chân lý của chính thể
không quốc thể: ĐCSVN không liêm chính vì không có liêm sỉ và kẻ không có hệ liêm (liêm khiết, liêm chính, liêm sĩ)
thì không bao giờ có lẽ phải!
· Sạch
trong quy trình gầy dựng chính sách của các nước dân chủ, tại đây các thủ đoạn tham ô, tham nhũng bị chặn ngay thượng nguồn,
nơi đây kẻ lãnh đạo đi từng bước từ chính sách tới quyết định, từ quyết định tới
hành động, từ hành động tới thành quả, lấy cần mẫn để làm rõ bổn phận, lấy chí
công để nhận trách nhiệm, lấy hy sinh để thao tác mọi hành vi lãnh đạo. Không hề
có chuyện chia chác với nhau qua «rút ruột»
để trục lợi riêng. Sạch trong tiến hành
qua cơ chế, từ chỉ đạo qua hành chính, từ quản lý tổng quan tới hành động lãnh
đạo cụ thể thường nhật, nơi đây cơ chế sạch để liêm chính hóa mọi thủ tục, để
trong sạch hóa mọi tổ chức từ nhân lực tới đầu tư vào cơ sở hạ tầng, nơi mà kết
quả là hiệu quả lãnh đạo, không có chuyện tránh,
né, lách, xé luật để đầu cơ, không có chuyện rút vốn, cắp tài nguyên, vật
liệu để làm giầu riêng. Sạch trong
hành động chính trị thấy rất rõ trong phong cách lãnh đạo thanh bạch, chấp nhận
thanh đạm vì dân tộc, nhận luôn cả thanh bần để tròn nhiệm vụ, để tròn nghĩa vụ
với đất nước, lấy đồng lương nuôi cuộc sống cá nhân. Chuyện biệt dinh, biệt phủ
là «thành quả» của bọn đầu cơ chính
trị, đầu nậu chính sách, không hề là chuyện của kẻ lãnh đạo liêm sỉ, không hề
là hành động lãnh đạo liêm chính. Sạch
để trong chính trị, để sáng lãnh đạo; sạch từ thượng nguồn trong quá trình đào tạo các cá thể lãnh đạo, sạch trong quy trình gầy dựng chính
sách. Sạch trong đánh giá thành quả
và hậu quả phải rõ ngay từ đầu: thấy
chuyện hay cho dân tộc, chuyện tốt cho giống nòi, chuyện lành cho xã hội,
chuyện đẹp cho đất nước thì đầu tư,
thì lập chính sách, thì hành động, trọn vẹn chí công vô tư. Thấy chuyện xấu cho dân tộc, chuyện tồi cho giống nòi, chuyện tục cho xã hội, chuyện dở cho đất nước, thì đừng đầu tư, thì đừng
lập chính sách, thì đừng hành động, đánh giá thành quả và hậu quả là chuyện cân, đo, đong, đếm, hoàn toàn duy lý qua lý luận và lập luận có kiểm
soát của tập thể, có đối thoại với cộng đồng, có sự đàm phán của nhiều chính kiến
đóng vai trò khách quan hóa lãnh đạo chính trị. Sạch trong đào tạo lãnh đạo nơi mà học lực bảo trì cho học vị,
bảo hành cho học hàm; học trong nghĩa
học tập trong tu thân, học hành trong tự rèn luyện, sạch ngược lại với bẩn, với
hai loại ô nhiễm trong chính giới: bất
tài, vô chí luồn lách qua cửa ngõ tham quan, tham nhũng. Sạch từ đầu đến cuối để tách ra khỏi loại
ngụy biện “đánh chuột tránh vỡ bình”, mà
ta chỉ thấy bạo động với đạo đức giả luôn đi đôi với thanh trừng nội bộ, một loại
chính trị rừng, không trong và không sạch.
Sạch để tránh loại xảo biện “đưa củi
vào lò”, một loại bạo hành chính trị luôn đi đôi với thanh lọc bè phái, của
bạo lực “mạnh được, yếu thua”, của loại
bạo quyền “thắng làm vua, thua làm giặc”.
Sau gần một thế kỷ, từ 1930 cho tới nay, nhất là từ khi thống nhất đát nước
1975, ĐCSVN hoàn toàn bất lực để tự trong
sạch hóa, để làm gương tốt cho xã hội, mà ngược lại ĐCSVN hiện nay là nơi
chế tác ra những cái bẩn nhất từ tham
nhũng rồi chuyển tiền ra nước ngoài, tới các tướng công an tổ chức đánh bạc luận
qua mạng truyền thông ngay trong các sào huyệt công quyền của ĐCSVN. Và, ĐCSVN
sẽ không bao giờ sạch khi dùng độc quyền để tà quyền trong bạo quyền để cướp bức
dân tộc, để bán đất nước qua đặc khu.
· Dính
Đảng như dính thân
là thực trạng của vài trường hợp mà y khoa thông báo cho chúng ta qua các trường
hợp sinh đôi hiếm hoi: hai đứa trẻ ra đời cùng một lúc, có phần lớn các nội tạng
nhưng chỉ có một cột xương sống, hai cá thể nhưng phải chia cùng cuộc đời, cùng
kiếp sống. Khi y khoa quyết định muốn cứu cả hai thì phải tách ra, để hai là hai, chớ không phải hai là một, tách ra để mỗi kẻ
có kiếp riêng, có đời riêng, nếu không tách được thì đứa này có thể là họa của
đứa kia. Cụ thể là đứa mạnh luôn làm khổ đứa yếu, đứa mạnh luôn lấy sức mạnh để
khống chế, để áp đặt, để bạo hành, để bó buộc đứa yếu phải làm theo ý muốn, ý định,
ý đồ của đứa mạnh. Dính đảng lại là
chuyện có thật trong chuyện chung đời-cộng
kiếp giữa hai đảng anh-em: đứa mạnh làm anh là ĐCSTQ-Đảng Cộng sản Trung Quốc,
đứa yếu làm em là ĐCSVN-Đảng Cộng sản Việt Nam, từ khi hai đảng này ra đời, từ
khi hai đảng này chọn quỹ đạo chuyên chính để thống trị qua cái độc (độc
đảng, độc tài, độc quyền, độc tôn), chọn chuyện ăn đời-ở kiếp với nhau, nhưng trên thực tế thì đây là chuyện vừa cưỡng
hôn, vừa cưỡng thân. Một đại họa cho Việt tộc, mà muốn sống còn trong vai em-thế yếu thì phải tìm mọi cách để tách ra, thoát ra, càng sớm càng hay.
ĐCSTQ luôn can thiệp, luôn xen vào nội
bộ, phân hóa các lãnh đạo, và trên thực tế là tổ chức nhân lực lãnh đạo cho
ĐCSVN, đứa mạnh-đàn anh luôn tìm cách
ở trên cao để chi phối, để quyết định số kiếp đứa yếu-đàn em, bằng những
thủ đoạn xấu, tồi, tục, thấp; bằng
các xảo thuật độc, ác, thâm, hiểm.
Lúc thì “chơi ngang” dùng ma đạo để cắt
đôi đất nước Việt ngay hiệp định Genève 1954; lúc thì “chơi đểu” cướp biển, cướp đảo của Việt Nam; chưa kể bao lần “chơi ngược” qua các chiêu bài cố vấn
quân sự kiểu “biển người” coi sinh mạng
Việt như cỏ rác, và nhiều lần“chơi ác”
đưa đẩy lãnh đạo ĐCSVN vào con đường giết dân, qua cải cách ruộng đất. Hiện nay, thì bao vây kinh tế Việt, từ nhập khẩu
hàng Tàu tới gây ô nhiễm môi trường, hủy diệt môi sinh, giăng bẫy chính trị, tổ
chức nội gián, giáo dưỡng bọn phản phúc buôn dân, bán nước, giết hại các lãnh đạo
chân chính mưu cầu độc lập, tự chủ cho Việt tộc. Hãy kết luận: dính thân mà yếu thì chỉ có chết! Dính đảng mà hèn thì chỉ dẫn đến vong quốc,
diệt nòi. Hãy quyết định không dính nữa! Hãy quyết đoán là tách ra! tách để sống, tách để giữ nhân phẩm, tách vì có nhân cách,
tách một cách dứt khoát để Việt là Việt!
·
Chuyên ngược,
ĐCSVN sinh ra trong nôi đấu tranh bằng bạo
lực của giai cấp-bất chấp dân tộc, nên không chuyên nghiệp mà chuyên ngược,
qua ngữ văn chuyên, bị thô bạo hóa
qua ngữ pháp chuyên chính, để vào quỹ
đạo bạo lực của chuyên quyền, mà quá
trình tham quyền cố vị giờ đã sinh ra
thảm họa mua quyền bán chức trong mọi
tầng lớp lãnh đạo. Ngày ngày chuyện chuyên ngược sinh ra bao quái thai: quan hệ-tiền tệ-hậu duệ để truy diệt trí tuệ của chuyên. Cái chuyên xuôi của
hệ chuyên ngành-chuyên môn-chuyên
gia-chuyên nghiệp bị gạt bỏ, tiêu hủy, loại trừ, và ĐCSVN đã chọn chuyên ngược qua chuyên chính để chuyên quyền:
đây là tử lộ trước toàn cầu hóa hiện nay! Tại đây chỉ có cái khôn xuôi mới có đất sống! Còn cái ngu ngược thì sẽ chết “bất đắc kỳ tử”! Hãy trả lại thẻ đảng và
đi tìm các quyền vì dân, trong đó có quyền nâng dân là một thực tế trong các
nước văn minh tức là các quốc gia hiện
nay có nhân quyền nhờ dân chủ, thực tế này có được là nhờ chính
thể của họ có chính quyền dùng quyền lực
để nâng nhân dân của họ lên về mọi mặt, nhất là về nhân tri và nhân trí. Đây
là mối lo, “mất ăn mất ngủ”, của các
chế độ độc tài hay độc đảng đang chứng kiến rất rõ mối quan hệ gắn bó giữa nhân quyền qua dân chủ và nhân tri qua nhân trí. Quyền nâng dân không những
nâng mực sống của nhân dân, mà hùng lực
của nó tại quốc gia hiện nay có nhân quyền, dân chủ tức là có văn minh là chuyển
hóa các cá nhân, trước hết thành các cá thể phải được chính quyền tôn trọng,
để thực sự có vị, có thế, có lực của chủ
thể. Định nghĩa của chủ thể là quyền giành tự do cho mình để
lấy sáng kiến trong sinh hoạt xã hội.
Trong đó sinh hoạt chính trị qua tuyển cử, đầu phiếu luôn làm tăng sức sáng tạo của chủ thể để càng ngày càng
có nhiều tự do hơn, chính đây là sự khác biệt sâu xa giữa hai hệ: hệ độc (độc tài, độc đảng, độc quyền, độc tôn)
và hệ đa (đa nguyên, đa trí, đa tài, đa
năng, đa hiệu). Chính sự khác biệt sâu xa giữa hai hệ này đã biến thành sự
mâu thuẫn, rồi trở thành xung đột, để xung kích lẫn nhau trong quan niệm cũng
như trong chuyện thực thi quyền lực. Hệ độc
thì tìm cách loại, tiêu, hủy, diệt
sáng kiến và sáng tạo; còn hệ đa nâng, cõng, đỡ, đẩy sáng kiến và sáng tạo
của cá nhân, không còn là những cá thể lẻ loi, mà thực sự là chủ thể có vị, có thế, có lực trong sinh
hoạt xã hội cũng như trong sinh hoạt chính trị. Quyền nâng dân là quyền nâng sáng kiến của cá nhân để cá nhân có cơ
hội mà nâng tập thể, cộng đồng, dân tộc, là quyền nâng sáng tạo của chủ thể qua
phát minh dùng thông minh của mình để đóng góp trực tiếp vào nguyện vọng “cơm no, áo ấm” cho dân tộc. Sức
mạnh của chủ thể hiện diện luôn trong ý nguyện “nước giàu, dân mạnh”, vì chính các chủ thể được chính quyền tạo điều
kiện thuận lợi từ giáo dục tới xã hội để dễ dàng vào quy trình của khám phá, tạo
ra các phát minh để đẩy mạnh phát triển, thực sự đóng góp vào chuyện “thay đời, đổi kiếp” của dân tộc theo hướng thăng hoa. Quyền nâng dân cụ thể là để đảm bảo sáng kiến của chủ thể biết dùng tự do của mình để sáng tạo, từ đó nhận trách nhiệm trực tiếp với đất nước, từ đó nhận
bổn phận tức khắc với dân tộc. Đây là nhiệm vụ của một chính quyền liêm chính,
là “thiên vụ” của kẻ lãnh đạo, và nếu muốn lãnh đạo mà không có một ý niệm gì về
chuyện dùng quyền lực của mình để nâng
dân tộc mình lên thì đừng lãnh đạo! Thì đừng chiếm chỗ của người khác, nhất là khi họ là
những chủ thể chính thống! Hãy rời đảng để được trọn vẹn làm chủ
thể!
·
Chủ
hóa nhân quyền
là lằn ranh phân chia làm ra mức phân định giữa một chính quyền vì văn
minh của xã hội, vì phát triển của đất nước, vì đạo lý của dân tộc, luôn ngược
lại với loại chính quyền lấy độc quyền để
lạm quyền, lấy độc tài để diệt đa tài
của nhân dân. Chính nhân quyền
khi được tôn trọng sẽ có các cá nhân trở thành chủ thể lấy tự do của mình để sáng tạo ra các phát minh “ích nước, lợi dân”, sẽ có các tập thể lấy
tự chủ của mình để chế tác ra các sáng kiến mới vì “dân giàu, nước mạnh”, sẽ có các cộng đồng lấy tự giác của mình để
bảo trì các giá trị, các di sản, các đạo lý của tổ tiên qua “cha truyền, con nối” theo nghĩa đẹp. Quyền
chủ hóa nhân quyền,
khi nhân tình được nhân tính nâng lên, khi nhân thế được nhân tri đẩy lên, khi nhân loại
được nhân lý đề cao, thì chính nhân quyền này sẽ có nhân bản, nhân văn, tạo ra ý thức tập thể, sinh ra nhận thức cộng đồng, giúp chế tác ra tâm thức cá nhân, biết tôn trọng công lợi để bảo vệ tư lợi. Từ đây, lãnh đạo chính trị sẽ làm cầu nối để nhân quyền gặp được chủ quyền (cho dân, vì dân), trong đó nhân dân có quyền
kiểm tra, giám sát, phê chuẩn các kết quả
qua hiệu quả và hậu quả của các chính sách, trực tiếp sử dụng chủ quyền của mình trong pháp luật để đầu phiếu, để tuyển cử, tạo
ra tranh cử, để có được lãnh đạo thực tài và liêm chính trong sạch. Quyền chủ hóa nhân quyền có lý
trí, biết tách nếp sống văn minh ra khỏi thói quen mê tín, tách lý tính ra khỏi cuồng tín, chuyện tách ra để trực diện đấu tranh với cái xấu, tồi, tục, dở của ngu dân, lý trí
này bắt buộc phải có trong tư duy của người lãnh đạo. Hãy rời bỏ ĐCSVN, để chọn
làm công dân Việt một cách liêm chính nhất: biết bảo vệ vốn liếng
của tổ tiên mình, qua sự thật của lịch
sử, qua chân lý của niềm tin, qua các
giá trị đạo lý làm nên lẽ phải, để
dân tộc Việt được khai sáng và thực sự làm chủ lòng tin của mình, như làm chủ số
phận của mình. Quyền chủ hóa nhân quyền
là vinh dự của kẻ biết trao, biết tặng, biết dâng lên cho tổ quốc mình, cho dân
tộc mình quyền làm chủ chữ nhân qua
chữ lý!
· Dân chủ hóa thật thì nắm được nhân tình, vì quyết tâm không để mất tiền
đồ mà tổ tiên, cụ thể là không để mất di sản lẫn văn hóa, không để mất chất xám
trí thức lẫn hệ thống huấn luyện và đào tạo các thế hệ tương lai, chống các ý đồ
bành trướng xăm lăng muốn bứng gốc-nạo rễ
vốn liếng của dân tộc mình. Trong tâm địa của Tàu tặc, chúng làm hai chuyện
cùng lúc: cắt ruột và nạo ruột; trước hết là cắt ruột để cắt toàn vẹn lãnh thổ của một
dân tộc; nạo ruột là đào cho rỗng mọi
tài nguyên, mọi tiềm năng của một đất nước. ĐCSVN với các lãnh đạo hiện nay đã
nghiên cứu đầy đủ về bài toán thâm, độc,
ác, hiểm gây đứt ruột-cắt đứt ruột-nạo rỗng
ruột của Tàu tặc chưa? Việt tộc đừng để bọn bán nước theo gót của Tàu tặc
khai thác 3 ý đồ (ruột) này qua các đặc
khu! Hành vi của kẻ lãnh đạo phản ảnh ít nhất hai cốt lõi trong thực chất
của con người lãnh đạo: khả năng lãnh đạo
và đạo đức lãnh đạo, hai cốt lõi vượt
xa và vượt ngoài các khẩu lệnh tuyên truyền: hồng và chuyên, rổng về
diễn luận và trống về giải luận. Khả năng lãnh đạo có nền là giáo (giáo dục, giáo khoa, giáo trình, giáo
án), quyết định khả năng của học,
nơi mà học vị và học hàm luôn được căn cứ vào học
lực, cấm tuyệt đối chuyện học giả,
thi giả, bằng giả. Chính học lực, tức
là học thật, thi thật, bằng thật, kết
tinh ra phương trình học lực-học thật
để bảo trì cho thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận
thức, tâm thức). Ở đây, tất cả đều thật về tiềm năng, đều thật về khả năng
lãnh đạo, phương trình giáo-học-thức
hiện nay không có chỗ trong ĐCSVN lấy chuyện “đánh lận con đen” để tráo lừa nhau, thanh trừng nhau. Chính nhờ có
liêm chính trong giáo-học-thức nên có
liêm sỉ trong đạo đức lãnh đạo, hãy trả lại thẻ đảng để đấu tranh cho các cơ chế
công minh, trong một chế độ liêm minh, dụng công bằng qua công lý để
thực hiện được chuyện so ra mới biết ngắn
dài trong vai trò, chức năng lãnh đạo đất nước. Tại đây, phương trình gian
lận quan hệ-tiền tệ-hậu duệ không hủy
diệt được trí tuệ của công dân. Vì
nhân dân luôn có thẩm quyền để so sánh các khả năng giữa các lãnh đạo trong đa
nguyên và dân chủ, mà không quên là sau này lịch sử sẽ làm tiếp chuyện cân, đo, đong, đếm này khi các lãnh đạo
ĐCSVN rời cõi đời này.
·
Đối
đầu với thử thách,
với thăng trầm là chuyện “cơm bữa” của
các chủ thể liêm chính đấu tranh vì dân tộc và đất nước, đối đầu là đối diện để phản biện cũng là chuyện “đi chợ” để nuôi trí, nuôi tâm kẻ có
liêm sĩ. Vì nếu không chấp nhận chuyện đối
đầu để hiểu thêm tình hình, để có nhận định tổng quan, để hiểu tâm lý và
tính toán của các kẻ khác ta chưa là chủ thể có trách nhiệm với đất nước, có bổn
phận với đồng bào. Đối đầu chính là
trực diện với khó khăn để tìm đáp số, đây là lúc “lửa thử vàng, gian nan thử sức”, đặt các lý lẽ của lương tâm mình
trước thực tế lạc hậu của đất nước, trước thực trạng bi đát của dân tộc. Đối phương, luôn có mặt trong đời sống
chính trị, luôn hiện diện mỗi lần chính quyền ban hành một chính sách, thường
trực xuất hiện trong cuộc sống xã hội vì khác biệt, vì đối nghịch về quyền lợi
và quyền lực với lãnh đạo chính trị đương nhiệm. Nhưng chủ thể mà khôn ngoan
thì không bao giờ biến đối phương
thành kẻ thù, tránh tối đa biến đối
phương thành tử thù. Chỉ vì diệt, trừ,
khử, giết đối phương chính là đang diệt,
trừ, khử, giết thông minh của chính mình, vì đối phương thấy, hiểu, thấu, sống
những dữ kiện, những kinh nghiệm, những vốn liếng mà chính ta không có, không
biết, không hiểu; nếu không thấu chuyện phải
học đối phương thì đừng lãnh đạo! Cũng không sợ đối lập có lực triệu tập đối kháng, mời gọi đối trọng để tạo ra cán cân lực lượng thuận lợi để đề kháng, để chống đối lại tà quyền, đây
cũng là chuyện “cơm bữa”, “đi chợ”, “thử
lửa”, mà một công dân liêm chính phải công nhận để nhìn rộng hơn, để thấu
suốt sâu hơn. Tại đây, tuyên truyền một chiều, áp đặt ý thức hệ, thần thánh hóa
cá nhân lãnh đạo như ĐCSVN đã làm không ngừng nghĩ trong mê dại chỉ là chuyện
dìm dân trong ngu dân, xuẩn động trong bị động. Rời đảng, trả lại thẻ đảng để
nhận đa luận (lý luận, lập luận, giãi luận,
diễn luận), cội nguồn của đa nguyên,
cũng là gốc rễ của thông minh chính trị!
·
Không
khuất phục để biết
mình là ai? Việt gốc hay không? theo nội dung yêu nước thương nòi, với ý nghĩa
thiêng liêng nhất của định nghĩa «đồng
bào», chớ không phải chỉ cần có quốc tịch Việt hay tổ tiên Việt là đủ, thì
phải tự khẳng định rằng ít nhất ba việc mình chính là con dân của một dân tộc:
·
Không bao giờ khuất phục bất cứ ngoại xâm nào, tới từ
bất cứ phương trời nào, dù chúng có to nhất, có giầu nhất.
·
Không bao giờ chịu phận mất nước, làm thân nô lệ, dù
phải trả những giá rất đắt để giữ độc lập.
·
Nhận quyết tâm độc lập dân tộc như tiếp cùng lúc hai hệ
vấn đề: một là bản sắc Việt tính bất di bất dịch, hai là về nhân phẩm Việt lực
của mình.
Ba khẳng định chính kiến
chính là ba xác nhận công dân để trước hết biết mình là ai? Sau đó để biết mình
thuộc dân tộc nào? Một dân tộc kiên cường, chớ không phải một dân tộc cúi đầu-khoanh
tay-quỳ gối. Như vậy, những kẻ không có, hoặc không muốn có ba chính kiến này
thì chưa chắc đã là thành viên của Việt tộc! Việt chính, ngược hẳn với Việt
gian, có chính đạo nhờ có chính nghĩa, có chính tâm song hành cùng chính
lý, có chính khí nên có chính ngôn, trước sau như một, tuyệt đối
trung thành với tổ quốc, muốn làm lãnh đạo thì sẵn sàng hy sinh vì dân tộc, chết
vì nước. Chắc chắn không phải là loại lãnh đạo, vừa vơ vét, vừa có thẻ xanh, có
quốc tịch ngoại quốc, để khi Tàu tặc tới, lại bỏ chạy qua phương Tây, rồi lẩn
lút như đám ma bùn, ma xó.
Vật đổi sao dời trong đời người là có thật, vật đổi sao dời lại càng
đúng trong lịch sử với «nắng sớm, mưa chiều»,
càng đúng hơn với tà quyền «sớm nở, tối
tàn»; trong đó nếu đồng chí là bọn
xấu lãnh đạo thì chuyện «lừa thầy, phản bạn»
đối với chúng là chuyện «cơm bữa»! Giữa
đồng chí lãnh đạo có hành vi bán nước
mờ ám trước nổi khổ niềm đau của đồng bào,
xin các đảng viên ĐCSVN hãy chọn: đồng
bào!
Hãy dùng định nghĩa nhân phẩm Việt của Việt tộc chính gốc để lật trần chữ đồng chí, không còn một nội dung nào có ý nghĩa với bọn mang dã tâm
bán nước, không còn có một nội hàm luân lý nào với bọn “sâu dân mọt nước”. Lấy nhân
phẩm Việt để lột mặt nạ bọn“thừa nước
đục thả câu” trong tham nhũng, “thừa
gió bẻ măng” trong tham ô, “đục nước
béo cò” trong tham quyền, với trò “cóc
mò cò ăn” trong tham quan. Chúng khai thác tận tủy xảo quyền tham quan-tham quyền-tham ô-tham nhũng,
chúng chính là nổi oan khiêng hiện nay của hàng triệu dân oan!
Nếu các bạn còn giữ thẻ đảng viên ĐCSVN sẽ là thảm họa
trong mai hậu, sẽ bị xập bẩy-rơi hố-mắc
lưới-tròng đầu qua xảo quyền “kẻ ăn ốc,
người đổ vỏ” của bọn lãnh đạo: từ đảng viên chân chính mà thành nạn nhân của
lịch sử khi dân tộc đưa ĐCSVN ra công lý của công quyền, ra pháp lý của pháp luật.
Hãy trả thể đảng ĐCSVN để nhận lại nhân phẩm Việt!
Lê Hữu Khóa
Giáo sư Đại học Lille* Giám đốc Anthropol-Asie
Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á
Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc
Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa. Paris.
Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứ Đông nam
á.
Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện
nghiên cứu thế giới.