Nhìn lại chủ trương lấy quốc doanh làm chủ đạo
Vũ Quang Việt (*)
(TBKTSG) - Để có thể phát triển lành mạnh trong thời gian tới, không
thể không đánh giá lại những chính sách đã tạo ra bất ổn trong nền kinh tế
từ năm 2006 đến nay.
Sự bất ổn này có thể kể ra gồm
lạm phát cao, nợ cao khó trả, ngân sách thiếu hụt lớn, chênh lệch giàu
nghèo. Tất cả là kết quả của chủ trương xây dựng doanh nghiệp lấy quốc
doanh làm chủ đạo - không hẳn là theo đúng tinh thần Hiến pháp 2013 và
trước đó.
Và đi cùng với chủ trương này là
việc cho phép lập hàng loạt công ty con, kể cả ngân hàng chứng khoán, xây
dựng và buôn bán địa ốc, nửa công nửa tư ăn theo - chủ yếu là các loại
doanh nghiệp dịch vụ đầu cơ, rồi tập trung vốn cho chúng.
Quốc doanh chủ đạo cái gì và đang đi
về đâu?
Nhà nước có vai trò quan trọng
trong bất cứ một nền kinh tế nào. Ở các nước xã hội chủ nghĩa kiểu cũ, nhà
nước nắm toàn bộ và áp đặt kế hoạch tập trung, còn vai trò tư nhân không
đáng kể. Ở các nước thị trường, nhà nước có vai trò xây dựng và thi hành
luật pháp nhằm bảo đảm các thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng, và chính
quyền chỉ can thiệp vào chính sách vĩ mô nhằm ổn định thị trường, đồng thời
thực hiện các đầu tư công mà khu vực tư nhân không muốn hay không có khả
năng đáp ứng. Kinh tế tăng trưởng mạnh hay yếu là tùy thuộc vào sự cạnh
tranh vì lợi nhuận của tư nhân.
Việt Nam cổ võ cho tư duy lấy
quốc doanh làm chủ đạo, công hữu hóa đất đai mà thực tế là giao cho chính
phủ quyền làm chủ đất đai và phân phối cho ai tùy ý, dùng tiền ngân sách và
tín dụng mà mình kiểm soát lập ra các doanh nghiệp quốc doanh, từ đó giới có
quyền thế tạo ra các công ty con nửa nhà nước nửa tư nhân, trong một hệ
thống gọi là tập đoàn để lợi dụng ưu đãi về tín dụng và thu dụng đất công
làm của tư.
Không những thế, Luật các tổ
chức tín dụng lại cho phép các tập đoàn này có thể làm chủ ngân hàng, công
ty chứng khoán, công ty địa ốc, vì thế họ đã sử dụng mối quan hệ và quyền
lực để vay vốn không cần thế chấp, rồi đầu cơ vào địa ốc chứng khoán, kể cả
mua ngân hàng để nắm nguồn tín dụng. Hệ thống trên đưa đến lạm phát cao, nợ
và tạo cơ hội cho các nhóm lợi ích lũng đoạn thị trường, đặc biệt là thị
trường tài chính tín dụng. Điều này, tất nhiên dẫn đến bấn ổn và khủng
hoảng. Tư duy cơ bản này cho đến nay vẫn chưa được xét lại.
Doanh nghiệp, tức là các công ty
được tổ chức bài bản theo luật doanh nghiệp là cơ sở cho bất cứ một nền
kinh tế hiện đại nào áp dụng phương pháp quản lý chuyên nghiệp và công nghệ
tiên tiến để phát triển.
Tuy vậy, khu vực này ở Việt Nam đã không phát triển đáng kể, qua số liệu mà
Tổng cục Thống kê (TCTK) công bố cho những năm, từ năm 2009-2013. Năm 2013,
lao động trong toàn khu vực doanh nghiệp bao gồm cả công lẫn tư chỉ tạo ra
11,6 triệu việc làm, chỉ bằng 22% tổng số lao động trong toàn nền kinh tế
là 52,2 triệu, dù có tăng một chút từ tỷ trọng 18,3% năm 2009.
Vai trò quả đấm thép của doanh
nghiệp nhà nước (DNNN) thì tệ hơn, dù nắm sở hữu rất lớn về tài sản vẫn
không tạo ra nhiều công ăn việc làm. Thí dụ, năm 2013, DNNN chiếm gần 40%
giá trị tài sản trong doanh nghiệp nhưng chỉ tạo ra 1,7 triệu việc làm,
bằng 14,4% tổng số việc làm trong khu vực doanh nghiệp và bằng 3,2% tổng số
lao động trong nền kinh tế. Số lao động trong DNNN thậm chí giảm so với năm
2009. Gần 60% việc làm là từ khu vực tư nhân và 26% là từ khu vực đầu tư
nước ngoài (FDI).
Xem xét về mặt công nghiệp hóa
nền kinh tế, thì rõ ràng mục tiêu này thất bại: vào năm 2013, số lao động
trong khu vực công nghiệp trong doanh nghiệp (5,3 triệu lao động), là khu
vực tiên tiến chỉ chiếm một nửa trong toàn khu vực doanh nghiệp (11,6 triệu
lao động). Tuy nhiên, so với toàn bộ số lao động trong nền kinh tế là 52,2
triệu thì lao động công nghiệp còn quá nhỏ, chỉ chiếm 10%. TCTK không công
bố số liệu lao động trong công nghiệp của DNNN nên không rõ về vai trò công
nghiệp hóa của DNNN.
Như vậy, doanh nghiệp vừa chưa
chiếm lĩnh vai trò chủ chốt, vừa chủ yếu tập trung vào các hoạt động gia
công như dệt may 40%, thực phẩm thuốc lá 11%, đồ gỗ 11%. Hoạt động sản xuất
máy móc hoặc ngay cả lắp ráp điện tử cũng vẫn còn rất nhỏ.
Hai lần thất bại trong chính sách lấy
quốc doanh làm chủ đạo để nhắm tốc độ tăng GDP cao
Lấy quốc doanh chủ đạo làm quả
đấm thép để đạt tốc độ tăng GDP cao từ năm 2006-2014 đã thất bại hai lần
liền. Lần thứ nhất sau năm 2006 nhằm đạt 8-9%, không những làm tốc độ tăng
GDP giảm mạnh và lạm phát tăng phi mã, đạt đỉnh điểm hơn 23% năm 2008. Bộ
Chính trị phải ra chỉ thị ổn định tình hình bằng kết luận 22/KL/TW ngày
4-4-2008.
Không tự rút kinh nghiệm, chính
sách này lập lại lần thứ hai năm 2009, đẩy mạnh tín dụng và kích cầu cũng
thất bại. Lạm phát trở lại gần mức 20% năm 2011. Bộ Chính Trị lại một lần
nữa ra nghị quyết đặt ưu tiên hàng đầu kiềm chế lạm phát bằng Kết luận số
02-KL/TW ngày 16-3-2011.
Lạm phát trở lại vì các nhà làm
chính sách vẫn chủ quan cố đạt tăng trưởng GDP với tốc độ cao bằng các
chính sách sai lầm từ việc lấy quốc doanh chủ đạo đến việc phát hành tiền
cấp tín dụng. Họ cứ tưởng in tiền (trung bình năm là gần 30%) để tăng tín
dụng cung cấp cho doanh nghiệp quốc doanh và tài trợ cho chi tiêu của chính
phủ là giải quyết được vấn đề.
Thời kỳ 2006-2014, GDP giảm hẳn
xuống, đạt dưới mức trung bình 7% tính cho cả khoảng thời gian 1997-2014.
Chính sách tiền tệ vẫn trồi trụt từ 2011 đến nay, lúc giảm tốc, tăng 12%
(2011), lúc tăng tốc 24% (2012), sau đó lại xuống 4% (2013), và năm 2014 là
17%. Nói chung, không thể dùng chính sách in tiền để phát triển mà cần một
chính sách tiền tệ ổn định, bảo đảm mức tăng phát hành tiền và tín dụng
trong khoảng 10-15% một năm để ổn định tình hình.
Thực tế là các chính sách này
đẩy nền kinh tế vào khủng hoảng kéo dài đã tám năm từ năm 2006 đến nay. GDP
không tăng nhanh lên mà thấp hẳn xuống, thậm chí thua khá xa hai nước chung
quanh là Lào và Campuchia ở đáy của ASEAN, đặc biệt từ năm 2006 đến nay.
Các nước ASEAN có thấp hơn cũng chỉ vì nền kinh tế họ đã phát triển ở mức
cao hơn nhiều.
Bơm tiền quá đáng tất đưa đến
lạm phát. Lạm phát cao đưa đến sự mất giá của đồng tiền, tỷ giá phải tăng
để bù đắp sự mất cạnh tranh trên thị trường xuất nhập khẩu; điều này lại có
khuynh hướng đưa đến lạm phát cao kéo dài. Do tỷ giá không được điều chỉnh
đầy đủ theo sự mất giá của đồng bạc do lạm phát, nhập siêu trở nên nghiêm
trọng từ năm 2006-2010.
Nếu tính từ năm 2006-2014, tổng
nhập siêu là 35 tỉ đô la Mỹ, nó là một trong những yếu tố làm nợ nước ngoài
tăng mạnh. Chỉ sau khi chính sách kích cầu bị loại bỏ năm 2011, cán cân
thương mại với nước ngoài mới khá lên.
(*) Nguyên chuyên
viên kinh tế của Liên hiệp quốc
|