Năm mới, nói chuyện cũ
Trước bàn
dân – thiên hạ, Đảng ta, ông ổng cái mồm, mà cả quyết rằng: Đại hội Đảng, bàn
chuyện Quốc gia đại sự. Nhưng, dân chúng, chỉ được tham dự, với tư cách là khán
giả. Ngay các vị Đại biểu, cũng chẳng khá hơn gì. Họ có mặt, để ngồi cho kín
chỗ. Chứ còn mọi việc, đã có “Đảng lo” cả rồi. Dẫu, họ có ngủ, từ đầu
chí cuối, thì Đại hội Đảng của họ, cũng chưa bao giờ, lại không thành công
“ngoài sức tưởng tượng”.
Nói như thế,
không có nghĩa, là không có ngoại lệ. Vẫn có, “một bộ phận không nhỏ” bà
con dân oan, không thụ động ngồi chờ. Họ vẫn yêu Đảng, đến mức cuồng nhiệt. Họ
muốn mang băng rôn và biểu ngữ, vào tận Hội trường. Để, trực tiếp, chào mừng
Đại hội. Đảng ta, sao có thể, đội Trời chung, với bà con được. Thế nên, kiên
quyết chối từ, thịnh tình của họ. Già nửa vạn quân, đã được triển khai. Trên
không, tàu bay lượn khắp Trời – dưới đất, xe tăng bò mãn Địa. Bộ đội – Công an,
sát khí đằng đằng. Chó – người, đều đã túc trực sẵn sàng. Tất cả, chỉ nhằm mục
đích: Cách li dân chúng, với Đảng.
Nước mình,
nghèo lắm – Nợ, như Chúa Chổm. Nhưng, tiền của Dân, Đảng vẫn tiêu bạt mạng. Dân
chúng, xót xa – ông Trời, phẫn nộ. Để trừng phạt, Ông giáng xuống trần gian,
một trận đại hàn, cực kì khắc nghiệt. Bao kẻ, vì thế vạ lây: Trâu bò chết – mùa
màng mất. Dân chúng, trắng tay. Họ khóc như ri, trong suốt kì Đại hội.
Quốc kế –
Dân sinh, Đại hội chẳng màng. Chỉ thấy, họ đấu đá, rồi bầu 1 ông lão U80, đã
trải qua 2 lần quá lứa – nhỡ thì, lên làm Giáo chủ. Ông này, chẳng có 1 công
tích gì đặc biệt. Đã thế, mắt thì mờ, còn chân lại chậm. Có lẽ, được cái khoản
trí khôn kéo lại. Ông học đến độ, bạc phơ cả lông đầu. Cố sống – cố chết, đỗ
cho bằng được cái GS – TS. Vì thế, không cần nói, ai cũng biết: Ông phải thông
minh, hơn 1 con bò (Thách đứa
nào, chứng minh được điều ngược lại).
Ông ta, là
Nguyên thủ Tối cao của nước Việt. Ăn cơm của Dân – hưởng bổng lộc của Đất nước.
Nhưng, đếch phải Tuyên thệ: Trung thành, với Nhân dân và Cúc cung, phục vụ Đất
nước. Ngắn gọn, ông ta được Đảng (chứ không phải Dân), tôn làm Thiên tử. Và, cho hưởng quy chế, Vô
trách nhiệm.
Ngược với
ông ta, là đồng chí Ba X: Thương tật, đầy mình – Chiến công, hiển hách – Huân
chương, lủng lẳng (Nếu chưng ra
hết, có mà, đeo xuống tận bẹn) – Con cái, thành đạt. Về độ sắc xảo, ăn đứt ông cả
Trọng. Tuy vậy, ông vẫn “bị trượt, từ vòng gửi xe”. Cay cú, vô cùng. Đến
giờ, ông vẫn không tin, đó là sự thật. Ông vẫn muốn, đi tìm nguyên nhân. Về
khoản này, Thiên hạ, đàm tiếu đầy. Mình chẳng dám: Thêu thêm hoa, trên gấm. Chỉ
xin, luận về cách dùng người của Đảng CS nói chung và của ông ta nói riêng.
1-Sách Quỉ
Cốc tử, thiên Để Hi, chép rằng: 圣人者,天地之使也. Thánh nhân
giả, Thiên – Địa chi sứ dã. Nghĩa là: Thánh nhân, là sứ giả mà Trời Đất sai xuống để dẫn dắt chúng
sinh.
Khi sai
Thánh nhân xuống Hạ giới, Trời chẳng quên, gửi cho ông ta đủ cả bộ sậu. Để, dễ
bề làm việc. Việc của Thánh nhân, giống như, viên chỉ huy của đám lính dù khi
đổ bộ: Đó là, đi tìm và gom họ lại. Sau đó: “Trí giả, vi mưu – Dũng giả, vi
đấu”.
Lưu Bị, thấu
hiểu Đạo lí này. Vì vậy, “tam cố thảo lư”, mời cho bằng được Khổng Minh,
về làm quân sư cho mình. Anh dũng và thiện chiến, như Quan Công – Trương Phi –
Triệu Vân, không được ông, đặt vào vị trí đó. Việc của họ, là cầm vũ khí đi
đánh địch, theo sự sắp đặt của Khổng Minh.
Khéo dùng
người, cho nên, từ chỗ tay trắng, Lưu Bị đã dựng nên đại nghiệp. Con ông, là
Lưu Thiện, được thừa hưởng tất cả những di sản đó. Nhưng, trẻ người non dạ –
mải ăn mải chơi – không biết cách dùng người. Kết quả, phải đem dâng những
thành quả ấy, cho kẻ địch. May mà, còn giữ được tính mệnh.
2-Hồ Chí
Minh, bị nhiều người chỉ trích. Vì ông Cụ, đã từng, viết sách để ca ngợi chính
mình. Hãy thông cảm với Cụ và, hãy ghi nhận: Cụ là người, tay trắng làm nên sự
nghiệp. Cụ, rất giỏi dùng người. Về mặt này, Cụ chẳng kém gì Lưu Bị.
Chỉ với
việc, dùng được tướng Giáp, Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã dựng nên đại nghiệp: Đuổi
đi, 2 nền Văn minh của nhân loại. Đó là, Pháp và Mỹ. Đồng thời, làm nên “thời
đại Hồ Chí Minh, rực rỡ nhất, trong Lịch sử của Dân tôc”. Không rực rỡ, sao
được. Bởi, dưới sự lãnh đạo, hết sức tài tình của Đảng: “Chúng ta, thà hi
sinh tất cả, chứ nhất định, không chịu mất Nước – nhất định, không chịu làm nô
lệ” cho cái bọn vừa Khôn ngoan – vừa Văn minh, là Pháp và Mỹ. Chúng ta, chỉ
chịu mất Nước và chỉ chịu làm nô lệ, cho cái bọn man ri – mọi rợ, là Tàu
cộng mà thôi.
Từ đó, Lịch
sử của Dân tộc, đã sang trang. “Một thời kì Bắc thuộc mới, đã bắt đầu”.
Nguyễn Cơ Thạch, một trong những người CS hiếm hoi, có tầm nhìn xa – trông
rộng, đã phải cay đắng, mà thốt lên như thế. Và, ông đã phải trả giá, cho cái
sự thông minh của mình.
Hai Bà
Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền , Lý Thường Kiệt , Trần Hưng Đạo, Lê Lợi , Quang
Trung… được trần thế ca ngợi. Nhưng, các Anh hùng Dân tộc đó, chỉ làm được cái
việc hết sức nhỏ nhoi. Đó là, tống cổ quân xâm lược Trung quốc, ra khỏi nước
Nam mình. Đảng CS, làm được cái công việc, còn vĩ đại hơn nhiều. Đó là, rước
được bọn Tàu cộng, vào Việt nam. Mai sau, có đuổi được chúng đi hay không: Đó
là việc, Đảng ưu ái, dành riêng cho đời con – đời cháu. Và, cay đắng thay, con
– cháu chúng ta, muốn làm được cái việc đó: Chúng không thể, không dựa vào Pháp
– Mỹ và, cả Nhật nữa.
3-Bây giờ,
Hồ Chí Minh, đã mồ yên – mả đẹp. Những người tài, họ không đầu quân cho Đảng
nữa. Dẫu có muốn đầu quân, Đảng cũng không chịu dùng. Đảng, sao lãnh đạo được
người tài. Tầm cỡ như Đảng, chỉ vơ được bèo và vạt được tép, mà thôi. Có lúc,
bèo và tép, cũng chẳng có. Đảng cuống lên, vơ đại 1 ông tiều phu, rồi đặt lên
ngôi Thiên Tử. Ông này, nhìn thấy tiền, là hoa mắt lên – trông thấy gái, là tít
mắt lại – chuyên thu vén cho cá nhân, nhưng luôn mồm, rao giảng Đạo đức. Về độ
ăn chơi – vô tài và thất Đức, ông ta, hơn hẳn Lưu Thiện. Giống như, so ánh
trăng rằm, với cái lập lòe của con đom đóm.
Cũng có lúc,
Đảng CS vớ bở. Họ tìm được, 1 ông thợ cạo giấy. Rồi hoan hỉ, đặt ông ta, lên
ngôi Thiên tử. Khổ nỗi, ông này học nhiều, nên ngộ chữ. Mọi thứ hoang tưởng,
đều có thể nghĩ ra. Tỷ như, ông phát minh ra cái học thuyết: “Kinh tế thị
trường, định hướng XHCN” và, bắt đồ đệ, phải ngày đêm tụng niệm. Học thuyết
này, hoang đường đến mức, một thủ hạ của ông, đã phải nói toẹt ra: “Nó có
đếch đâu, mà phải mất công, đi tìm” – Nó phi thực tế đến mức, khi làm ăn
với bọn Tư bản, chính ông, phải dặn bọn lâu la, cắt cái đuôi định hướng XHCN
và, để nó ở nhà.
Các Giáo chủ
khác, còn tồi tệ hơn nhiều. Chỉ lạ cái: Giáo chủ, thối khắm như thế, nhưng
chẳng hiểu sao, các đồ đệ, vẫn chổng mông cúng vái, một cách, hết sức thành
kính? Họ là người, hay là ngợm?
4-Chế độ CS,
“Thượng bất chính – hạ tắc loạn”. Nó, không biết cách dùng người. Chắc
chắn, nó phải bị đổ sập. Ba X đổ, cũng chỉ vì, chẳng biết dùng người.
Chuyện xưa
kể rằng: Có 1 lần, Hưng Đạo Đại Vương, đem quân đi cản giặc. Trước khi đi,
Vương dặn Yết Kiêu, đợi mình ở Bãi Tân. Lần ấy, quân Trần thua to. Thủy quân ở
Bãi Tân, cũng tháo chạy tan tác. Vương bị kị binh địch, truy rát. Trong lúc
nguy cấp, Ngài định mạo hiểm, dẫn cái đội quân, sức đã cùng – lực đã kiệt, luồn
rừng, chạy về Vạn Kiếp. Nhưng, Dã Tượng, đã ngăn Vương lại, mà tâu rằng: “Kiêu
chưa gặp Đại vương, ắt chưa nhổ thuyền đi nơi khác”. Nghe thế, Vương bèn
tức tốc đổi hướng, chạy tới bến sông. Quả nhiên, trên bãi sông vắng lặng, vẫn
còn một con thuyền của Yết Kiêu. Vương vừa kịp xuống thuyền, kị binh giặc, ập
tới. Thoát hiểm, trong đường tơ – kẽ tóc, Vương ngửa mặt lên trời, mà than
rằng: “Ôi! Chim hồng – chim hộc, sở dĩ bay cao được, là nhờ có 6 cái đốt
xương trụ vững chắc”.
Ba X, không
có được, những đốt xương trụ, như thế. Ông, không hề, có người tâm phúc.
Vây quanh ông, là 1 lũ xu nịnh – bất tài. Ông dùng tiền và quyền,
để mua chúng. Còn chúng, cũng dùng những thứ đó, để đến với ông. Lí tưởng của
chúng, chỉ gói gọn trong 2 chữ Tiền và Quyền. Thế
nên, khi địa vị của ông lung lay, chúng bỏ mặc ông bơ vơ, để đi tìm chủ mới.
Cho dù, ông chủ mới ấy, chẳng giỏi giang gì và, đang là địch thủ của ông. Ông
chủ mới ấy, chỉ khéo hơn ông, ở chỗ: Đem chính cái mồi Tiền và Quyền, vừa to
hơn – vừa thơm hơn, để móc vào mõm chúng. Trong cái cơ chế: “thiểu số phải
phục tùng đa số” (đa số láo
toét), ông chết
là phải.
-Ông,
không biết dùng người tài. Viện nghiên cứu Phát triển IDS, là nơi tập
trung toàn những nhà khoa học danh tiếng, cả Tự nhiên – Xã hội và Kinh tế.
Người xưa, goi đó là “túi khôn”. Thay vì, tìm cách sử dụng chất xám của
họ, ông ép họ, phải tự giải thể. Sau đó, ông “bắt chó, phải đi kéo cày”.
Kết quả, Xã hội lanh tanh bành.
Ông giao
việc “giữ vững An ninh Chính trị”, cho viên thượng tướng Công an Nguyễn
Văn Hưởng. Một chàng trai, cơ bắp cuồn cuộn. Mưu mẹo ư, vớ vẩn. Nghĩ làm chi,
cho mệt đầu. Chàng chỉ thích, “hốt liền – bắt hết” và, không từ 1
thủ đoạn thô thiển nào, để đàn áp đối lập. Bất chấp, cái gọi là Luật pháp, do
chính những người CS, bày đặt ra. Bao nhiêu chiến dịch bố ráp, đã được tiến
hành – Bao nhiêu người con vô tội , yêu nước thương nòi, đã phải ngồi sau song
sắt. Đàn áp mạnh tay như thế, nhưng sự chống đối, chỉ có tăng lên và không hề
giảm đi. Kể cả, về Chất lẫn về Lượng. Ông mất
điểm, trước ông cả Trọng và đồng đảng của ông.
Ông thành
lập và giao Tập đoàn Vinashin, cho Phạm Thanh Bình, một kĩ sư, chuyên ngành… vỏ
tàu. Kết quả, thật đau lòng: Thua lỗ, khoảng 5 tỷ USD – cộng thêm vào đó, là sự
bẽ mặt của Đảng CS. Từ nay, họ hết nói phét, về cái gọi là tài kinh
bang – tế thế.
Ông cho
rằng: Lịch sử, là cái thứ, không phải là “mì ăn liền”. Bởi vậy, giao
việc giải tán nó, cho Giáo sư Phạm Vũ Luận. Lịch sử không học, ông sao biết,
bài học của Tư Mã Ý.
Cuối đời, Tư
Mã Ý bị Tào Sảng tước hết binh quyền, cho ngồi chơi – xơi nước. Đã thế, bao
nhiêu người giỏi trong Thiên hạ, Sảng nhặt sạch. Trong số đó, có Hoàn Phạm, 1
kẻ đa mưu – túc trí nổi tiếng. Ông được thiên hạ, tôn xưng là trí nang
(túi khôn). Xét về mọi nhẽ, Ý sao địch được
Sảng. Ỷ vào lẽ đó, Sảng coi thường địch thủ, ngông cuồng – phóng chí. Hoàn
Phạm, can ngăn mãi, chẳng nghe.
Trong 1 lần,
hộ giá Thiên tử đi săn, Sảng dẫn theo tất cả anh em lẫn tâm phúc,
ra ngoài thành. Can không được, Hoàn Phạm đành đóng cửa ngồi nhà, chờ xem động
tĩnh. Y như rằng, Ý “thừa đục thả câu”: Ông ta, làm binh biến. Hoàn
Phạm, ba chân – bốn cẳng, thoát ra được bên ngoài và tìm đến Tào Sảng.
Nghe được
hung tin ấy, Ý ngửa mặt lên Trời, mà than rằng: “Túi khôn, đã vượt ra ngoài,
biết liệu sao đây?”. Thấy thế, Tưởng Tế đứng bên cạnh, cả cười: “Con
ngựa hèn, thường tham nắm đậu. Dẫu có trí nang, cũng đâu có biết cách,
mà dùng”.
Tế, quả
thật, hiểu thấu ruột gan của Sảng. Mặc dù, Hoàn Phạm đã chỉ cho Sảng, những
điểm yếu chết người của Ý. Đồng thời, hiến cho Sảng, kế triệt Ý, dễ như trở bàn
tay. Sảng, nhất định không nghe. Chỉ mong, trả hết binh quyền, để sống nốt cuộc
đời của 1 phú ông. Hoàn Phạm, chỉ còn biết dậm chân – đấm ngực, mà kêu lên
rằng: “Trời hỡi Trời! Xưa Tào Tử Đan, luôn kiêu căng, tự khoe mình mưu lược.
Nay, sinh ra ba đứa con, đứa nào, cũng như chó – lợn cả 1 lượt”.
Sảng, tự
nguyện qui hàng. Nhưng, kẻ lão luyện như Tư Mã Ý, đâu có quên câu: “nhổ cỏ,
phải nhổ tận gốc”. Mấy ngày sau, ông gán tội rồi lôi cả họ nhà Sảng ra giữa
chợ, để chém đầu. Tào Sảng, đã phải trả giá, cho một niềm tin khạo khờ.
Chính trị,
không có chỗ, cho bọn ngây thơ và nhu nhược.
Đoạn trước,
Ba X không học, dẫn đến cơ sự này. Đoạn sau, không biết, có ngộ ra được cái gì
không?
5-Chuyện xưa
cũng kể rằng: Có 1 nghệ nhân, được gọi vào cung, để làm Ngai vàng cho Vua. Ngày
hoàn thành, anh ta, ghé đít ngồi đại lên đó. Tể tướng đi qua và nhìn thấy. Ông
ta, gầm lên: “Nếu trên đời, còn có 1 kẻ giỏi như ngươi, nhất định, ta sẽ chu
di tam tộc nhà ngươi”. Kẻ kia, mặt tái mét và run cầm cập. Ngắn học như
hắn, đâu biết gì về Lễ – Nghĩa. Suýt nữa, vì sự vô ý của mình, mà hại bao người
thân.
Bây giờ,
nhiều du khách, không biết đạo lý ấy. Họ vẫn trả tiền, để được mặc Long bào và
ngồi lên trên Ngai vàng của Thiên tử. Rõ là, “Điếc, không sợ súng”.
Cứ gì, cái
hạng du khách vớ vẩn. Ối kẻ, “có trình độ lí luận cùn” hẳn
hoi, cũng đâu có biết: Nhân dân mới là chủ của Đất nước. Ngai vàng thuộc về
Nhân dân. Dân dùng lá phiếu, đặt ai làm Vua: kẻ ấy, mới được ngồi lên đó.
Những người,
đứng về phía Nhân dân – đồng hành cùng quần chúng: Dẫu họ chẳng muốn, Nhân dân
cũng công kênh họ và đặt lên Ngai vàng. Địa vị của họ, ổn cố và vững chắc. Bà
San Suu Kyi ở Miến Điện, chẳng phải, là 1 tấm gương trước mắt đó sao?
Những kẻ,
cam tâm bán Nước. Đồng thời, dùng súng đạn – nhà tù – tuyên truyền dối trá,
cộng thêm, những thủ đoạn cờ gian – bạc lận, để giành cho bằng được Ngai
vàng: Chúng, là kẻ tiếm quyền. Chúng, đang ngồi vào cái chỗ, không phải là của
mình. Chúng và những kẻ đưa chúng lên, đều là tội đồ. Giá treo cổ, sẽ là chung
cuộc dành cho chúng. “Chu di cửu tộc”, sẽ là chung cuộc, dành cho cả lò
– cả ổ nhà chúng.
Thương hại thay,
cho những kẻ: “cố đấm ăn xôi”, nhưng rồi, vớ phải “nắm xôi
hẩm”.
Nguyễn Tiến
Dân
Tạm trú tại:
544 đường Láng – quận Đống đa – Hà nội.
Điện
thoại: 0168-50-56-430
Vài dòng tâm
sự riêng, với ông Tổng Trọng:
-Lão Dân
già, là con em của Nhân dân Việt nam. Ông, là con của Đảng. Đảng của ông, từ
Nhân dân mà ra. Suy ra rằng: Lão thuộc dòng trưởng, còn ông thuộc dòng thứ. Bé
người như lão, nhưng lại là con ông bác – lớn xác
như ông, lại là con bà dì. Theo Tôn ti – Trật tự, lão phải gọi
ông bằng chú. Trừ phi, trong đại gia đình các Dân tộc Việt nam, cái chi Đảng CS
nhà chú, là họ nhà tôm, nên để lộn cứt lên đầu. Có
ý kiến gì, chú phản hồi cho lão nhé.
-Lão vẫn
biết, các chú có bản lĩnh cao cường, lại đeo thêm, mặt nạ phòng Hóa của bọn Tàu
cộng. Bởi thế, lão hun khói ròng rã mấy năm trời, mà các chú, vẫn nằm trong
hang – các chú, vẫn giả câm giả điếc, đếch chịu chui ra. Nghĩ đến cảnh, các chú
tiếc tiền, nên bịt mũi chịu khói: Lão, thương hại các chú, vô cùng. Tuy vậy,
vẫn không khỏi khâm phục, mà thốt lên rằng: “Tài thật – tài thật – tài đến
thế là cùng. Like chú Tổng Trọng”.
-Vẫn phải,
dặn thêm các chú: Khi khói lão hun, ngày càng đậm đặc hơn, cái mặt nạ phòng Hóa
ấy, tất hỏng. Các chú, chắc chắn, phải chui ra, để gặp lão. Chỗ lão ở, các chú
biết rồi. Tốt nhất, đem tiền xuống tận nơi, mà trả cho lão. Và, hãy quên khẩn
trương, cái ý nghĩ: Dùng bạo lực với lão.