Nguyễn Quang Dy
“Trung Quốc là một gã khổng lồ đang ngủ.
Hãy để cho nó ngủ, bởi vì khi nó tỉnh dậy, nó lẽ làm đảo lộn thế giới” (Napoleon Bonaparte)
Mỗi khi đề cập đến tình hình kinh tế hay
chính trị của Việt Nam (như dịp Đại hội Đảng vừa qua), yếu tố Trung Quốc lại
nổi cộm lên ám ảnh như một đám mây đen (hay nghiệp chướng của địa lý và lịch
sử). Đã nhiều lần trong lich sử, người Việt dũng cảm đấu tranh để “thoát
Trung”. Nhưng từ sau thỏa thuận Thành Đô (1990), Việt Nam lại bị đám mây đen
Trung Quốc bao phủ như cái vòng kim cô (hay cái bẫy ý thức hệ). Vì vậy, muốn
“thoát Trung”, chúng ta cần lý giải gót chân Asin của Trung Quốc, xem Trung
Quốc thực sự mạnh hay yếu, để Việt Nam tìm cơ hội “thoát Trung”.
Có những cách lý giải khác nhau, nhưng
trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần 3 điều kiện cơ bản để “thoát Trung”. Thứ
nhất, cần nội lực mạnh: Trên dưới một lòng, trong ngoài hợp tác, quyết tâm đổi
mới thể chế và ý thức hệ, để cường thịnh kinh tế và độc lập chính trị (không lệ
thuộc vào Trung Quốc). Thứ hai, cần ngoại lực mạnh: Việt Nam và Mỹ cùng xoay
trục, trở thành đối tác chiến lược, trên cơ sở hợp tác TPP để tái cân bằng (chứ
không phải để chống Trung Quốc). Thứ ba, mỗi khi Trung Quốc khủng hoảng nội bộ,
họ thường gây ra khủng hoảng bên ngoài (như tại Biển Đông) để làm giảm sức ép
trong nước. Có thể đây là cơ hội cho Việt Nam “thoát Trung” (như một hệ quả
không định trước).
Trung Quốc mạnh hay yếu?
Nhiều người cho rằng Trung Quốc đang ở
đỉnh cao quyền lực. Đúng là Trung Quốc đã trỗi dậy với kỳ tích phát triển kinh
tế, có tốc độ tăng trưởng hai con số trong gần ba thập kỷ. Trung Quốc đã trở
thành công xưởng của thế giới, xuất khẩu hàng hóa khắp toàn cầu. Trung Quốc đã
vượt qua Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới (chỉ sau Mỹ), và
đang cạnh tranh với Mỹ về kinh tế và quân sự, với tham vọng sẽ vượt Mỹ. Ngân
sách quốc phòng của Trung Quốc năm 2015 là 144 tỷ USD (chỉ đứng sau Mỹ). Trung
Quốc là chủ nợ lớn nhất của Mỹ, với 1.300 tỷ USD tài sản (chủ yếu là trái
phiếu). Dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đứng đầu thế giới, với 3.300 tỷ USD
(năm 2015). Hai trăm triệu người Trung Quốc đã trở thành trung lưu. Đồng Nhân
dân Tệ đã trở thành ngoại tệ mạnh (trong giỏ
SDR).
Nhưng đó là quyền lực cứng, còn quyền lực
mềm thì sao? Trung Quốc đã ý thức được tầm quan trọng của quyền lực mềm và đã
đầu tư gần 10 tỷ USD cho chương trình tuyên truyền “quyến rũ thế giới” (Charm
Offensive). Nhưng Trung Quốc không thành công vì ngộ nhận quyền lực mềm giống
như công tác tuyên huấn, hoặc “giống như làm đường sắt cao tốc” (David
Shambaugh). Đây là một điểm yếu cơ bản của Trung Quốc không thể nào khắc phục
được, chừng nào Trung Quốc không chịu cải cách chính trị và dân chủ hóa để phát
triển xã hội dân sự (là tiền đề cho quyền lực mềm). Dù Trung Quốc có bỏ ra kinh
phí khổng lồ cho “Charm Offensive” để tuyên truyền về “Giấc mộng Trung Hoa”
(China Dream), hay tính ưu việt của CNXH “mang Màu sắc Trung Quốc”, thì cũng
không thể nào thuyết phục được thế giới (hay người dân Trung Quốc) tin vào chế
độ hiện nay, nếu họ tiếp tục chính sách cực đoan đầy tham vọng, nhằm duy trì
nguyên trạng (trong nước), hay thay đổi nguyên trạng (ngoài nước).
Trong quá trình phát triển nóng, Trung
Quốc đã bộc lộ nhiều điểm yếu cơ bản mang tính quy luật và hệ thống, không thể
khắc phục được. Đó là môi trường ô nhiễm và ngộ độc thực phẩm ngày càng tăng,
mỗi năm làm 1,6 triệu người chết vì ô nhiễm không khí (trung bình mỗi ngày có
hơn 4000 người chết). Vì vậy, khi 3 chiến hạm của Hải quân Trung quốc (PLAN)
ghé thăm hữu nghị cảng Brisbane gần đây (2/1/2016), người dân Úc thấy hầu hết
thủy thủ tàu 152 đã đổ xô đi mua gom loại sữa bột trẻ em “Aptamil 3”, là loại
sữa bột được người dân Trung Quốc ưa chuộng. Đó là khoảng cách giàu nghèo ngày
càng lớn (đứng đầu thế giới) với hệ số Gini là 0,61% (mức báo động có thể dẫn
đến bất ổn xã hội). Ví dụ, 70 người giàu nhất Quốc Hội Trung Quốc có tài sản
trung bình 1 tỷ USD (cao hơn cả Mỹ). Đó là quy mô đô thị hóa khổng lồ để gia
tăng thị trường trong nước (đối phó với giảm xuất khẩu). Nhưng làn sóng di cư ồ
ạt từ nông thôn ra thành thị đã bắt đầu đảo ngược, giảm 5,68 triệu người (năm
2015). Tết 2016 là bước ngoặt với hàng chục triệu người dân trở về quê mà
không quay lại thành phố (nơi cuộc sống đắt đỏ, môi trường ô nhiễm, đe dọa thất
nghiệp). Kế hoạch di dân khổng lồ ra thành phố để thực hiện chương trình cải
cách 10 năm đầy tham vọng của thủ tướng Lý Khắc Cường có thể thất bại.
Trong khi người nghèo Trung Quốc đang bỏ
thành phố trở về quê (di dân ngược), thì người giàu Trung Quốc bỏ đất nước di
cư ồ ạt ra nước ngoài. Theo Hurun Report (August 2014), 64% người giàu (có trên
1,6 triệu USD) đã hoặc định di cư khỏi Trung Quốc. (Andrew Browne, The Great Chinese exodus, the Wall Street Journal,
August 15, 2014). Việc di cư ồ ạt đồng nghĩa với chuyển tiền ổ ạt ra nước
ngoài. Theo Bloomberg intelligence, 1.000 tỷ USD đã tháo chạy khỏi Trung Quốc
năm 2015, tăng gấp 7 lần so với 2014. Đây là hệ quả của khủng hoảng lòng tin
không thể kiểm soát được, dù có xây vạn lý trường thành xung quanh Trung Quốc
cũng không ngăn cản được. Theo luật thì mỗi người dân Trung Quốc được phép
chuyển ra nước ngoài 50.000 USD (mỗi năm). Chỉ cần 5% dân số Trung Quốc (1,3 tỷ
người) chuyển tiền ra nước ngoài (hợp lệ) thì dự trữ ngoại hối của Trung Quốc
hiện nay sẽ biến mất.
Bức tranh kinh tế
vĩ mô của Trung Quốc đáng lo ngại. Trong khi GDP tăng ở mức khoảng 7%, trong 7
tháng đầu năm 2015, tổng kim ngạch thương mại đã giảm 7,3% (xuất khẩu giảm 8,8%
và nhập khẩu giảm 8,6%). Chỉ số PPI đã giảm 42 tháng liên tiếp, xuống mức thấp
kỷ lục là -5,4% trong tháng 7/2015. Đồng Nhân dân Tệ bị phá giá liên tiếp
và thị trường chứng khoán tiếp tục lao dốc (thậm chí phải đóng cửa) gây hoang
mang và hỗn loạn trên thị trường. Dự trữ ngoại hối giảm xuống mức 3.650 tỷ USD
vào tháng 7/2015, từ mức đỉnh cao là 3.990 tỷ USD (cách đây một năm). Tính đến
cuối năm 2015 dự trữ ngoại hối đã giảm 513 tỷ, còn 3.300 tỷ USD; Riêng trong
1/2016 dự trữ ngoại hối giảm 99,5 tỷ USD, còn 3.230 tỷ USD. Dự kiến 2016, dự
trữ ngoại hối của Trung Quốc có thể giảm 300 tỷ, chỉ còn 3.000 tỷ USD.
Các chuyên gia nói
gì?
Sau ba thập kỷ
phát triển kinh tế với tốc độ hai con số, được cả thế giới ngưỡng mộ như một
hiện tượng thần kỳ, “mô hình Trung Quốc” đã bộc lộ những điểm yếu cơ bản có
tính hệ thống, trong đó cải cách kinh tế mà không cải cách chính trị là
một tử huyệt trong chương trình “Bốn Hiện đại Hóa” (nông nghiệp, công nghiệp,
quốc phòng, khoa học công nghệ) để biến Trung Quốc thành một cường quốc hiện
đại. “Bốn Hiện đại Hóa” mà không dân chủ hóa (đàn áp dã man “Pháp Luân công”),
tôn vinh làm giàu và sức mạnh cứng mà không biết cách xây dựng “sức mạnh mềm”
(vô cảm), phát triển nóng bất chấp cái giá phải trả về hủy hoại môi trường sống
(gây ô nhiễm nặng nề), thì phát triển không thể bền vững. Trước khi nghỉ hưu,
thủ tướng Ôn Gia Bảo và các nhà cải cách khác đã kêu gọi cải cách chính trị để
cứu vãn thành quả cải cách kinh tế, nhưng lãnh đạo Đảng CSTQ vẫn duy trì chế độ
độc tài, độc đảng.
Ngày càng nhiều
chuyên gia về Trung Quốc (và các nhà đầu tư) mất lòng tin vào “Mô hình trung
Quốc” và cảnh báo về những nguy cơ tiềm ẩn. Không phải họ ghét hay chống Trung
Quốc nên “độc mồm độc miệng”, mà nhiều người trong số họ đã từng ủng hộ các
chương trình cải cách của Trung Quốc. Hãy điểm lại một số ví dụ điển hình xem
các chuyên gia đó nói gì.
Trước hết là luật
sư Gordon Chang (một học giả về Trung Quốc) ngay từ năm 2001 đã cảnh báo Trung
Quốc sẽ sụp đổ “trong vòng năm đến mười năm tới” (Gordon Chang, “the Coming
Collapse of China”, Random House, 2001). Theo Gordon Chang, dưới cái vỏ
hiện đại, Trung Quốc là “con hổ giấy” với nhiều dấu hiệu đồi bại vì cải cách
nửa vời đã làm cho quốc gia này “mắc kẹt giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa
tư bản”. Nhiều người chỉ trích quan điểm quá bi quan của Gordon Chang vì sau 10
năm Trung Quốc vẫn tồn tại và phát triển. Năm 2011 Gordon Chang thừa nhận mình đã
dự báo “sai mất một năm”, nhưng vẫn giữ quan điểm cũ, và còn cược là Trung Quốc
sẽ sụp đổ vào năm 2012. (Gordon Chang, “the Coming Collapse of China: 2012
Edition”, Foreign Policy, December 29, 2011).
Tại sao Trung Quốc
không sụp đổ (như các nước Đông Âu)? Andrew Nathan (một học giả về Trung Quốc
tại Đại học Columbia) giải thích bằng thuyết “sức bật của chuyên quyền” (Andrew
Nathan, “Authoritarian Resilience”, Journal of Democracy, January 2003).
Theo Nathan, sự trỗi dậy của nền độc tài (Trung Quốc) phản ánh sự suy yếu của
nền dân chủ (Mỹ). Muốn đối phó với thách thức hiện nay (Trung Quốc nổi lên và
lấn sân Mỹ), các nước dân chủ phải quản trị tốt hơn (Andrew Nathan, “China’s
Challenge”, Journal of Democracy”, January 2015). Francis Fukuama (Đại học
Johns Hopkins) cũng chia sẻ quan điểm tương tụ trong cuốn sách phân tích
thực trạng suy thoái của nền dân chủ Mỹ và Châu Âu (Francis Fukuama,
“Political Order and Political Decay”, Farrar Straus Giroux, 2014).
Giáo sư Minxin Pei
(một học giả về Trung quốc, giám đốc Trung Tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế
tại Đại học Claremont McKenna) đã nghiên cứu về chiến lược cải cách của Trung
Quốc trong bối cảnh đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo, và đi đến kết luận là
thay vì tiến đến một nền kinh tế thị trường thực sự thì Trung Quốc “bị mắc kẹt
trong quá trình chuyển đổi do những cải cách kinh tế và chính trị nửa vời”. (Minxin
Pei, “China’s Trapped Transition: The Limits of Development Autocracy”, Harvard
University Press, 2006). Theo Minxin Pei, quá trình chuyển đổi kinh tế tiệm
tiến có thể thành công trong giai đoạn đầu, nhưng “Chủ nghĩa Tiệm tiến”
(Gradualism) cuối cùng sẽ thất bại.
Dưới thời Tập Cận
Bình, xã hội Trung Quốc lại một lần nữa chìm trong nỗi lo sợ vì chiến dịch “Đả
hổ Diệt ruồi” đang tiếp diễn, với 146 con hổ to đã bị sa bẫy chống tham nhũng.
(Minxin Pei, “China’s Rule of fear”, Project Syndicate, February 8, 2016).
Theo Minxin Pei, chính sách cai trị bằng sợ hãi (rule of fear) đang làm cho
không những bộ máy chính quyền và xã hội Trung Quốc hầu như bị tê liệt vì lo
sợ, mà cộng đồng kinh doanh, cộng đồng trí thức, giới truyền thông, và cả người
nước ngoài, cũng đang “sống trong sợ hãi” như bị khủng bố tinh thần (giống như
thời Cách mạng Văn hóa).
Hiện nay, Trung
Quốc đang rơi vào cái bẫy do chính họ tạo ra, trong đó “bẫy thu nhập trung
bình” là rất khó thoát. Theo World Bank, trong tổng số 35
nền kinh tế trên thế giới bị rơi vào bẫy thu nhập trung bình, chỉ có 13 nền kinh tế đã vượt qua được. Mô hình Trung Quốc là một nền kinh tế
bong bóng lớn nhất thế giới (và cũng cực đoan nhất thế giới), đặc biệt là bong
bóng bất động sản, không thể nào chỉnh sửa được, và cũng không thể nào “hạ cánh
nhẹ nhàng” (soft landing) được. Sớm muộn thì cái bong bóng khổng lồ đó sẽ phải
nổ như một vụ nổ lớn trong vũ trụ, tạo ra khủng hoảng tài chính (như một cái
“hố đen”) hay bị vỡ nợ (như một trận lở tuyết). Không phải ngẫu nhiên mà tỷ phú
Lý Gia Thành (giàu nhất Trung Quốc với tài sản gần 40 tỷ USD) đã nhanh chân bán
tài sản tại lục địa (trị giá 3 tỷ USD) để chạy khỏi thị trường Trung Quốc. Cũng
không phải vô cớ mà 64% người giàu Trung Quốc đã và đang di cư ra nước ngoài,
đồng thời tìm mọi cách chuyển tiền ra nước ngoài để tránh rủi ro trong nước.
Sau Gordon Chang
và Minxin Pei (hai học giả người Mỹ gốc Hoa) là Paul Krugman (một nhà kinh tế
học Mỹ tại Đại học Princeton) đã được giải thưởng Nobel về Kinh tế năm 2008.
Năm 2013, trong một bài báo, Paul Krugman đã đưa ra những cảnh báo về Trung
Quốc làm chấn động dư luận, “Trung Quốc đang gặp rắc rối to. Không phải là
những thất bại nhỏ dọc đường, mà là những vấn đề cơ bản. Toàn bộ cách thức kinh
doanh và hệ thống kinh tế đã từng thúc đẩy ba thập kỷ phát triển không thể
tưởng tượng được, thì nay đã đến điểm dừng. Có thể nói Mô hình Trung Quốc sắp
đụng phải Vạn lý Trường thành, và câu hỏi duy nhất lúc này là sự sụp đổ sẽ tồi
tệ đến mức nào… Các biện pháp trì hoãn ngày phán quyết chỉ làm cho ngày đó càng
thêm tồi tệ hơn khi cuối cùng nó phải xảy ra. Và ngày đó đang tới. Ngày hôm
trước chúng ta còn sợ người Trung Quốc, thì bây giờ chúng ta lo ngại cho họ”… (Paul
Krugman, “Hitting China’s Wall”, the New York Times, July 18, 2013). Chắc
Paul Krugman không nói đùa!
Chưa đầy hai năm
sau, David Shambaugh (một chuyên gia về Trung Quốc có uy tín tại Đại học George
Washington) có những nhận xét tương tự, nhưng còn mạnh hơn nữa (như một “quả
bom tấn”). Năm 2008, David shambaugh xuất bản một cuốn sách về Trung Quốc, đánh
giá cao năng lực của lãnh đạo Đảng và Nhà nước Trung Quốc để thích ứng với các
thách thức mới trong thập niên đầu của thế kỷ 21 (được Bắc Kinh đánh giá cao).
Vì vậy, phát ngôn mới của Shambaugh về Trung Quốc đã gây sốc, “Màn chót của chế
độ cộng sản ở Trung Quốc đã bắt đầu, và những biện pháp mạnh tay của Tập Cận
Bình đang đưa đất nước đến gần hơn sự sụp đổ… Chúng ta không thể đoán được khi
nào thì Trung Cộng sụp đổ, nhưng không thể không kết luận rằng chúng ta đang
chứng kiến giai đoạn chót của nó”. (DavidShambaugh, “The Coming Chinese
Crackup”, the Wall Street Journal, March 6, 2015).
Không biết động cơ
thực sự của David Shambaugh là gì (qua bài báo nói trên), nhưng rõ ràng
Shambaugh tỏ ra rất thất vọng trước thái độ bảo thủ và ngoan cố của lãnh đạo
Trung Quốc không chịu triển khai những cải cách cơ bản để đối phó với những
thách thức to lớn mà Trung Quốc đang đối mặt. Shambaugh lập luận rằng Tập Cận
Bình càng cố gắng làm ngược lại với những gì Gorbachev đã làm, hòng duy trì chế
độ cộng sản ở Trung Quốc, thì hệ quả của nó lại càng giống như Liên Xô. Nói
cách khác, ngày càng nhiều người coi Trung Quốc như một gã khổng lồ tuy khỏe và
giàu, nhưng đã mắc căn bệnh ung thư (di căn giai đoạn cuối), nên hóa xạ trị
cũng không thể cứu được, nhưng lại từ chối giải
phẫu.
Gần đây, tỷ phú
George Soros (nhà đầu cơ gây nhiều tranh cãi) đã dự đoán (tại Diễn đàn Kinh tế
Davos tháng 1/2015) rằng, do biến động tỷ giá của đồng Nhân dân Tệ, kinh tế
trung Quốc sẽ “hạ cánh cứng” (hard landing) và có khả năng Trung Quốc sẽ rơi
vào khủng hoảng tài chính (như Nga năm 2014). Trong khi cả thế giới vẫn còn bán
tín bán nghi trước nhận định gây sốc này của George Soros thì Chính phủ Trung
Quốc lại tự biến nó thành một câu chuyện đáng tin. Mặc dù Trung Quốc phản ứng
rất gay gắt đối với George Soros (“đừng bao giờ quay lại Trung Quốc nữa!”),
nhưng dự đoán bi quan của George Soros về tương lai kinh tế Trung Quốc đang
ngày càng có vẻ chính xác.
Còn nhớ năm 2014,
các nhà đầu tư nước ngoài đã ồ ạt rút vốn khỏi thị trường Nga để chuyển về
nước. Trong một thời gian ngắn, họ đã đẩy nước Nga rơi vào cảnh lạm phát phi
mã, nền kinh tế đình đốn do quan hệ kinh tế với Mỹ và EU bị đứt đoạn, tiêu dùng
giảm sút và tăng trưởng đình trệ. Hiện nay, Trung Quốc cũng đang trải qua một
tình trạng tương tự. Theo thống kê, hơn 1000 tỷ USD đã được các nhà đầu tư rút
khỏi thị trường Trung Quốc trong năm 2015. Việc một lượng quá lớn USD biến khỏi
thị trường Trung Quốc chỉ trong vòng một năm đang đẩy nền kinh tế số hai thế
giới lâm vào tình cảnh tương tự như Nga hồi cuối năm 2014. Áp lực tỷ giá đối
với đồng Nhân dân Tệ tại thời điểm hiện nay lớn hơn bao giờ hết, khi nó liên
tục bị mất giá kể từ khi được IMF cho vào giỏ tiền tệ SDR (12/2015).
Một số chuyên gia
về Trung Quốc cho rằng Tập Cận Bình đang theo đuổi một chính sách đối ngoại và
an ninh đầy tham vọng (nhưng cũng đầy rủi ro), thách thức trật tự an ninh của
Mỹ tại Châu Á-TBD, bất chấp lời khuyên của Đặng Tiểu Bình (và có thể chôn vùi
di sản cải cách của Đặng Tiểu Bình). Tại Châu Á, Trung Quốc đã cam kết hơn 100
tỷ USD góp vốn cho Ngân hàng Hạ tầng Châu Á (AIIB). Tại Châu Mỹ La tinh, Trung
Quốc đã cho vay gần 120 tỷ USD (từ năm 2005). Tại Châu Phi, Trung Quốc cũng đã
đầu tư và cho vay hơn 100 tỷ USD. Trong khi đầu tư khổng lồ vào các dự án lớn
đầy phiêu lưu về kinh tế và quân sự, lãnh đạo Trung quốc đã trở nên kiêu ngạo
và quá tự tin vào quyền lực cứng, mà không biết cách xây dựng quyền lực mềm
(một tiêu chí cơ bản của siêu cường), trong khi thể chế kinh tế và chính trị
của Trung quốc đang tiềm ẩn và bộc lộ những tử huyệt đe dọa sự sống còn của chế
độ.
Biển Đông sẽ ra
sao?
Mỗi khi trong nước
khủng hoảng nội bộ (sức ép lên cao) thì lãnh đạo Trung Quốc lại gây ra khủng
hoảng với bên ngoài để “tháo ngòi nổ bên trong” (như một quy luật). Nhưng lần
này có khác là lãnh đạo Trung Quốc tin rằng thời cơ đã tới và quân đội Trung
Quốc (PLA) đã đủ sức mạnh để thách thức Nhật và Mỹ. Vì vậy, Trung Quốc đã chủ
động gây ra khủng hoảng với Nhật, tranh chấp đảo Điếu Ngư (Senkaku) và áp đặt
khu nhận diện phòng không (ADIZ) tại Biển Hoa Đông, nhằm: (1) kích động tinh
thần dân tộc (cực đoan) của người Trung Quốc, (2) phô diễn sức mạnh mới để đòi
thay đổi nguyên trạng (với Nhật) tại Đông Bắc Á, (3) nhân đó “rửa vết nhục lịch
sử” (muốn người Nhật phải xin lỗi). Làn sóng chống Nhật tại Trung Quốc chứng tỏ
lãnh đạo Trung Quốc hầu như đã đạt được mục tiêu nói trên.
Nhưng cái giá phải
trả (và hệ quả không định trước) cũng rất lớn. Không những nhiều nhà đầu tư
Nhật rút vốn khỏi thị trường Trung Quốc, mà Chính phủ Nhật còn có “cơ hội vàng”
thay đổi Hiến pháp (điều 9) để tái vũ trang, một điều mà chưa chính phủ Nhật
nào dám làm (sau chiến tranh).
Trong khi chưa ai
có thể lường hết được hệ quả của việc “Nhật tái vũ trang” sẽ làm thay đổi cán
cân chiến lược tại Đông Á như thế nào, thì Trung Quốc gây ra khủng hoảng tại
Biển Đông, nhằm: (1) kích động tinh thần dân tộc (cực đoan) của người Trung
Quốc, (2) phô diễn sức mạnh mới để đòi thay đổi nguyên trạng (với Mỹ) tại Đông
Nam Á, (3) áp đặt chủ quyền tiến tới độc chiếm Biển Đông nơi giàu tài nguyên
biển (dầu hỏa và hải sản), có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng (hơn cả Biển
Hoa Đông), trong khi ASEAN còn yếu, dễ phân hóa, và cam kết của Mỹ tại đây còn
lỏng lẻo (so với Nhật Bản và Hàn Quốc). Nhưng cái giá phải trả (và hệ quả không
định trước) của việc Trung Quốc đưa dàn khoan HD 981 vào Biển Đông (5/2014),
ráo riết san lấp các đảo nửa chìm nửa nổi và xây dựng sân bay và hạ tầng quân
sự trên 7 đảo tại khu vực Hoàng Sa và Trường Sa, cũng rất lớn, chưa thể lường
hết được.
Sự kiện dàn khoan
HD981 đã tạo ra một bước ngoặt lớn (và khủng hoảng) trong quan hệ Trung-Việt,
làm thay đổi cán cân tam giác chiến lược Mỹ-Trung-Việt tại Đông Á. Muốn hay
không, lãnh đạo Hà Nội (nhất là phái bảo thủ) đã bị sốc, buộc phải xem xét lại
những cam kết với Trung Quốc (tại Thành Đô), phải “xoay trục” xích lại gần Mỹ
hơn. Chuyến thăm Mỹ chính thức của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là một dẫn
chứng. Muốn hay không, Chính quyền Obama cũng buộc phải xem xét lại chính sách
Trung Quốc, phải “xoay trục” mạnh hơn để “tái cân bằng” quyền lực với Trung
Quốc tại Đông Á, thúc đẩy tiến trình ký kết thỏa thuận TPP, tăng cường cam kết
an ninh và hợp tác quốc phòng với ASEAN (đặc biệt là với Philippines và Việt
Nam) để “ngăn chặn” Trung Quốc. Washington đã quyết định điều tàu chiến tuần
tra đảm bảo tự do hàng hải (FONOP) tại Biển Đông (2 lần với “innocent passage”)
trong khu vực 12 hải lý quanh các đảo đang tranh chấp tại Trường Sa và Hoàng
Sa, để thách thức Trung Quốc.
Tuy nhiên, những
tuyên bố và hành động để triển khai chính sách “tái cân bằng” của Chính quyền
Obama (từ năm 2011) chưa phải là một chiến lược tổng thể rõ ràng, chặt chẽ và
nhất quán cho khu vực Châu Á-TBD, đặc biệt là để đối phó với sự trỗi dậy của
Trung Quốc đang hành xử một cách quyết đoán, cưỡng ép các nước khác tại Biển
Đông. Điều này đòi hỏi Mỹ phải đánh giá lại chính sách đối với Trung Quốc, việc
phối hợp với đồng minh và đối tác để duy trì trật tự và ổn định tại đây, nếu
không Trung Quốc sẽ biến Biển Đông “thành cái ao nhà của họ vào năm 2030, giống
như biển Caribbean hoặc vịnh Mexico đối với Mỹ”. (Asia-Pacific Rebalance
2025, CSIS Report, January 2016).
Việt Nam đang ở
đâu?
Trong 124 nền kinh tế trên thế giới được World Bank đánh giá,
có 52 nền kinh tế ở mức thu nhập trung
bình, trong đó có 35
nước đã rơi vào bẫy thu nhập
trung bình, nhưng chỉ có 13 nước đã vượt qua được cái bẫy này để trở thành những nước có
thu nhập cao. Ở khu vực Đông Á chỉ có 5 nền kinh tế là Nhật Bản, Hong Kong, Đài
Loan, Hàn Quốc, Singapore nằm trong số đó.
Thường các nước bị
sa vào bẫy thu nhập trung bình khi tốc độ tăng trưởng bị trì trệ kéo dài nhiều
năm mà không vượt qua được mức thu nhập trung bình (khoảng từ 2000 đến 4000
USD/năm). Việt Nam thuộc nhóm nước thu nhập trung bình thấp, có nguy cơ rơi vào
bẫy thu nhập trung bình. Trong khi tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2015 là
6,68% thì thu nhập bình quân đầu người là 2.300 USD/năm. Theo con số của
Tổng cục Thống kê (tại hội thảo “Cải cách thể chế kinh tế Việt Nam để hội nhập
và phát triển giai đoan 2015-2035”) bình quân đầu người của Việt Nam đã bị tụt
hậu sau Hàn Quốc 35 năm, sau Malaysia 25 năm, sau Thailand 20 năm, sau
Indonesia và Philippines 5-7 năm. Năng suất lao động và chất lượng nguồn nhân
lực của Việt Nam rất thấp (so với các nước khu vực Châu Á).
Nhưng điều còn
đáng lo ngại hơn là chính phủ Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào chính phủ Trung
Quốc cả về kinh tế lẫn chính trị (trong khi phong trào nhân quyền và dân chủ
hóa tại hai nước chẳng liên kết gì với nhau). Chưa biết TPP có giúp tháo gỡ
được vấn nạn này hay không, nhưng hiện nay tỷ trọng nguyên liệu đầu vào phải
nhập của Trung Quốc là 60%. Cơ cấu này đang gây khó khăn rất lớn cho Việt Nam
khi tham gia TPP, vì một điều kiện tiên quyết để tham gia TPP là Việt Nam phải
chuyển đổi vùng nguyên liệu nhập từ các nước ngoài TPP (như Trung Quốc) sang
các nước thành viên TPP. Một vấn nạn khác là các nhà thầu Trung Quốc là tổng
thầu EPC của 77/106 dự án lớn tại Việt Nam, trong các lĩnh vực quan trọng như
hóa chất, khai thác chế biến bauxite, xi măng và nhiệt điện.
Về thương mại,
Việt Nam tiếp tục nhập siêu khổng lồ từ Trung Quốc: năm 2015 là 32,3 tỷ USD,
tăng 12,5% so với năm 2014 và được coi là con số cao nhất từ trước đến nay. Nếu
tính cả con số nhập lậu (theo “tiểu ngạch”) khoảng 20 tỷ USD thì tổng giá trị
nhập siêu từ Trung Quốc năm 2015 là gần 52 tỷ USD. Về tài chính, Việt nam
thâm hụt ngân sách quá lớn vì bội chi, dự trữ ngân sách chỉ đủ để trả nợ nước
ngoài đến hạn. Trong khi nguồn vay ưu đãi ODA đang cạn dần, thì 33 tỷ USD đã
chạy khỏi Việt Nam (năm 2015) bằng nhiều con đường bất hợp pháp (rất khó kiểm
soát) như buôn lậu, hoán đổi, mua tài sản để rửa tiền, dùng đồng tiền ảo. (Theo
chuyên gia kinh tế Vũ Quang Việt).
Nợ công của Việt
Nam đã lên tới 93 tỷ USD (tính đến cuối 2015). Theo Bộ Tài chính, nợ công chiếm
61,3% GDP, riêng nợ nước ngoài là 65,46 tỷ USD (bằng 41,5% GDP). Các doanh
ghiệp nhà nước vay đến 1,6 triệu tỷ VND, nhưng sử dụng vốn không hiệu quả, và
mất khả năng thanh toán. Năm 2015, số doanh nghiệp phá sản tăng vọt, trong 7
tháng đầu năm cả nước có 32.373 doanh nghiệp ngừng hoạt động. Không thể hy vọng
các nhà tài trợ xóa nợ cho Việt Nam (một đất nước “không chịu phát triển”).
Việt Nam đang chịu sức ép rất lớn phải cải cách thể chế, nhưng vẫn tìm cách trì
hoãn cải tổ, duy trì “định hướng XHCN”. Đã đến lúc Việt Nam không thể trì hoãn
đổi mới thể chế, không thể coi thường sự hợp tác và sức ép của cộng đồng quốc
tế, đặc biệt là các nhà tài trợ. Giám đốc World Bank tại Việt Nam (Victoria
Kwakwa) đã thẳng thắn hỏi thủ tướng, “Chính phủ Việt Nam lấy tiền đâu để phát
triển nhanh và bền vững?”
Thay lời kết
Sau Đại hội Đảng,
dàn lãnh đạo mới tại Hà Nội phải tiếp tục trả lời câu hỏi trớ trêu này, trong
khi họ tiếp thu một di sản kinh tế và xã hội đầy bất ổn. Trong khi đó, vấn đề
cải cách thể chế cấp bách mà Bộ trưởng KH & ĐT) Bùi Quang Vinh đặt ra tại
Đại hội Đảng có thể bị bỏ qua. Nếu Việt Nam không chịu đổi mới thể chế chính
trị thì khó thoát khỏi cái bóng đen của Trung Quốc đang đè nặng lên số phận của
dân tộc này, và lối thoát tại cuối đường hầm ý thức hệ vẫn chưa tìm thấy.
Dù cuộc gặp thượng
đỉnh Mỹ-ASEAN sắp tới tại Sunnylands (15-16/2/2016) có bàn về Biển Đông thì vai
trò của Việt Nam có thể mờ nhạt, vì thủ tướng (lameduck) sẽ không tham dự mà
chỉ có một phó thủ tướng đi thay, trong bối cảnh “hậu Đại hội Đảng”. Nếu Việt
Nam không thay đổi thể chế, thì chuyến thăm cuối cùng của Tổng thống Obama (dự
kiến vào 5/2016) có thể trở thành một chuyến thăm xã giao, và tầm nhìn chiến
lược có thể trở thành nửa vời (vì hai nước vẫn chưa trở thành đối tác chiến
lược). Việt Nam có thể nhỡ chuyến tàu một lần nữa, trong khi Trung Quốc mỉm
cười đắc ý…
Tham khảo
1. Andrew Browne,
“the Great Chinese exodus”, the Wall Street Journal, August 15, 2014
2. Gordon Chang,
“the Coming Collapse of China”, Random House, 2001; Gordon Chang, “the Coming
Collapse of China: 2012 Edition”, Foreign Policy, December 29, 2011
3. Andrew Nathan,
“Authoritarian Resilience”, Journal of Democracy, January 2003; Andrew Nathan,
“China’s Challenge”, Journal of Democracy”, January 2015
4. Francis
Fukuama, “Political Order and Political Decay”, Farrar Straus Giroux, 2014
5. Minxin Pei,
“China’s Trapped Transition: The Limits of Development Autocracy”, Harvard University
Press, 2006; Minxin Pei, “China’s Rule of fear”, Project Syndicate, February 8,
2016
6. Paul Krugman,
“Hitting China’s Wall”, the New York Times, July 18, 2013
7. David
Shambaugh, “The Coming Chinese Crackup”, the Wall Street Journal, March 6, 2015).
8. “Asia-Pacific
Rebalance 2025”, CSIS Report, January 2016.
NQD. 12/2/2016.
* * *
Nguồn: Theo Viet-studies