Cách
đây đã lâu, giới phóng viên nước ngoài thường trú tại Hà Nội có tiến hành một
cuộc thăm dò nhỏ trong giới với câu hỏi “Ai trong số các phóng viên nước
ngoài trong các giai đoạn lịch sử quân sự từ các năm 40 đến các năm 70 của
thế kỷ XX đã viết đầy đủ nhất, nhiều nhất và khách quan nhất về các sự kiện ở
Đông Dương?”.
Có 4
người được lựa chọn là: Nữ nhà báo Pháp M. Riffo, nhà báo Úc R. Burchett và 2
phóng viên chiến trường Nga là I. Shedrov và M. Ilinski. Năm 2000, M.Ilinski
là viện sỹ của 3 Viện hàn lâm Nga và thế giới, 3 người còn lại đều đã mất.
Nhân tháng hai, xin trích dịch một
phần nhỏ nói về cuộc chiến này của M.Ilinski trong quyển hồi ký “Đông Dương,
đống tro tàn của bốn cuộc chiến tranh” của ông do nhà xuất bản “Veche”
Matxcova ấn hành năm 2000 thuộc seri sách “Những bí mật quân sự thế kỷ XX”.
Xin nói thêm là M.Ilnski là người đã trực tiếp có mặt tại chiến trường biên
giới phía Bắc suốt thời gian chiến sự. Do dịch từ tiếng Nga nên một số địa
danh và tên rất có thể không chính xác, kính mong bạn đọc thông cảm và bổ
sung.
Phần
mở đầu của tác giả
Các
phóng viên nước ngoài thường trú tại Hà Nội được triệu tập đến Vụ báo chí Bộ
ngoại giao Việt Nam (không rõ ngày tháng –ND). Tại đây, một từ khủng khiếp
lại được nhắc đến: “Chiến tranh!”. Các phóng viên được thông báo:
“Cần
phải chuẩn bị sẵn sàng để làm việc tại các trận địa chiến đấu. Các gia đình
(của các phóng viên) cần phải sơ tán ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Những ai
không kịp sơ tán cần chuẩn bị đổ đầy xăng vào xe để chí ít cũng chạy
được khoảng 700 km”. Con trai tôi (Ilinski) là Vasili lúc ấy mới 8 tuổi
không có ý định sơ tán. Không những thế, cậu còn đòi cấp cho cậu một khẩu
súng ngắn. Quả là một chàng trai thực sự. Nhưng dĩ nhiên, không ai cấp súng
cho cậu.
1. Khiêu
khích tại khu vực biên giới
Từ
đầu tháng 8/1978, khi các cuộc đàm phán cấp thứ trưởng Bộ ngoại giao Việt Nam
và Trung Quốc về vấn đề Hoa kiều bắt đầu được tiến hành, chính quyền Trung
Quốc cũng đồng thời bắt đầu tăng cường các hoạt động khiêu khích quân sự
chống Việt Nam trên suốt dọc tuyến biên giới Trung- Việt.
Thực
ra, các hành động xâm nhập biên giới đã được phía Trung Quốc tiến hành một
cách có hệ thống ngay từ năm 1974. Năm 1975, đã có tới 294 lần các nhóm vũ
trang Trung Quốc xâm nhập lãnh thổ Việt Nam.
Năm
1976, con số các vụ vi phạm đường biên giới là 812, năm 1977- là 873 và đến
năm 1978, con số trên đã là 2.175 vụ. Tháng 1/1974, Lực lượng vũ trang Trung
Quốc đã đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa. Năm 1978, số vụ quân đội Trung Quốc xâm
phạm chủ quyền lãnh thổ Việt Nam tăng lên từng ngày.
Hoạt
động gián điệp, khiêu khích quân sự, phá hoại kinh tế, đe dọa dạy cho “ Việt
Nam vô ơn một bài học”, kêu gọi Hoa kiều rời Việt Nam- đây là tất cả những
biện pháp phá hoại (nhiều mặt) mà các cơ quan đặc biệt Trung Quốc sử dụng để
chống Việt Nam. Họ đã chuẩn bị chiến tranh như thế đấy.
2.
Trích từ thông báo của Bộ tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam
“
Ngày 10, 15 và 23/8 năm 1978, các cơ quan đặc biệt (tình báo) Bắc Kinh đã
điều hàng trăm tàu đánh cá Trung Quốc xâm nhập lãnh hải Việt Nam tại khu vực
các đảo thuộc các tỉnh Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh (Nghệ An và Hà Tĩnh),
Bình Trị Thiên (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên- Huế) ngăn cản ngư dân Việt
Nam hành nghề và đe dọa an ninh Việt Nam. Các máy bay Trung Quốc xâm phạm
không phận Việt Nam tại các tỉnh Quảng Ninh và Cao Bằng”.
3. Trích
từ sổ tay công tác (của M.Ilinski)
Thứ hai 24/10 (1978). Tại khu vực biên giới tỉnh
Hoàng Liên Sơn, lính Trung Quốc đã tiến hành các hoạt động trinh sát vào sâu
trong lãnh thổ Việt Nam, bắt cóc công dân Việt Nam.
Thứ
năm 22/12.
chính quyền Trung Quốc đơn phương chấm dứt việc vận chuyển hành khách và hàng
hóa theo tuyến đường sắt quốc tế nối Trung Quốc với Việt Nam. Lý do được đưa
ra là: "tuyến đường sắt khu vực biên giới trên lãnh thổ Trung Quốc bị hư
hỏng nặng và gây nguy hiểm cho việc vận hành các đoàn tàu”. Thực ra đây chỉ
là cái cớ để che đậy chính sách chống Việt Nam của giới cầm quyền Trung Quốc.
Thứ
năm 28/12. Lực
lượng khiêu khích Trung Quốc đã tấn công làng Lũng Nội ( ?? ) và đã sát hại
một lính biên phòng Việt Nam.
Chủ
nhật 31/12. Các
phóng viên và các nhà ngoại giao, tập trung đón tết tại khách sạn “ Bờ Hồ”
ven Hồ Hoàn Kiếm đều cho rằng chiến tranh là không tránh khỏi. Họ chỉ không
thống nhất được với nhau về thời điểm bắt đầu chiến tranh. Có người còn đưa
ra thời điểm cụ thể: giữa tháng hai năm 1979.
Thứ
hai, 8/01/1979. Một
tàu vận tải Trung Quốc có lượng giãn nước 40 tấn đã xâm nhập sâu vào lãnh hải
Việt Nam tại khu vực đảo Trà Cổ huyện Móng Cái. Lính biên phòng Việt Nam yêu
cầu tàu ngay lập tức ra khỏi lãnh hải Việt Nam. Nhưng tàu này không những
không chấp hành mà còn bắn về phía lính biên phòng Việt Nam. Đến 11 giờ thì
có thêm 2 tàu quân sự Trung Quốc đến hỗ trợ cho con tàu trên. Liệu đây có
phải là một “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” mới như CIA đã từng tiến hành năm 1964?
Thứ
bảy 11/01. Vào
lúc 5 giờ sáng, lính Trung Quốc xâm nhập sâu đến 500 m vào lãnh thổ Việt nam
ở tinh Móng Cái, 01 công nhân Việt Nam bị giết hại và 2 người khác bị thương
nặng. Lính Trung Quốc cũng bắt đi một nữ công nhân lâm trường.
Thứ
bảy 27/01.
Những kẻ khiêu khích Trung Quốc đã xả súng vào lính biên phòng và dân thường
Việt Nam tại tỉnh Hoàng Liên Sơn. 3 chiến sỹ biên phòng Việt Nam bị thương
nặng.
Chủ nhật 28/01. Phát hiện Trung Quốc
tập trung đông quân ở khu vực Móng Cái tỉnh Quảng Ninh. Những kẻ khiêu khích
ném lựu đạn và tung hàng nghìn truyền đơn.
Thứ
hai 29/01. Hơn
150 lính Trung Quốc xâm nhập lãnh thổ Việt Nam qua cửa “Hữu Nghị” tại tỉnh
Lạng Sơn. 10 g30, những kẻ xâm nhập bắt đầu bắn đạn cối và súng máy. Một số
lính biên phòng Việt Nam bị thương. Lính biên phòng Việt Nam buộc phải nổ
súng bắn trả và đánh bật các kẻ xâm nhập sang bên kia biên giới.
Thứ ba 30/01. Trong thời gian “Tết” (cả
Việt Nam và Trung Quốc đều đón tết âm lịch), những kẻ khiêu khích Bắc Kinh
vẫn không chấm dứt các hành động xâm nhập vũ trang, bắn phá các điểm dân cư
trên dọc toàn bộ tuyến biên giới. Tại các đèo, các cửa qua lại trên biên
giới, phía Trung Quốc bố trí rất nhiều các loa phóng thanh và phát nhiều lần
trong ngày, nội dung: dọa dẫm dân chúng Việt Nam là sẽ phát động chiến tranh
và trừng phạt “bọn Việt Nam vô ơn”. …..
Thứ ba, 06/02 . Một đại đội lính Trung Quốc
tấn công một đồn biên phòng gồm 13 lính biên phòng Việt Nam. 3 chiến sỹ biên
phòng hy sinh, 6 bị thương và 3 bị bắt đưa về Trung Quốc. Đây là lần đầu
tiên một sự việc như vậy xảy ra tại tinh Lai Châu.
Mười
một ngày sau đó, rạng sáng ngày 17/02/1979, Trung Quốc tấn công Việt Nam.
Trung
Quốc chọn thời điểm ngày 17/02 không phải là ngẫu nhiên. Bắc Kinh đã hoàn
thành công tác chuẩn bị chính trị- tâm lý và quân sự. Không những thế, còn
tiến hành thăm dò ngoại giao. Trước đó, Đặng Tiểu Bình đã có chuyến thăm
Washington và Tokyo.
Trung
Quốc muốn trừng phạt Việt Nam vì sự sụp đổ của chế độ Polpot; nắn gân lực
lượng phòng thủ biên giới của Việt Nam, và nếu có thể được thì tiến thẳng vào
Hà Nội; một lần nữa đưa ra đòi hỏi về lãnh thổ đối với các quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa.
4.
Thông tin bổ sung để biết và suy ngẫm (cũng của tác giả M.Ilinski)
Trong
thời kỳ thuộc địa, cả 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa đều là lãnh thổ của xứ
Đông Dương thuộc Pháp. Tại các nơi đó đã có các đơn vị đồn trú bảo vệ do lính
Việt Nam đảm nhiệm. Năm 1927, con tàu “ De Lanessan (Pháp) đã đưa một đoàn
thám hiểm- tìm kiếm Pháp đổ bộ lên quần đảo Trường Sa.
Năm
1930, với sự có mặt của tàu tuần tiễu La Malises, quần đảo Trường Sa chính
thức thuộc quyền quản lý của Pháp. Năm 1933, sau chuyến thám hiểm do 3 tàu
Pháp tiến hành, Pháp chính thức tuyên bố chủ quyền đối với 2 quần đảo Trường
Sa và Hoàng Sa. Sau đó, Trường Sa được sát nhập vào tỉnh Ba Rịa, còn trên đảo
Thái Bình, Pháp đã xây dựng một trạm khí tượng
Vào
năm 1951, tại Hội nghị San Fransisco, các bên tham dự Hội nghị đã công nhận
chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Sau đó mấy năm, khi
Pháp rút quân viễn chinh ra khỏi Việt Nam, chính phủ Sài Gòn đã thành lập các
cơ quan chính quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa.
Từ
năm 1961, về mặt hành chính Hoàng Sa trực thuộc tỉnh Quảng Nam của Cộng hòa
Việt Nam. Việt Nam đã tiến hành kiểm soát, thăm dò và khai thác tài nguyên
thiên nhiên trên cả 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Trong tuyên bố ngày
30/12/1978, Bộ ngoại giao nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tái khẳng
định là Hoàng Sa và Trường Sa là phần lãnh thổ không thể tách rời của Việt
Nam.
5.
Một vài ý kiến của các nhà nghiên cứu và dư luận Mỹ (do tác giả trích)
Giáo
sư R.Hager thuộc Trường đại học Jacson ( Mỹ), trong thời gian chiến tranh
(chống Mỹ) là sỹ quan tình báo Không quân Mỹ trực tiếp tham chiến tại chiến
trường Việt Nam khẳng định rằng: theo các dữ liệu của Tình báo Không quân và
Lục quân Mỹ thì Trung Quốc đã lấy hết những loại vũ khí tốt nhất (mà Liên Xô)
cung cấp cho Việt Nam quá cảnh qua Trung Quốc.
Những
ví dụ cụ thể: Trung Quốc đã biển thủ các tên lửa Liên Xô cung cấp cho Việt
Nam để đánh trả các cuộc không kích của Không quân Mỹ. Bằng những hành động
trên, theo nhận xét của R. Hager, Trung Quốc đã bán đứng Việt Nam, chứ không
phải là “dành cho Việt nam sự giúp đỡ vô tư hào phóng” như vẫn thường rêu
rao.
Theo
tờ “Christian Science” ( Mỹ) thì Trung Quốc đã tìm mọi cách để ngăn cản Việt
Nam đấu tranh chống lại các âm mưu của Mỹ phá hoại Hiệp định Paris. Các nhà
ngoại giao Trung Quốc đã khuyến cáo Mỹ không nên rút quân ra khỏi Đông Nam Á.
6.
Vài nhận xét của tác giả
Tiến
hành một cuộc phiêu lưu quân sự chống Việt Nam, các nhà cầm quyền Trung Quốc
đã để lộ bộ mặt thật là những kẻ thừa kế tư tưởng bành trướng Đại Hán, ép
nước này thay đổi đường lối chính trị, dọa dẫm Lào, ủng hộ lực lượng Polpot
còn sót lại ở Căm Pu Chia. Đây là ba mục tiêu chính của cuộc chiến chống Việt
Nam.
Chiến
tranh đã kéo dài một tháng, kết thúc bằng thảm bại của Trung Quốc cả về chính
trị lẫn quân sự. 1/10 số lính Trung Quốc (trong số 600.000 quân tham chiến)
đã bị loại khỏi vòng chiến đấu.
Cuộc
chiến này cũng làm lộ rõ bộ mặt thật của những kẻ xâm lược. Trong thời gian
từ 17/02 đến 18/3, lính Trung Quốc đã giết và làm bị thương hàng trăm trẻ em
Việt Nam, cắt cổ tất cả các thành viên của nhiều gia đình. Tôi (Ilinski )
thường liên tưởng tới vụ thảm sát Sơn Mỹ. Trong suốt thời gian xảy ra chiến
sự, tôi (Ilinski) đã có mặt trên tuyến biên giới Việt- Trung (và được trao
tặng giải thưởng của Hội nhà báo Liên Xô vì những bài phóng sự viết tại đây).
Và
đây là những gì tôi đã chứng kiến:
Lính
Trung Quốc đã giết 43 phụ nữ và trẻ em, thiêu sống 27 người ở Cao Bằng. Xóa
sổ 164 làng, phá hủy 25 hầm mỏ, 55 xí nghiệp công nghiệp (trong số 68 xí
nghiệp bị chúng tấn công). Các hầm mỏ khai thác apatit và thiếc có ý nghĩa
kinh tế quan trọng bị hư hại nặng. Phá hủy hoàn toàn xí nghiệp dệt ở Lào Cai.
Mạng
lưới giao thông ở phía Bắc Việt Nam bị hư hại nặng. Các cầu, công trình thủy
lợi, 10 nhà máy thủy điện và các trạm bơm nước đều bị phá hỏng hoặc phá hủy;
lính Trung Quốc dùng mìn đánh hỏng 90 km đường sắt. Phá hủy và cướp 500 xe ô
tô, 20.000 con trâu bò và ngựa, đốt 34 khu rừng , thiêu trụi hàng nghìn hecta
rừng ở Lai Châu, Hà Tuyên, Cao Bằng, Quảng Ninh và Lạng Sơn.
Trung
Quốc khởi động chiến tranh vào mùa gieo cấy vụ xuân, chính vì vậy mà nông dân
không thể trồng trọt được trên 85.000 hecta đất canh tác. Bọn xâm lược đã ăn
cướp của nông dân gạo và các loại lương thực khác, dụng cụ sinh hoạt gia
đình, thậm chí cả khung cửa sổ và cánh cửa.
Trong
6 tỉnh phía bắc Việt Nam đã có 45.000 ngôi nhà ở nông thôn và 600.000 m2 nhà
ở tại các thành phố thị xã bị phá hủy. 350.000 người sống cảnh màn trời chiếu
đất. Phá hủy 32 trường chuyên nghiệp, hơn 900 trường phổ thông; 180.000 học
sinh không được đến trường; tài sản của 428 bệnh viện, trạm y tế và hiệu
thuốc bị chúng cướp đi.
Thêm
một nỗi đau riêng của giới làm báo. Ngày 7/3/1979, tại Lạng Sơn, người đồng
nghiệp, đồng chí và là người bạn rất thân của tôi – phóng viên Nhật Bản Isao
Takano đã bị sát hại.
Một
viên đạn bắn tỉa của lính Trung Quốc đã bắn xuyên thái dương từ phải sang
trái của Takano. Tôi là người cuối cùng nhìn thấy Takano còn sống trên mặt
trận. Chính tôi đã đưa xác anh vào xe. (sau này, nhà nước Việt Nam đã truy
tặng I. Takano huấn chương “ Hữu nghị” (chú thích là của tác giả).
7.
Bọn xâm lược đã bị đánh trả đích đáng như thế nào
Sáng
sớm ngày 19/3/1979. Phòng trực trụ sở báo “ Izvestia” tại Hà Nội vang lên
tiếng chuông điện thoại. Trực ban Vụ báo chí Bộ ngoại giao Việt Nam thông báo
là chiều nay, vào lúc 14 h, tại Câu lạc bộ quốc tế sẽ diễn ra cuộc họp báo do
tướng Cao Văn Khánh, Phó tổng tham mưu trưởng QĐNDVN chủ trì phân tích kết
quả tình hình quân sự từ 17/2 đến 18/3.
Có lẽ
chưa bao giờ tại Câu lạc bộ quốc tế Hà Nội lại tập trung nhiều phóng viên
nước ngoài đến như vậy. Có cả những phóng viên tự xưng là trung lập vừa bay
đến Việt Nam để dự cuộc họp báo này, nhưng có lẽ không khó để nhận ra rằng,
trong một chừng mực nào đó, các phóng viên nói trên có “quan hệ” với các cơ
quan đặc biệt Mỹ và Trung Quốc.
Mở
đầu cuộc họp báo, tướng Cao Văn Khánh đưa ra một số đánh giá về khía cạnh
chính trị của cuộc xâm lược của Trung Quốc…
Tuy
mới chỉ có bộ đội biên phòng, bộ đội địa phương, dân quân và toàn bộ nhân dân
vùng biên giới tham chiến đánh trả bọn bành trướng xâm lược vàViệt Nam
chưa đưa bộ đội chủ lực vào tham chiến (chữ in nghiêng là của tác
giả -ND) nhưng đã làm cho địch phải chịu những thất bại nặng nề .
Trong
ba mươi ngày đêm chiến sự cực kỳ khốc liệt, quân dân Việt Nam đã loại khỏi
vòng chiến đấu 62.500 tên xâm lược (hơn 1/10 lực lượng tham chiến), xóa sổ 3
trung đoàn và 18 tiểu đoàn, bắn cháy 550 xe chiến đấu, trong đó có 280 xe
tăng và xe vận tải bọc thép, phá hủy 115 khẩu pháo và súng cối, thu nhiều vũ
khí và đạn dược. Bắt nhiều tù binh.
Một
phóng viên Phương Tây yêu cầu làm rõ con số tù binh. Tướng Khánh chỉ về phía
nhóm phóng viên truyền hình Mỹ và nói: “ Xin hãy hỏi họ. Họ mới ở một trại tù
binh về. Chỉ riêng trong trại đó đã có 104 tù binh Trung Quốc”.
Phóng
viên “ France Press” hỏi về nguyên nhân tại sao tốc độ xâm nhập của quân
Trung Quốc lại chậm như vậy, và tại sao quân Trung Quốc chỉ có thể vào sâu
trong lãnh thổ Việt Nam tối đa là 10 đến 50 km. Tuy nhiên, sau đó ông đã tự
nhận xét ngay tại cuộc họp báo là chiến dịch quân sự của Trung Quốc là một
thất bại thảm hại cả về khía cạnh chính trị lẫn quân sự.
Khi
xâm nhập Việt Nam, quân Trung Quốc cũng đi qua 30 eo núi và đèo mà hàng nghìn
năm nay quân xâm lược Phương Bắc đã từng đi qua để tới đồng bằng Sông Hồng.
Tính toán ban đầu của Trung Quốc là trong vòng 2 đến 3 ngày đêm sẽ quét sạch
lực lượng biên phòng Việt Nam, chiếm Hoàng Liên Sơn mà không phải chịu tổn
thất nào đáng kể .
Trung
Quốc còn lên kế hoạch là tại các khu vực biên giới, nơi Trung Quốc đã cài cắm
rất nhiều gián điệp, các dân tộc thiểu số sẽ nổi loạn chống chính quyền và
đòi tách ra khỏi Việt Nam.
Thế
nhưng bọn xâm lược đã thất bại trên tất cả các mặt. Tốc độ hành quân sâu vào
nội địa không vượt quá 2 đến 3 km một ngày đêm. “ Biển người Trung Quốc” đã
bị chững lại trước ý chí sắt thép của quân dân Việt Nam.
Bộ
đội biên phòng, bộ đội địa phương, dân quân du kích đã đánh lùi quân xâm
lược. Trung Quốc đã tung hơn 20 sư đoàn vào cuộc chiến và 1/10 trong số đó đã
nằm lại trên đất Việt Nam, không vào sâu được quá 50 km (đấy là các nhóm biệt
kích, còn lực lượng chủ lực chỉ tiến đến Phố Lu là tối đa- cách biên giới 34
km).
Tính
toán về việc nhân dân các dân tộc thiểu số nổi loạn cũng không thành. Các cơ
quan an ninh quốc gia , bộ đội biên phòng kết hợp với nhân dân địa phương đã
bắt giữ bọn gián điệp. Nhân dân các dân tộc Việt Nam một lần nữa thể hiện ý
chí thống nhất dân tộc.
“Đối
với nhân dân Việt Nam, mỗi tấc đất của tổ quốc là thiêng liêng- tướng Khánh
nói,- Kẻ thù sẽ không báo giờ có thể cướp được dù một mẩu đất của chúng tôi.
Chúng tôi phải luôn luôn cảnh giác và sẵn sàng đánh trả bọn xâm lược, nếu như
chúng không từ bỏ các âm mưu bành trướng”.
Nhưng
không nên nghĩ rằng, sau khi chịu thất bại mùa xuân năm 1979, giới lãnh đạo
Bắc Kinh sẽ từ bỏ các kế hoạch bành trướng. Bắc Kinh vẫn tiếp tục đưa ra các lời đe dọa
“dạy cho Việt Nam một bài học thứ hai”. Các đơn vị quân đội (Trung Quốc) được
tăng cường ở khu vực biên giới, gồm cả các đơn vị tăng và pháo binh .
Thêm một nỗi đau riêng của giới làm báo. Ngày 7/3/1979, tại Lạng Sơn, người đồng nghiệp, đồng chí và là người bạn rất thân của tôi – phóng viên Nhật Bản Isao Takano đã bị sát hại.
Một viên đạn bắn tỉa của lính Trung Quốc đã bắn xuyên thái dương từ phải sang trái của Takano. Tôi là người cuối cùng nhìn thấy Takano còn sống trên mặt trận. Chính tôi đã đưa xác anh vào xe. (sau này, nhà nước Việt Nam đã truy tặng I. Takano huấn chương “ Hữu nghị” (chú thích là của tác giả).
8.
Gieo gió…
Ngày
5/3/1979, Bắc Kinh tuyên bố bắt đầu rút quân. Còn nhớ vào thời kỳ căng thẳng
nhất của cuộc chiến tranh Việt Nam (chống Mỹ), khi một số quan chức Mỹ đã
nhận thức được là không thể thắng trong cuộc chiến này, thượng nghị sỹ Mỹ
J.Iken đã khuyên chính phủ Mỹ: “ Hãy tuyên bố với toàn thế giới là Mỹ đã
thắng trong cuộc chiến và rút quân ra khỏi Việt Nam”. Rất tiếc là chính quyền
lúc đó đã không nghe theo lời khuyên và sau này đã rất hối tiếc.
Có lẽ,
lời khuyên của Thượng nghị sỹ Mỹ này rất có ích cho Bắc Kinh. Việc rút quân
được tuyên truyền ầm ỹ như một thắng lợi của Trung Quốc. Báo “ Quang minh
nhật báo” còn “chúc mừng” Quân đội (Trung Quốc) đã giành được “một chiến
thắng lớn”.
Nhưng
toàn thế giới đều biết rằng, Việt Nam chưa cần sử dụng quân chủ lực đã đập
tan đội quân tấn công của Trung Quốc.
Lê
Hùng (dịch
)