By Walter Isaacson
Trần Ngọc Cư dịch
Einstein biết nói chậm. “Cha mẹ tôi lo lắng
đến nỗi phải hỏi ý kiến một bác sĩ,” sau này ông nhớ lại. Thậm chí sau khi bắt
đầu biết nói, vào khoảng hơn hai tuổi, Einstein phát triển một dị tật khiến cô
giúp việc tặng cậu biệt hiệu “der Depperte,” thằng trì độn. Mỗi lần muốn nói một
điều gì, cậu bé thường tự thử qua thính giác của mình trước, nói thì thầm trong
miệng cho đến khi nghe thuận tai mới phát âm lớn. Cô em gái vốn coi Einstein
như thần tượng nhớ lại, “Bất cứ câu nào anh ấy thốt ra, dù thông thường đến
đâu, anh cũng mấp máy môi lặp đi lặp lại thì thầm trong miệng trước.” Tật này
khiến mọi người hết sức lo lắng, cô nói. “Anh ấy gặp khó khăn với ngôn ngữ khiến
mọi người chung quanh sợ rằng anh sẽ không bao giờ học hành gì được.”
Sự phát triển trì trệ đi kèm với tính bất
trị và ngỗ nghịch đối với quyền trên [authority] đã khiến một hiệu trưởng đuổi
Einstein ra khỏi trường và một hiệu trưởng khác tuyên bố thẳng thừng rằng tương
lai của cậu bé sẽ không ra gì. Những cá tính này làm cho Albert Einstein trở
thành thánh bổn mạng của các học sinh lơ đảng ở khắp mọi nơi. Nhưng chúng cũng
giúp ông trở thành thiên tài sáng tạo nhất trong thời hiện đại, hay mãi về sau
ông mới suy đoán ra điều này.
Tính ngông nghênh khinh mạn quyền trên đã
thúc đẩy Einstein đặt nghi vấn đối với trí tuệ được tiếp thu trong những cung
cách các đệ tử thành thục của giới hàn lâm không bao giờ nghĩ đến. Còn về khả
năng ngôn ngữ chậm phát triển của ông, ông tin rằng điều này đã cho phép ông
quan sát các hiện tượng thường ngày bằng đôi mắt ngạc nhiên trong khi người
khác lại coi thường. Thay vì thắc mắc về những điều bí nhiệm, ông chỉ thắc mắc
về chuyện tầm thường. “Mỗi lần tự hỏi vì sao chỉ một mình tôi tìm ra thuyết
tương đối, tôi cảm thấy hình như việc đó đã rơi vào trường hợp sau đây,”
Einstein có lần giải thích. “Người lớn bình thường không bao giờ bận tâm về các
vấn đề không gian và thời gian, mặc dù đây là những điều họ từng nghĩ đến khi
còn bé. Nhưng trí óc tôi đã phát triển chậm đến nỗi tôi chỉ bắt đầu tra hỏi về
không gian và thời gian vào lúc tôi đã hoàn toàn khôn lớn. Do đó, tôi đã nghiên
cứu sâu sắc về vấn đề này hơn bất cứ một đứa trẻ bình thường nào có thể làm được.”
Nhìn lại đời ông, gần như ta có thể lý giải
rằng sự kết hợp giữa thái độ kinh ngạc và sự nổi loạn của Einstein đã giúp ông
trở thành một nhà khoa học xuất chúng. Nhưng một điều ít ai biết đến là hai đặc
điểm này còn kết hợp lại để ảnh hưởng lên hành trình tâm linh và xác định bản
chất đức tin của ông. Phần nổi loạn [the rebellion part] trong ông bắt đầu diễn
ra ngay từ đầu đời: trước tiên, ông bác bỏ chủ nghĩa thế tục [secularism] của
cha mẹ mình và về sau ông bác bỏ luôn các quan niệm về lễ nghi tôn giáo và về một
Thượng đế mang hình bóng con người [a personal God] thường xuyên can thiệp vào
các vận hành hàng ngày của thế giới. Phần kinh phục [the awe part] trong ông diễn
ra vào tuổi ngũ tuần khi ông chấp nhận một thái độ hữu thần [a deism] dựa vào
điều mà ông gọi là “tâm linh hiển hiện trong các qui luật của vũ trụ” và một đức
tin thành khẩn đặt vào một “Thiên chúa mặc khải chính Mình [Himself] trong sự
hài hòa của mọi điều hiện hữu.”
Einstein là hậu duệ, bên nội cũng như bên
ngoại, của những chủ cửa hàng và những người bán hàng rong Do Thái đã kiếm sống
khiêm tốn trên hai thế kỷ tại các làng quê vùng Swabia miền Tây Nam nước Đức. Với
mỗi thế hệ trôi qua, họ ngày càng hội nhập vào văn hóa Đức mà họ đem lòng yêu mến
– hay họ tin như thế. Mặc dù là người Do Thái trên danh nghĩa văn hóa và bản
năng đồng loại, họ ít quan tâm đến chính tôn giáo của dân tộc mình.
Trong những năm về già, Einstein thường kể
một câu chuyện đùa xưa cũ về một ông bác theo chủ nghĩa bất khả tri [agnostic]1 vốn
là người duy nhất trong gia đình đi nhà thờ Do Thái giáo. Khi được hỏi vì sao
ông làm như vậy, ông bác trả lời ỡm ờ, “À… mà biết đâu lại có Thượng Đế.” Cha mẹ
của Einstein, trái lại, “hoàn toàn vô tín ngưỡng.” Họ không ăn kiêng mà cũng chẳng
đi nhà thờ Do Thái giáo. Theo lời kể của một người bà con, cha của ông là
Hermann coi các lễ nghi Do Thái là “những điều mê tín thời cổ.”
Vì thế, khi Albert lên 6 đến tuổi phải đi
học, cha mẹ cậu không mấy bận tâm về việc không có trường Do Thái gần nhà. Thay
vào đó, cậu đến học tại một trường Công giáo lớn nằm trong khu láng giềng của họ.
Là người Do Thái duy nhất trong 70 học sinh cùng lớp, Einstein theo học lớp
giáo lý tiêu chuẩn dành cho người theo đạo Công giáo và rốt cuộc cậu thích thú
vô cùng.
Bất chấp khuynh hướng thế tục của cha mẹ
mình, hoặc có lẽ chính vì điều này, Einstein đột nhiên phát triển một nhiệt
tình sâu sắc với Do Thái giáo. “Tình cảm của ông nồng nàn đến nỗi ông tự mình
giữ lấy giới luật Do Thái giáo đến từng chi tiết,” em gái ông kể lại. Ông tránh
ăn thịt heo, chịu kiêng cử và giữ giới luật của ngày Xa-ba [ngày thờ phượng
Chúa của người Do Thái giáo, tức ngày thứ Bảy, DG]. Ông còn đặt cả những bài
thánh ca để tự hát thì thầm trên đường đi học về.
Kích thích trí tuệ lớn nhất đối với Einstein
đến từ một sinh viên nghèo tới dùng bữa với gia đình ông mỗi tuần một lần. Mời
một đạo sư nghèo [a religious scholar] đến chia sẻ bữa ăn gia đình vào ngày
Xa-ba là phong tục lâu đời của người Do Thái; thay vì như vậy, gia đình
Einstein cải biên truyền thống này bằng cách mời một sinh viên y khoa đến dùng
bữa vào ngày thứ Năm. Tên anh là Max Talmud, và anh bắt đầu ghé lại hàng tuần
khi anh 21 tuổi và Einstein 10 tuổi.
Talmud mang cho Einstein các sách khoa học,
gồm cả một bộ sách có hình ảnh minh họa nổi tiếng được gọi Sách Khoa học Tự
nhiên của Đại chúng, “một tác phẩm tôi đọc chăm chú gần như nín thở,” Einstein
kể lại. 21 tập của bộ sách này được Aaron Bernstein soạn ra, trong
đó ông nhấn mạnh các tương quan giữa sinh học và vật lý đồng thời ghi lại rất
chi tiết các thí nghiệm được thực hiện lúc bấy giờ, đặc biệt tại Đức.
Talmud còn giúp Einstein khám phá các điều
kỳ lạ trong toán học bằng cách tặng cậu bé một cuốn sách giáo khoa hình học hai
năm trước khi cậu có thời biểu học môn này ở nhà trường. Cứ mỗi thứ Năm vào lúc
Talmud ghé lại nhà, Einstein thích thú đưa cho anh xem những bài toán cậu đã giải
xong tuần đó. Thoạt đầu, Talmud còn đủ sức kèm cậu bé, nhưng chẳng bao lâu anh
bị người học trò qua mặt. “Sau một thời gian ngắn ngủi, chỉ vài tháng, Einstein
đã làm hết các bài tập trong sách,” Talmud kể lại. “Chẳng bao lâu đường bay của
thiên tài toán học Einstein vươn tới một chiều cao tôi không còn theo dõi được
nữa.”
Việc Einstein có cơ hội tiếp cận khoa học
và toán học đã tạo ra một đột biến [a sudden transformation] ở tuổi 12, đúng
vào thời điểm lẽ ra cậu phải chuẩn bị để làm lễ thành niên [bar mitzvah].
Einstein đột nhiên bỏ Do Thái giáo. Quyết định này không có vẻ gì là phát xuất
từ các sách của Bernstein, vì tác giả đã giải thích là ông không thấy có mâu
thuẫn giữa khoa học và tôn giáo. Bernstein viết: “Thiên hướng tôn giáo nằm
trong ý thức lờ mờ có sẵn trong con người, rằng tất cả thiên nhiên, kể cả con
người trong đó, chắc chắn không phải là một trò chơi ngẫu nhiên [an accidental
game], mà là một tác phẩm của tính qui luật, ngụ ý có một nguyên nhân cơ bản
cho mọi hiện hữu trong vũ trụ.”
Về sau, Einstein sẽ tiến gần đến những cảm
nghĩ này. Nhưng vào lúc này, bước nhảy vọt tránh xa đức tin tôn giáo là một bước
nhảy vọt cực đoan. “Qua quá trình đọc các sách khoa học thịnh hành loại này, chẳng
bao lâu tôi đi đến chỗ tin chắc rằng phần lớn những câu chuyện trong Thánh kinh
có thể không có thật. Hậu quả là một sự hồ hởi cuồng tín tích cực về tự do tư
tưởng kết hợp với cảm nghĩ rằng tuổi trẻ bị Nhà nước cố tình lừa bịp thông qua
các chuyện láo khoét; đó là một cảm tưởng cực kỳ ác liệt [a crushing
impression].”
Tuy nhiên, Einstein vẫn giữ lại tàn dư của
thời ngoan đạo niên thiếu, một đức tin sâu sắc và lòng sùng kính đối với sự hài
hòa và vẻ đẹp của cái mà ông gọi trí tuệ của Thượng đế, được biểu lộ trong việc
tạo dựng vũ trụ và các qui luật của nó. Khoảng thời gian ông bước qua tuổi ngũ
tuần, Einstein bắt đầu phát biểu rõ ràng hơn – trong các bài tiểu luận, các phỏng
vấn và thư từ khác nhau-- về nhận thức ngày càng sâu sắc đức tin của mình đối với
Thượng Đế, mặc dù đó là một phiên bản Thượng Đế không mang hình bóng con người
[a rather impersonal version of God]. Một buổi tối đặc biệt của năm 1929, năm
ông đến tuổi ngũ tuần, đã đánh dấu dấu đức tin hữu thần ở tuổi trung niên của
Einstein. Ông và vợ đang dự một bữa tiệc tại Berlin thì một thực khách bày tỏ sự
tin tưởng của mình vào khoa chiêm tinh [astrology]. Einstein nhạo báng quan niệm
này là hoàn toàn mê tín. Một thực khách khác xen vào và chê bai tôn giáo một
cách tương tự. Tin vào Thượng đế, người khách nhấn mạnh, cũng là một mê tín
không hơn không kém.
Nhân lúc đó, chủ nhà cố gắng bịt miệng ông
ta bằng cách nêu lên sự thể là, ngay cả
Einstein cũng ấp ủ trong lòng một đức tin tôn giáo. “Không thể nào có chuyện ấy!”
người khách vô thần nói tiếp, đồng thời quay về phía Einstein để hỏi có thật là
ông tin vào tôn giáo không. “Vâng, bạn có thể nói như vậy,” Einstein bình tỉnh
trả lời. “Hãy thử xâm nhập vào các bí mật của thiên nhiên bằng các phương tiện
giới hạn của chúng ta, bạn sẽ thấy rằng, đằng sau các qui luật và các mối tương
quan có thể nhận ra được, vẫn còn một cái gì rất tế nhị, không thể nắm bắt,
không thể cắt nghĩa được. Sự sùng kính đối với lực tác động này vượt lên trên mọi
điều mà chúng ta có thể hiểu được, đấy là tôn giáo của tôi. Ở mức độ đó, tôi thật
sự là người có tôn giáo.”
Chẳng bao lâu sau ngày sinh nhật thứ 50 của
ông, Einstein cũng trả lời một cuộc phỏng vấn rất kỳ thú, trong đó ông bày tỏ
rõ ràng hơn bao giờ cả tình cảm tôn giáo của mình. Người phỏng vấn là George
Sylvester Viereck, vốn sinh ra ở Đức, di cư sang Mỹ khi còn bé và về sau dành hết
cuộc đời để làm những bài thơ hoa mỹ khiêu dâm, phỏng vấn các vĩ nhân và bày tỏ
tình yêu ngổn ngang đối với Tổ quốc [Đức] của mình. Einstein tưởng Viereck là
người Do Thái. Trên thực tế, Viereck rất tự hào truy cứu dòng họ của mình đến tận
hoàng gia Kaiser của Đức, và sau này trở thành một cảm tình viên của Đức Quốc
xã, bị giam giữ tại Mỹ trong Thế chiến II về tội tuyên truyền cho Đức.
Viereck bắt đầu cuộc phỏng vấn bằng cách hỏi
Einstein ông tự coi mình là người Do Thái hay là người Đức. “Có thể cả hai,” Einstein đáp. “Chủ nghĩa dân tộc là một căn bệnh trẻ
con, bệnh sởi của loài người.”
Người Do Thái có nên cố gắng để hội nhập
[vào xã hội Đức] không? “Người Do Thái chúng tôi quá sẵn
sàng hi sinh mọi thứ lập dị của mình để chịu tòng phục.”
Ông chịu ảnh hưởng Ki tô giáo đến mức độ
nào? “ Thuở nhỏ, tôi học giáo lý từ Kinh
thánh lẫn Luật luận Do Thái giáo [the Talmud]. Tôi là một người Do Thái, nhưng
tôi say mê hình ảnh sáng ngời của Giê su.”
Ông có nhìn nhận sự hiện hữu của Giê su
trong lịch sử không? “ Không thắc mắc! Không ai có thể đọc
Phúc âm mà không cảm thấy sự hiện diện có thật của Giê su. Nhân cách của ông sống
động trong từng con chữ. Không có gì huyền thoại chứa đựng trong cuộc đời ấy.”
Ông có tin Thượng đế không? “Tôi không phải là người vô thần. Tôi không nghĩ tôi có thể gọi
mình là một kẻ phiếm thần [pantheist]2.
Vấn đề được nêu ở đây quá rộng lớn đối với trí óc hạn hẹp của chúng ta. Chúng
ta chỉ ở vị trí của một đứa bé đi vào trong một thư viện khổng lồ chứa đầy sách
bằng nhiều ngôn ngữ. Đứa bé biết rằng chắc có một người nào đó đã viết những
sách ấy. Bé không biết sách đã được viết ra bằng cách nào. Bé không hiểu ngôn ngữ
trong những sách ấy. Bé chỉ mù mờ nửa tin nửa ngờ rằng có một trật tự huyền bí
trong việc sắp đặt những cuốn sách đó nhưng không biết rõ trật tự đó là gì.
Hình như đối với tôi, đó là thái độ cần có của ngay cả một người thông minh nhất
đối với vấn đề Thượng đế. Chúng ta nhận thấy vũ trụ được sắp xếp một cách kỳ diệu
và tuân theo một số qui luật nhất định, nhưng chúng ta chỉ hiểu lờ mờ những qui
luật này.”
Có phải đây là một quan niệm Do Thái về
Thượng đế? “Tôi là một người tin vào thuyết tất
định [determinist]. Tôi không tin có ý chí tự do [free will]. Người Do Thái tin
vào ý chí tự do. Họ tin rằng con người quyết định lấy cuộc đời của chính mình.
Tôi bác bỏ một lý thuyết như vậy. Trong khía cạnh này, tôi không phải là một
người Do Thái.”
Phải chăng đây là Thượng đế của [triết
gia] Spinoza? “Tôi say mê chủ nghĩa phiếm thần của
Spinoza, nhưng tôi thậm chí ngưỡng mộ hơn nữa đóng góp của ông cho tư tưởng hiện
đại vì ông là triết gia đầu tiên coi linh hồn và thể xác là một, chứ không phải
hai vật tách rời nhau.”
Ông có tin vào tính bất tử của linh hồn
không? “Không. Một đời là đủ với tôi.”
Einstein cố gắng diễn tả những cảm nghĩ
này một cách rõ ràng, vừa cho chính bản thân ông vừa cho tất cả những người đòi
hỏi một câu trả lời vắn gọn từ chính ông về đức tin của ông. Vì thế vào mùa Hè
1930, ông soạn một bản tuyên bố tín lý [a credo] nhan đề “Những điều tôi tin tưởng”
[What I Believe], một tác phẩm ông ghi âm cho một nhóm nhân quyền và về sau cho
xuất bản. Bản tuyên bố kết thúc bằng cách cắt nghĩa điều ông muốn nói khi gọi
mình là một người có tôn giáo: “Cảm xúc đẹp nhất mà chúng ta có thể trải nghiệm
là những điều huyền bí. Đó là cảm xúc cơ bản đứng ngay ở chiếc nôi của tất cả mọi
nghệ thuật và khoa học chân chính. Người nào xa lạ với cảm xúc này, không còn
ngỡ ngàng hân hoan trong niềm kính sợ, thì người đó coi như đã chết rồi, như một
ngọn nến đã bị dập tắt. Ý thức rằng ở đằng sau bất cứ điều gì có thể trải nghiệm
được, đều có một cái gì trí óc chúng ta không thể nắm bắt được, trong khi vẻ đẹp
và sự cao siêu của nó chỉ đến với chúng ta một cách gián tiếp: đó chính là sự mộ
đạo [religiousness]. Trong ý nghĩa này, và chỉ trong ý nghĩa này thôi, tôi là một
người rất mộ đạo.”
Người ta nhận thấy tác phẩm này đầy ý
nghĩa, vì thế nó được in liên tiếp qua nhiều ngôn ngữ khác nhau. Song chẳng
đáng ngạc nhiên, nó vẫn không thoả mãn được những người muốn có một câu trả lời
giản dị là ông có tin vào Thượng Đế hay không. “Hậu quả của thái độ hoài nghi
này và sự suy đoán mù mờ về thời gian và không gian là một lớp áo choàng che dấu
bóng ma hãi hùng của chủ nghĩa vô thần,” Hồng y William Henry O’Connell tại
Boston nói như vậy. Việc một Hồng y lên tiếng công khai đả kích Einstein đã
thúc đẩy vị lãnh đạo Do thái giáo Chính thống tại New York, Giáo sĩ Herbert S.
Goldstein, gửi Einstein một tin điện hỏi rất thẳng thắn: “Ông có tin Thượng đế
không? Stop. Trả lời trong 50 từ. Phí được trả.” Einstein chỉ dùng một nửa số từ
được ấn định. Nó trở thành phiên bản nổi tiếng nhất của một câu trả lời ông thường
đưa ra: “Tôi tin Thượng đế của Spinoza, một Thượng đế mặc khải trong sự hài hoà
có qui luật của tất cả những gì hiện hữu, chứ không tin vào một Thượng đế bận
tâm với số phận và công việc của loài người.”
Một số người Do Thái mộ đạo phản ứng bằng
cách vạch ra rằng Spinoza đã bị rút phép thông công từ cộng đồng Do Thái tại
Amsterdam vì ôm ấp những tín lý này, và rằng ông còn bị Giáo hội Công giáo lên
án. Trong khi đó, một giáo sĩ tại Bronx [New York] phát biểu: “Hồng y O’Connell
có thể đã hành xử đúng đắn nếu ông không đả kích lý thuyết của Einstein.
Einstein có thể đã hành xử khá hơn nếu ông không tuyên bố mình thiếu đức tin ở
một Thượng đế bận tâm với số phận và việc làm của từng cá nhân. Cả hai đã đưa
ra những tuyên bố chính thức [dicta] nằm ngoài thẩm quyền của mình.”
Song suốt đời ông, trước sau như một,
Einstein luôn luôn bác bỏ lời kết án ông là một người vô thần. “Có nhiều người
cho rằng không có Thượng đế,” Einstein nói với một người bạn. “Nhưng điều làm
cho tôi thật sự tức giận là họ thường trích dẫn tôi để bênh vực cho quan điểu
vô thần của họ.” Và khác với Sigmund Freud hay Bertrand Russell hay George
Bernard Shaw, Einstein không bao giờ cảm thấy thôi thúc cần phải phỉ báng những
người tin có Thượng đế; thay vì như vậy, ông có khuynh hướng chế nhạo những người
vô thần. “Điều tách rời tôi ra khỏi hầu hết những người được gọi là vô thần là
một tấm lòng hoàn toàn khiêm cung đối với những bí mật không thể nắm bắt được
trong vũ trụ,” ông giải thích.
Trên thực tế, Einstein thường chỉ trích những
kẻ phỉ báng tôn giáo, những kẻ tỏ ra thiếu khiêm cung hay kính sợ, chứ ít khi
chỉ trích những người có đức tin. Ông viết trong một lá thư: “Những người vô thần
cuồng tín [fanatical atheists] là những người nô lệ đang còn cảm thấy sức nặng
của những xích xiềng mà họ đã vất bỏ sau một cuộc tranh đấu gay go. Họ là những
kẻ vì hằn học chống lại tôn giáo truyền thống, mà họ gọi là ‘thuốc phiện của
nhân dân, nên không nghe được âm nhạc của các tầng trời.”
Về sau, Einstein đã giải thích quan điểm của
mình về mối quan hệ giữa khoa học và tôn giáo ở một hội nghị tại Chủng viện Thần
học Thống nhất [The Union Theological Seminary] tại New York. Ông nói rằng,
lãnh vực khoa học tìm hiểu hiện tượng đó là gì, chứ không đánh giá tư duy và
hành động của con người về hiện tượng đó phải là như thế nào. Tôn giáo có sứ mệnh
ngược lại. Tuy vậy, nỗ lực của hai lãnh vực này đôi khi hợp tác hài hòa với
nhau. “Khoa học có thể được sáng tạo chỉ bởi những người ôm ấp nguyện vọng thiết
tha đối với chân lý và tri thức,” ông nói. “Song nguồn cảm hứng này phát xuất từ
lãnh vực tôn giáo.” Buổi nói chuyện đã được các báo đưa lên trang nhất, và kết
luận súc tích của ông trở nên nổi tiếng. “Tình cảnh này có thể được diễn tả bằng
một hình ảnh: khoa học không có tôn giáo thì què, tôn giáo không có khoa học
thì mù.”
Nhưng, Einstein nói tiếp, có một quan niệm
tôn giáo duy nhất, mà khoa học không thể chấp nhận: một thượng đế có khả năng
xâm lo tùy thích vào các biến cố trong vũ trụ ngài đã tạo hóa. “Nguồn gốc chính
của những xung đột ngày nay giữa các lãnh vực tôn giáo và khoa học nằm trong
quan niệm về một Thượng đế mang hình bóng con người [a personal God],” ông
tranh luận. Các nhà khoa học nhắm vào việc khám phá những qui luật bất di bất dịch
chi phối thực tại, và trong khi làm điều này họ phải bác bỏ quan niệm cho rằng
ý chí của thượng đế, hoặc ý chí con người, đóng một vai trò có thể vi phạm tính
nhân quả trong vũ trụ.
Sự tin tưởng của Einstein vào tính tất định
nhân quả [causal determinism] xung khắc với khái niệm ý chí tự do [free will] của
con người. Nói chung, các nhà thần học Do Thái giáo cũng như Ki-tô giáo tin tưởng
rằng con người phải chịu trách nhiệm về hành động của mình. Người ta thậm chí
có cả tự do lựa chọn việc chống lại các điều răn của Thiên Chúa, như Kinh thánh
cho thấy, mặc dù việc này có vẻ xung đột với một tín điều cho rằng Thiên Chúa
biết hết mọi chuyện và có toàn năng [all knowing and all powerful].
Trái lại, cũng như Spinoza, Einstein tin
tưởng rằng các hành động của một người cũng được định đoạt [determined] giống
chuyển động của một hòn bi-da, một hành tinh hay một vì sao. “Con người không
có tự do trong tư duy, tình cảm và hành động của mình, mà bị ràng buộc vào tính
nhân quả [causually bound] như các tinh tú trong các chuyển động của chúng,”
Einstein phát biểu trong một tuyên bố trước Hội Spinoza [Spinoza Society] năm
1932. Đó cũng là một khái niệm ông đã rút ra từ việc nghiền ngẫm các tác phẩm của
Schopenhauer. “Mọi người hành động không chỉ do cưỡng bức từ bên ngoài
[external compulsion], mà còn tuân theo tính tất yếu ở bên trong [inner necessity],”
ông viết trong bản tín điều nổi tiếng của ông. “Câu nói bất hủ của
Schopenhauer, ‘Một người có thể hành động theo ý mình, nhưng không muốn gì được
đó’ [A person can do as he wills, but not will as he wills] đã là một khích lệ
chân chính đối với tôi từ thời thanh niên; nó luôn luôn là một nguồn an ủi khi
đối mặt với những gian khổ trong đời, của chính mình và của người khác’, và là
một suối nguồn bất tận của lòng bao dung.”
Chủ nghĩa tất định [determinism] này làm
choáng váng một số bạn bè của ông như Max Born, người cho rằng quan niệm này
hoàn toàn làm suy yếu nền tảng đạo lý của con người. “Tôi không thể hiểu làm
sao bạn có thể kết hợp một vũ trụ hoàn toàn có tính cơ học với tự do của một cá
nhân có đạo đức,” Born viết cho Einstein. “Đối với tôi, một thế giới có tính tất
định [deterministic world] là rất hãi hùng. Có lẽ bạn đúng, và thế giới vận
hành như vậy, như bạn nói. Nhưng trong ngành vật lý hiện đại, thế giới không hẳn
là như vậy – và thậm chí càng không phải như vậy trong các lãnh vực khác của thế
giới.”
Theo Born, tính bất định của lượng tử
[quantum uncertainty] mở ra một lối thoát cho nan đề này. Cũng như một số triết
gia thời đó, Born bám vào tính bất định [indeterminacy] trong cơ học lượng tử để
giải quyết “sự khác biệt giữ tự do đức lý [ethical freedom] và các luật thiên
nhiên nghiêm khắc.” Born giải thích vấn đề này với vợ mình là Hedwig, một người
luôn luôn muốn tranh luận với Einstein. Bà nói với Einstein rằng, giống như
ông, bà “không không thể tin vào một Thượng Đế chơi ‘súc sắc.’” Nói cách khác,
tương phản với chồng, bà bác bỏ quan điểm cơ học lượng tử cho rằng vũ trụ đặt
cơ sở trên các bấp bênh và xác suất [uncertainties and probabilities]. Nhưng,
bà nói thêm, “tôi cũng không thể tưởng tượng nổi ông tin tưởng rằng – theo lời
kể lại của chồng tôi – “sự ngự trị hoàn toàn bằng qui luật” [complete rule of
law] ngụ ý mọi việc trong vũ trụ đều do tiền định [predetermined], chẳng hạn đến
cả việc tôi có muốn chích ngừa cho con tôi hay không.” Bà vạch ra rằng quan điểm
này đồng nghĩa với sự kết thúc mọi hành vi đạo lý. Nhưng Einstein trả lời rằng
người ta nên coi ý chí tự do như một cái gì hữu ích, thật sự cần thiết cho một
xã hội văn minh, vì nó sẽ thúc đẩy người ta nhận lấy trách nhiệm cho hành động
của mình. “Tôi buộc phải hành động như thể mình có ý chí tự do,” ông lý giải,
“vì nếu tôi muốn sống trong một xã hội văn minh tôi phải hành động có trách nhiệm.”
Einstein thậm chí qui trách nhiệm cho người ta về điều thiện và điều ác, vì đó
là cách tiếp cận cuộc đời thực tiễn và hợp lý, mặc dù về mặc tri thức ông vẫn
tin rằng hành động của mọi người đều được tiền định [predetermined]. “Tôi biết
rằng trên bình diện triết lý một kẻ giết người không có trách nhiệm về tội ác của
hắn,” ông nói, “nhưng tôi không thích ngồi uống trà với hắn ta.”
Einstein tin tưởng rằng nền tảng của đạo
lý là, vượt lên trên “lãnh vực thuần túy cá nhân” để sống có ích cho loài người.
Ông dâng hiến đời mình cho chính nghĩa hoà bình thế giới và, sau khi khuyến
khích Hoa Kỳ chế tạo bom nguyên tử nhằm đánh bại Hitler, mải mê làm việc để tìm
ra các phương cách kiểm soát loại vũ khí này. Ông vận động tài chính để giúp đỡ
những người tị nạn như ông, lên tiếng đòi hỏi công lý cho người da màu và công
khai bênh vực các nạn nhân bị phong trào chống cộng cực đoan McCArthy chụp mũ.
Và, Einstein cố gắng sống bằng thái độ dí dỏm, khiêm nhượng, giản dị và vui vẻ
ngay cả khi ông đã trở thành một trong người nổi tiếng nhất hành tinh.
Đối với một số người, các phép lạ được
dùng để chứng minh sự hiện hữu của Thiên chúa. Đối với Einstein, chính sự vắng
mặt các phép lạ lại phản ánh sự quan phòng của Thượng đế. Sự thể thế giới có thể
được cắt nghĩa và tuân theo các qui luật là điều đáng kinh phục.
Nguồn: Time Magazine,
Thursday, Apr. 05, 2007.
Chú thích của dịch giả:
1. Agnostic: Người tin rằng người ta không
thể biết được có hay không có thượng đế hoặc bất cứ điều gì nằm ngoài các hiện
tượng vật chất; một người không muốn đặt vấn đề có thượng đế hay không.
2. Chủ nghĩa phiếm thần (patheism)
cho rằng vũ trụ và thượng đế là một, hoặc trong mọi hiện tượng đều có thượng đế.
Người theo chủ nghĩa phiếm thần không tin vào một thượng đế riêng biệt, mang
nhân hình nhân ảnh.