Trúc Giang – Trần Thành (VNTB):
Hàng loạt
các ông bà Nguyễn Văn Đài, Lê Thu Hà, Phạm Văn Trội, Nguyễn Trung Tôn, Trương
Minh Đức, Nguyễn Bắc Truyển, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Văn Túc, Trần Thị Xuân
đều được cho là thành viên Hội Anh em dân chủ, và đều bị khởi tố về hành vi vi
phạm vào Điều 79 Bộ luật Hình sự 1999, tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền
nhân dân”. Phiên tòa dự kiến sẽ diễn ra trong thời gian ngắn sắp tới đây.
Trang web của Hội anh em dân chủ |
Câu hỏi đặt ra: chính quyền Việt Nam hiện
nay có dễ dàng bị lật đổ?
Điều đáng nói là Bộ luật Hình sự tu chính
2017 bổ sung thêm sự chế tài trong cả trường hợp “chuẩn bị phạm tội” mà luật
hình sự cũ chưa từng quy định. Cụ thể, tội danh “Tội hoạt động nhằm lật đổ
chính quyền nhân dân” thuộc Điều 79 Bộ luật Hình sự 1999, nay là Điều 109 Bộ
luật Hình sự tu chính, bổ sung thêm Khoản 3: “Người chuẩn bị phạm tội này, thì
bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm tù”.
Như vậy với các nội dung nói trên cho thấy
chính quyền Việt Nam quá mong manh, dễ dàng bị đe dọa lật đổ bởi một nhúm người
không được trang bị vũ khí, không có cả nguồn lực tài chánh. Thực tế có phải
như thế không? Câu trả lời mà ai cũng quá rõ: nếu như chính quyền dễ dàng lật
đổ như vậy, thì chắc chắn các phe phái được gọi là “lợi ích nhóm” đang nắm giữ
trong tay cả quân đội, công an đã lật ghế của nhau từ lâu lắm rồi…
Trở lại các vụ án liên quan đến cáo buộc
Điều 79 Bộ luật Hình sự, thời gian qua cho thấy dường như chưa có luật sư nào
bào chữa thành công. Nếu mang so sánh – mặc dù là khập khiểng – các ông bà có
tên như đã nêu ở phần đầu bài viết này, với ông cựu bộ trưởng Đinh La Thăng và
cựu phó chủ tịch tỉnh Hậu Giang Trịnh Xuân Thanh, thì xem ra cả hai ông Thăng,
Thanh được các quyền tố tụng chặt chẽ hơn.
Trước tiên, từ hồ sơ vụ án liên quan đến
ông Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh, mặc dù là thời gian điều tra, xét xử diễn
ra nhanh đến khó tin, song về cơ bản vẫn tuân thủ nguyên lý tố tụng là kết luận
buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng phải đảm bảo không còn nghi ngờ hợp lý.
Ngược lại, nếu kết luận đó vẫn còn nghi ngờ hợp lý thì quá trình chứng minh
chưa đủ để kết tội.
Nghi ngờ hợp lý đó chính là sự chưa đầy đủ
về chứng cứ để buộc tội, hoặc chưa rõ ràng về pháp luật. Nếu còn tồn tại các
nghi ngờ hợp lý này, quá trình xác định sự thật của vụ án chưa thành công. Mặt
khác, nếu đã tìm đủ mọi biện pháp trong giới hạn luật định mà không triệt tiêu
được những nghi ngờ hợp lý trên, thì một người luôn vô tội và quá trình xác
định sự thật của vụ án cũng kết thúc. Sự thật ở đây là một người không thực
hiện tội phạm.
Nghi ngờ hợp lý trong trường hợp ông Đinh
La Thăng, Trịnh Xuân Thanh, về nguyên tắc thì nó cũng phải được áp dụng với các
ông bà Nguyễn Văn Đài, Lê Thu Hà, Phạm Văn Trội, Nguyễn Trung Tôn, Trương Minh
Đức, Nguyễn Bắc Truyển, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Văn Túc, Trần Thị Xuân, vì nó
thuộc phạm vi của quyền được truy tố theo trình tự pháp luật. Nó liên quan chặt
chẽ với nguyên tắc suy đoán vô tội.
Nghi ngờ hợp lý và suy đoán vô tội dịch
chuyển gánh nặng xác định sự thật của vụ án bằng chứng chứng minh có tội sang
cho bên buộc tội, thay vì người bị nghi ngờ phải tự khai ra. Chính vì vậy, suy
đoán vô tội có thể sẽ bị vô hiệu hóa nếu không thấy nhắc tới tiêu chuẩn chứng
minh có tội. Một cáo buộc về tội phạm của bên công tố được tòa án chấp nhận khi
nó vượt qua được nghi ngờ hợp lý. Ngược lại, chứng minh chưa vượt qua được nghi
ngờ hợp lý, hay vẫn còn nghi ngờ hợp lý bị coi là chưa thành công, và bị cáo
không phạm tội.
Nếu tôn trọng “nhà nước pháp quyền”, thì
dù có hay không cụm từ “xã hội chủ nghĩa”, dễ dàng thấy rằng một trong những
tiêu chuẩn được các tòa án áp dụng là “vượt quá nghi ngờ hợp lý”. Nói cách
khác, “vượt quá nghi ngờ hợp lý” có thể được diễn giải là “không còn nghi ngờ
gì nữa”, tuy vẫn có thể không đạt 100% nhưng có xác suất hoặc mức độ chắc chắn
trên 95%.
Điều 79 Bộ luật Hình sự và Điều 28 Hiến
pháp
Trong vụ án hình sự công tố viên phải có
gánh nặng chứng minh các sự kiện, và chứng cứ của họ vượt quá nghi ngờ hợp lý
để buộc tội bị cáo. Tòa án đòi hỏi tiêu chuẩn này vì việc buộc tội một người
rất quan trọng, và đòi hỏi bằng chứng khá chắc chắn để có thể áp dụng trách
nhiệm hình sự tước đi những tự do của bị cáo.
Cụ thể với Điều 79 Bộ luật Hình sự, cần
làm rõ là liệu có đúng là chính quyền của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam sẽ dễ dàng bị lật đổ bởi những hành vi chỉ là các tiếng nói phản biện được
Hiến định: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia
thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương
và cả nước”; Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã
hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của
công dân” (trích Điều 28, Hiến pháp 2013).
Nếu tiếp tục đồng ý chuyện lãnh đạo cao
nhất ở Việt Nam là Bộ Chính trị, thì xem ra phiên tòa liên quan Điều 79 Bộ luật
Hình sự đối với các ông bà trong vụ án “Hội Anh em dân chủ”, cần tôn trọng Nghị
quyết số 49/NQ-TW Về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Theo đó, trách nhiệm chứng minh tội phạm của tòa án ở phiên tòa sắp tới đây sẽ
không còn nữa, mà trách nhiệm này thuộc chức năng của cơ quan điều tra và viện
kiểm sát.
|
Điều 79, Điều 88 luôn được áp dụng cho các nhà hoạt
động dân chủ - nhân quyền ở Việt Nam khi cần thiết.
|
Mặt khác – vẫn theo Nghị quyết số 49/NQ-TW
– thì việc phải chứng minh tội phạm sẽ ảnh hưởng tới tính khách quan của tòa án
khi ra bản án và phán quyết của mình, đồng thời thiên chức “trọng tài anh
minh”, “người cầm cân nảy mực” của tòa án dễ bị hiểu sai lệch.
Vì vậy, nếu thực sự ông Tổng bí thư Nguyễn
Phú Trọng không chỉ giỏi “gom củi đốt lửa”, mà còn biết “trồng rừng một cách tử
tế”, thì ông nên sớm có chỉ thị theo hướng toà án không có trách nhiệm chứng
minh tội phạm như lâu nay nữa. Có như vậy mới hy vọng sự công minh trong phán
xét, rằng liệu có phải khi công dân thực hiện theo Hiến pháp tại Điều 28.1 và
cả Điều 25 về quyền tự do lập hội, tự do biểu tình, là dấu hiệu đe dọa sự tồn
vong của chính quyền?
Nguồn : Theo VNTB