Hương Khê
Lật
chồng báo cũ, bất ngờ đọc được bài trên báo Tuổi Trẻ ra ngày 02/7/2014 có tựa đề
rất hấp dẫn: “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Đấu tranh lấy lại Hoàng Sa”.
Theo
đó: Phát biểu trước đông đảo cử tri quận Tây Hồ (Hà Nội) trong cuộc tiếp xúc
ngày 1-7/2014, TBT Nguyễn Phú Trọng nói: “Trung Quốc có ý đồ muốn hiện thực hóa
đường lưỡi bò, độc chiếm biển Đông, muốn khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là của
Trung Quốc. Chúng ta khẳng định rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Hoàng
Sa thì trên thực tế Trung Quốc đang chiếm giữ trái phép, họ đã hai lần đánh chiếm
Hoàng Sa và lần gần nhất là năm 1974. Chúng ta tiếp tục khẳng định chủ quyền, đấu
tranh để lấy lại Hoàng Sa”(1).
Có
thể xếp câu nói này của ông Nguyễn Phú Trong là một trong những phát ngôn nổi bật
nhất tại VN trong những năm gần đây. Bởi vì đối với nhà nước CSVN, hễ nói đến
câu “Hoàng Sa, Trường Sa là của VN” là điều cấm kỵ, là “chạm nọc”, là có tội
với đảng. Y như các nho sinh thời trước “phạm húy” khi đi thi vậy,
và sẽ mang tai họa vào thân.
Chính
vì vậy mà những Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, và nhiều người khác bị tù
tội cũng vì dám tuyên bố “Hoàng Sa, Trường Sa là của VN”.
Con
người “Thẳng ruột ngựa” như Vũ Đức Đam và Huỳnh Ngọc Sơn cũng chỉ mới
dám đùn đẩy cho thế hệ sau đòi lại.
Tại
cuộc đối thoại với các nhà khoa học Việt Nam vào sáng 17/5/2014, các nhà khoa học
lại dành khá nhiều thời gian đặt câu hỏi cho vấn đề thời sự nóng bỏng: biển
Đông.
Phó
thủ tướng Vũ Đức Đam nói: “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.
Trung Quốc đã dùng vũ lực để chiếm Hoàng Sa và nhất định chúng ta phải đòi lại.
Đời tôi, đời các bạn không đòi được thì con cháu chúng ta sẽ tiếp tục đòi lại”(2).
Cùng
một luận điệu như trên, trong dịp tiếp xúc cử tri Đà Nẵng vào sáng 29/6/2014,
Ông Phó CTQH Huỳnh Ngọc Sơn nói: "Chúng ta cũng đã nghĩ đến việc lấy lại,
nhưng hiện nay thì chưa thể thực hiện được thì đời con cháu chúng ta sẽ làm việc
đó. Bà con cử tri cũng hiểu cho các đồng chí lãnh đạo, không phải lúc nào chúng
ta cũng hô hào đánh nhau. Hiện đã có phương án, giải pháp cho vấn đề Biển Đông.
Khi cần chúng ta sẽ ra Nghị quyết và đã ra thì Nghị quyết phải có hiệu lực"(3).
Có
lẽ ý của hai ông Vũ Đức Đam và Huỳnh Ngọc Sơn muốn nói là đến “Tết
Công-gô”, thì QHVN sẽ ra “Nghị quyết”, và lúc ấy nghị quyết
mới có hiệu lực!!!
Trở
lại câu nói “ để đời” của ông Nguyễn Phú Trọng.
Nên
biết rằng, câu nói này của ông Trọng ra đời trong hoàn cảnh: Sau khi
vào ngày 01/5/2014, Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào hạ
đặt trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế nước ta.
Sự
kiện này đã làm nóng dư luận trong nước và thế giới. Ở trong nước, hình ảnh ngự
trị của giàn khoan HD 981 trên vùng đặc quyền kinh tế nước ta đã thôi
thúc nhân sĩ trí thức và nhân dân nhiều nơi, nhất là tại hai thành
phố lớn là Hà Nội và Sài Gòn, đã tập trung biểu tình để phán đối hành động
ngang ngược này của nhà cầm quyền Trung Quốc vào các ngày
10 và 11 tháng 5/ 2014.
Trong
đó cuộc biểu tình tại Sài Gòn lên tới hàng chục ngàn người. Những
người biểu tình vừa chống Trung Quốc, vừa phản ứng với tư thế gập lưng sát đất
của chính quyền Việt Nam. Chính quyền VN dã dùng lực lượng rất đông để bảo về
tòa đại sứ TQ tại HN và Lãnh sứ quán TQ tại Sài Gòn.
Về
dư luận quốc tế:
Ngày
8 tháng 5/2014: Ngoại Trưởng John Kerry điện đàm với Bộ trưởng Ngoại giao Trung
Quốc Vương Nghị, công khai gọi hành động của Trung Quốc là “khiêu khích” và
“hung hăng.”
Ngày
9 tháng 5/2014: Sáu Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ tố cáo hành động của Trung Quốc là
“gây hấn, tạo rắc rối” và “đe dọa tự do thương mại toàn cầu.”
Ngày
7/5/2014: Thượng nghị sỹ Mỹ John McCain đã ra tuyên bố chỉ trích Trung Quốc cố
tình gây căng thẳng ở Biển Đông. Ông khẳng định hành động của Trung Quốc “mang
tính khiêu khích,” “đáng quan ngại” và “chỉ nhằm leo thang căng thẳng ở Biển
Đông.”
Thượng
nghị sỹ John McCain khẳng định “các hành động của Trung Quốc dựa trên những yêu
sách lãnh thổ không có cơ sở theo luật pháp quốc tế.”
Ngày
14 tháng 5/2014: Phát ngôn viên tòa Bạch Ốc Jay Carney nói tranh chấp Việt –
Trung phải được giải quyết “thông qua đối thoại chứ không phải bằng hăm dọa”.
Từ
10 tháng 5 đến 15 tháng 5/2014: lần lượt Anh Quốc, Australia, Pháp, Nga đều xác
định sự quan tâm sâu sắc đối với tình hình căng thẳng ở Biển Đông và kêu gọi
các bên kiềm chế, giải quyết tranh chấp theo con đường hòa bình thông qua đối
thoại.
Cũng
trong thời gian giàn khoan HD 981 hoành hành trên vùng biển nước ta, tại Thủ đô
Hà Nội đã diễn ra 2 sự kiện quan trọng:
BCHTƯ
ĐCSVN khoá XI đã họp Hội nghị lần thứ chín, từ ngày 08/5 đến ngày 14/5/2014, để
thảo luận, cho ý kiến về : Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
khoá VIII về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
Quốc
hội khóa XIII họp kỳ họp thứ bảy, từ ngày 20-5/2014 đến ngày
24-6-2014, nhằm “ xem xét thông qua một số luật liên quan tới người đồng tính,
song tính và chuyển giới ("LGBT") như quyền kết hôn, chung sống của
các cặp cùng giới, quyền liên quan đến giấy tờ nhân thân và đăng ký hộ tịch của
người chuyển giới, liên giới tính”.
Tại
diễn đàn QH, mặc dù đã có một đố đại biểu QH đề nghị phải lên tiếng phản đối
hành động ngang ngược này của TQ . Nhưng ĐCSVN và Quốc hội VN “câm như hến”,
không hề có một phát ngôn chính thức nào nhằm lên án hành động phi pháp này của
nhà cầm quyền TQ.
Việc
quốc gia đại sự, giặc vào vườn nhà mình, cắm ngay cái giàn khoan vào giữa vườn
và tuyên bố là đất của chúng. Thế mà QH là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà
nước “của dân, do dân và vì dân” ấy, là nơi tập hợp những 500 đầu óc của giới
“đỉnh cao trí tuệ”, thì không lo bàn đến việc bảo vệ chủ quyền lãnh
thổ quôc gia. Ngược lại, QH lại “chăm chú”
lo nhìn dưới đũng quần người ta để ““xem xét, ngâm cứu” xem
họ là đàn ông hay là đàn bà.
Sau
khi chịu nhục nuốt hận mà không dám có phản ứng gì, như con giun bị xéo mãi mà
không dám “quằn”. Nhưng sau đó ông Trọng lại khoe tài chụi nhục của mình bằng
câu nói tại buổi tiếp xúc cử tri nói trên. Tại đây, ông Trọng đã
“khua môi múa mép” khi khoe khoang rằng: “Chúng ta nói thẳng thắn, công khai giữa
diễn đàn Quốc hội, cả thế giới đều biết. Chúng ta phản đối, kịch liệt lên án,
yêu cầu Trung Quốc phải rút giàn khoan cùng tàu bè hộ tống ra khỏi vùng biển Việt
Nam, đi vào đàm phán, đối thoại”.
Nên
biết rằng, trong thời gian mà giàn khoan HD 981 đang “ngự trị” trong vùng đặc
quyền kinh tế nước ta, TBT Nguyễn Phú Trọng đã 14 lần gọi đường dây nóng kết nối
giưa 2 TBT của hai đảng, nhằm xin phép họ Tập chiếu cố cho ông Trọng được sang
Bắc Kinh để “ Yết kiến”. Nhưng đã bị họ Tập từ chối thảng thừng, và khinh bỉ
không thèm trả lời.
Và
vẫn cái giọng lí sự cũ mèm của kẻ quen thói “đầu môi chót lưỡi”, khi
bị cử tri đề nghị phải đấu tranh với về mặt pháp lý, là đưa TQ ra tòa án Quốc tế
như Philippines, thì ông Trọng nói: “Chúng ta chủ trương đấu tranh bằng biện
pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, thỏa thuận cấp cao giữa hai nước.
Chúng ta sử dụng tất cả các biện pháp hòa bình, kể cả đấu tranh pháp lý”….
“Trung Quốc là một nước láng giềng lớn, muốn hay không vẫn phải sống cạnh nhau,
không ai chọn được láng giềng. Vậy thì phải xử lý thế nào cho đúng”.
Lập
luận này cho thấy ông Trọng đang rất ngụy biện.
Nói
về mặt địa lý, thì đất nước Myanmar có chiều dài biên giới trên bộ giáp
TQ gấp 1.71 lần so với VN( 2185 km và 1281km). Trong dòng lịch sử,
suốt những năm 60 và 70 của thế kỷ trước,TQ luôn phủ bóng lên Myanmar. Nhà nước
Myanmar trong một thời gian dài bị TQ kìm kẹp, nhằm mở đường vươn ra Ấn Độ
Dương. Đầu thập kỷ 90, TQ thậm chí còn đưa cố vấn quân sự sang nước này. TQ
cũng đưa “củ cà rốt” ra dụ nhân dân Myanmar bằng cách đâu tư xây dựng tại đây một
loạt công trình, như đường bộ, đường sắt, cảng biển, ống dẫn dầu, xây đập nước,
khai thác mỏ..vv. Myanmar lúc đó gần như trở thành một tỉnh của TQ.
Thế
nhưng, người dân Myanmar không lạ gì “bộ mặt thật” của bọn bành trướng Bắc
Kinh. Do đó họ đã thực hiện công cuộc “thoát Trung” một cách rất ngoạn mục. Trước
hết là việc nhân dân biểu tình để phản đối dự án khai thác đồng của Tập đoàn Vạn
Bảo, rồi đến việc tạm ngưng xây đập Myitsone ..v..v.
Sở
dĩ Myanmar thoát được Trung là bời vì đất nước Myanmar không bị cai
trị bởi ĐCS.
Nhưng
VN thì không. Chẳng những nhà nước CSVN đã bị TQ siết chặt bởi cái Vòng Kim
Cô “16 chữ vàng và 4 tốt”, và ĐCSVN vẫn mơ tưởng hão huyền vào lòng
tốt của kẻ ăn cướp. Vì vậy ông Trọng vẫn hy vọng vào “thỏa thuận cấp cao giữa
hai nước”.
Cũng
có thể trong giai đoạn giữa năm 2014 này, nội bộ ĐCSVN đang diễn ra những cuộc
đấu đá rất khốc liệt. Ông Trọng lúc này đang yếu thế so với Ba Dũng trong cuộc
tranh giành ghế Tổng Bí thư tại ĐHXII của ĐCSVN sẽ diễn ra vào năm
2016. Vì kế hoạch loại Ba Dũng đã bị thất bại tại Hội nghị TƯ 6 khóa
XI của BCHTƯĐCSVN diễn ra hồi tháng 9/2012. Tại hội nghị này, ông Trọng đã phải
khóc sụt sùi và ôm hận vì không “thịt” được Ba Dũng. Cho nên đây là dịp để ông
Trọng lấy điểm trước nhân dân?
Cũng
có thể tại hai hội nghị quan trọng của đảng và QH hồi tháng 5 và tháng 6/2014,
Khị bị TQ “đấm vào mặt” bằng hành động cho giàn khoan HD 981 xâm phạm chủ quyền
nước ta, mà ông Trọng cố chịu nhục “ ngậm tăm”. Vì vậy đã bị dư luận
và nhân dân lên án hết sức nặng nề. Thì đây là dịp để ông Trọng lấy lại khí thế
bằng những phát ngôn bịp bợm như trên để “vuốt mặt”, và đánh lừa nhân dân rằng,
ta đây vẫn “chưa bị Hán hóa” ?
Cũng
cần nhắc lại rằng, khi TQ cướp Hoàng Sa của VN vào ngày 19 tháng 1
năm 1974, thì hôm sau, phiên họp của Phái đoàn Liên hợp quân sự 4 bên về việc
Giám sát thi hành Hiệp định Paris về VN, do Thiếu tướng Lê Quang Hòa, Trưởng
phái đoàn VNDCCH chủ trì tại Sài Gòn. Trong phiên họp này, phía VNCH đã đưa văn
bản đề nghị chính thức Chính phủ VNDCCH, cùng với Chính phủ VNCH ra thông cáo
lên án TQ về hành động xâm lược lãnh thổ-lãnh hải của VN.
Đề
nghị này còn lên kế hoạch chi tiết, trong đó yêu cầu quân Bắc Việt Nam và quân
của Chính Phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam giảm áp lực tại
quân đoàn 2 của VNCH. Trong đó đề nghị cụ thể không tiến công quấy rối Đà nẵng,
Nha Trang và các sân bay ở khu vực này để quân lực VNCH có thể rảnh tay tập
trung tái chiếm quần đảo Hoàng sa.
Ông
Thiếu tướng Lê Quang Hòa đã điện về xin ý kiến Trung ương.
Đích
thân ông Lê Đức Thọ phê bình “lập trường chính trị của các anh để đâu? Đang có
chiến tranh, lại phối hợp hoạt động với địch à? Cuộc chiến tranh gay go của ta
rất cần sự ủng hộ của Trung Quốc, mà lại nói quay sang chống bạn. Họ có giải
phóng giúp ta, thì sau này cũng trả lại cho ta thôi.’’(4).
Về
vấn đề Hoàng sa: Kể từ sau năm 1975, , Việt Nam đã có vô số cơ hội đi kiện
Trung Quốc để giải quyết vấn đề, mà Việt Nam đã không đi kiện.
Muốn
kiện thì phải có đám phán trước. Nhưng VN đã không bao giờ có đám phán với TQ về
vấn đề Hoàng Sa, nên không dám kiện.
Sau
gần 40 năm, chưa bao giờ nhà nước CSVN dám đặt vấn đề đàm phán với phía TQ về
Hoàng Sa. Vì thế, phía TQ coi việc họ chiếm Hoàng Sa của
VN là chuyện đã rồi. Kể cả lúc ký Hiệp ước phân định Vinh Bắc Bộ(
ngày 25/12/2000), VN cũng không ép TQ đưa vấn đề Hoàng Sa ra đàm phán trước khi
2 bên ký kết việc phân định này.Và như vậy phía TQ coi việc họ kéo giàn khoan
HD 981 vào Biển Đông là chuyện đương nhiên, vì vùng đó thuộc thềm lục địa của
Hoàng Sa. Cho đến khi TQ kéo giàn khoan HD 981 đặt trên thềm lục địa VN, cách đảo
Lý Sơn của VN khoảng 100 hải lý, cách đảo Tri Tôn (thuộc Hoàng Sa) khoảng 20 hải
lý, thì lúc đó mâu thuẫn giữa hai bên VN và TQ mới lộ ra trước công
chúng.
Trong
thời gian khủng hỏang giàn khoan HD-981, không những đa số nhân dân
VN đòi nhà nước VN kiện TQ ra tòa án quốc tế, mà rất nhiều chuyên
viên, học gỉa Việt Nam trong và ngòai nước, Quốc tế và cựu đảng viên
Lãnh đạo đã khuyên nhà nước Việt Nam hãy chộp lấy cơ hội vàng này để kiện
Trung Cộng ra tòa án quốc tế.
Câu
hỏi đặt ra là tại sao VN không dám kiện TQ ra tòa án quốc tế?
Mặc
từ năm 1979, TQ mở cuộc chiến tranh Biên Giới phía Bắc để “dạy cho
VN một bài học”, đến năm 1984-1988 là cuộc chiến tại mặt trận Vị Xuyên (Hà
Giang), TQ đánh chiếm hàng loạt cao điểm Lão Sơn của VN. Và gần nhất là cuộc
đánh chiếm các đảo Gạc Ma – Cô Lin- Len Đao ngày 14/3/1988, phía VN đã bị
TQ đánh cho tơi tả và chiếm mất 7 đảo. Và 64 chiến sĩ của QĐNDVN phải đứng
dưới cột cờ để làm bia thịt cho quân TQ ngắm bắn, vì họ nhận được lệnh
“không được chống trả”. Và cho đến nay, thi hài 64 liệt sĩ ấy vẫn “an
nghỉ” dưới vùng biển Gạc Ma.
Nhưng
từ khi các nước cs Đông Âu sụp đổ, ĐCSVN lo sợ đảng và nhà nước này cũng sẽ sụp
đổ như các nước cs Đông Âu. Vì vậy họ cầu xin TQ
“bình thường hóa quan hệ” để lo đối phó tình hình trong nước, phòng
khi “bão tố” nổi lên để “lật thuyền”.
Vì
vậy mới có Hội nghị Thành Đô năm 1990.
Vì
vậy dân ta đã có câu ca:
“Từ
ngày sụp đổ Đông Âu/Đảng ta không bám đảng Tàu là tan.”
Sau
hội nghị Thành Đô, những “sợi dây thòng lọng” của TQ đã tròng vào cổ lãnh đạo
Việt Nam khiến Hà Nội phải nằm im trong qũy đạo của Bắc Kinh.
Khi
Philippins kiện TQ, thì TQ đã đe dọa sẽ có biện pháp quân sự và kinh tế trừng
phạt VN nếu VN theo chân Phipippines kiện TQ ra toà án quốc tế. Dương
Khiết Trì còn dạy dỗ ĐCSVN rằng: “Đối với vấn đề trên biển hiện nay, hai bên cần
phải xuất phát từ đại cục gìn giữ quan hệ giữa hai Đảng và hai nước, tránh mở rộng,
làm phức tạp và quốc tế hoá vấn đề liên quan”.
Phán
quyết của Tòa PCA ngày 12/7/2016 đã không chỉ giải quyết những tranh chấp giữa
Việt Nam và Trung Quốc tại khu vực Trường Sa mà còn mở cho Việt Nam nhiều cơ
hội pháp lý (và ngoại giao) để giải quyết Hoàng Sa, vấn đề đã bị "đông lạnh"
ít ra từ năm 1975 đến nay.
Thế
nhưng, trước thái độ hung hăng đe dọa chiếm đóng chủ quyền biển đảo của VN ngày
một lên cao của Bắc Kinh, ĐCSVN chỉ biết phản đối bằng nước bọt và đánh giặc miệng
như họ vẫn làm từ trước đến nay.
Thái
độ hèn nhát của nhà cầm quyền VN còn thể hiện qua vụ VN phải cho Công ty Repsol
của Tây Ban Nha ngưng việc thăm dò dầu khí tại Bãi Tư Chính thuộc lãnh thổ VN.
Talisman-Vietnam
là công ty con thuộc tập đoàn năng lượng Repsol của Tây Ban Nha.
Vào tháng 7/2017, công ty này đã bắt đầu khoan thăm dò ở một vị trí
cách bờ biển Việt Nam khoảng 400 kilomet. Khi công ty này khoan thăm dò và phát
hiện trữ lượng khí đốt rất lớn tại đây, thì TQ đe dọa sẽ dùng vũ lực tấn công
quần đảo Trường Sa của VN, nếu VN không ngưng việc khoan thăm dò này. Vì vậy
VN đã yêu cầu công ty Talisman-Vietnam ngừng thăm dò dầu
khí trong vùng đặc quyền kinh tế của VN trên Biển Đông.
Dư
luận cho rằng, việc nhà cầm quyền VN phải lùi bước trước sự đe dọa của
TQ là vô cùng bất lợi đối với VN, cho thấy sự hèn nhát của
nhà cầm quyền VN trong vụ tranh chấp lãnh hải với TQ. Cho thấy sự bất
lực của chính quyền do Đảng CSVN lãnh đạo trước sự hung hăng bá quyền của TQ.
Và qua đó, nhân dân VN sẽ thấy Đảng và Chính phủ không còn khả năng bảo vệ quốc
gia và lãnh thổ được nữa.
Khi
nhà cầm quyền VN rút lui dự án này do sợ sự đe dọa vũ lực của Trung
Quốc, thì có nghĩa là VN đã thua hoàn toàn về mặt xác lập chủ quyền của mình.
Trước
sự kiện nóng bỏng và gây cấn mà dư luận thế giới và trong nước sôi sục
như vậy, nhưng nhà cầm quyền VN không hề lên tiếng xác nhận hay bác bỏ thông
tin trên.
Gần
một ngàn tờ báo chính thống tại VN cũng không có lấy 1 dòng viết về sự kiện
này.
Có
thể nói, lúc này TQ hầu như đã hoàn toàn làm chủ trên biển Đông.
Các
tàu thuyền đánh cá của ngư dân VN hành nghề trên ngư trường truyền thống bao đời
nay do cha ông để lại, thì nay các “tàu lạ” của TQ có thể đâm, húc, và thậm chí
là bắn chết ngư dân ta, cướp ngư cụ và hải sản của họ bất cứ lúc nào.
Tháng
6/2016, khi Hạm đội hải quân Trung Quốc còn đang tập trận bắn đạn thật tại sát
phía đông Nam Trường Sa, VN cho máy bay SU-30MK2 ra thăm dò. Khi máy bay đang
bay trên vùng trời vùng biển nước ta, đã bị TQ nó “đòm” cho tan xác.
Sau
đó đến lượt chiếc CASA 212 đi cứu bạn, cũng đã chịu chung số phận. Đây là hai
chiêc máy bay thuộc loại hiện đại nhất của không quân VN. Cho đến nay, nhà cầm
quyền VN vẫn không dám công khai công bố nguyên nhân hai máy bay bị rơi là do
phía TQ bắn hạ, mà chí nói là “do rủi ro kỹ thuật”.
Và
với chính sách “Ba không” mà ĐCSVN cho là khôn ngoan, đến nay kết quả đã thấy
rõ. Chính sách đu dây đã hoàn toàn thất bại. Nhà nước CSVN đã tự cô
lập mình, nên hiện nay rất cô độc.
Có
thể nói, 2014 là năm tung tóe vụ giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc xông
thẳng vào vùng lãnh hải Việt Nam như chốn không người và như một cú vỗ mặt nảy
đom đóm vào Bộ Chính trị ĐCS VN. Thế nhưng sau đó, giới chóp bu Việt Nam có vẻ
vẫn chưa tỉnh ngộ về thực chất “bạn vàng” là thế nào và vẫn tiếp tục theo đuổi
chính sách “đu dây chính trị”.
Nếu
ông Nguyễn Phú Trọng thực tâm muốn đấu tranh về mặt pháp lí để “lấy
lại Hoàng Sa” như ông từng tuyên bố trước dân, thì trước hết ĐCSVN và Nhà nước
CHXHCNVN phải kiện đưa TQ ra tòa án Quốc tế như Philippines.
Muốn
vậy, trước hết đảng và nhà nước VN phải khôi phục Chính thể
VNCH. Vì theo Hiệp định Hiệp định Genève năm 1954, quần đảo Hoàng Sa
nằm phía Nam vĩ tuyến 17, nên nó thuộc chủ quyền của nhà nước VNCH.
Vừa
qua ĐCSVN cũng có động thái là trong bộ Lịch sử VN mới xuất bản, không gọi nhà
nước VNCH là “ngụy quyền”, và Quân lực VNCH là “ngụy quân”. Đồng thời kêu gọi “
Hòa hợp và hòa giải dân tộc”.Nhưng đó chỉ là “động tác giả” nhằm đánh lừa dư luận
để kêu gọi Việt kiều về nước đầu tư, và “moi” kiều hối.
Thứ
hai là nhà nước CSVN phải mở phiên tòa, đưa Phạm Văn Đồng là người đã ký cái
Công Hàm bán nước năm 1958 ra xét xử, và tuyên bố rằng cái Công Hàm đó là vô hiệu.
Thứ
ba: QH nước VHXHCNVN phải ra “Nghị quyết” bác bỏ Công Hàm 1958 của Phạm Văn Đồng,
coi đó là hành động bán nước.
ĐCSVN
và ông TBT Nguyễn Phú Trọng có đủ can đảm làm những việc đó không?
Trong
khi ĐCSVN và nhà nước CSVN chưa làm chủ, chưa bảo vệ và giữ gìn trọn
vẹn vùng lãnh thổ và lãnh hải còn lại của đất nước. Chưa bảo vệ cuộc sống bình
yên cho bà con ngư dân hành nghề đánh bắt hải sản trên vùng biển nước
nhà. Thế mà ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đòi nói chuyện
lấy lại Hoàng Sa, thì đúng là giấc mơ của những kẻ không phải thần kinh thì
cũng bại não.
Chú thích: