Trần Hưng
Ngô Quyền đánh thắng
quân Nam Hán mở ra thời
kỳ tự chủ cho dân tộc.
(Bìa sách lịch sử
của NXB Kim Đồng)
|
Lịch sử gìn gữ giang
sơn của người Việt cũng ghi nhận nhiều lần quân Việt tiến binh sang Trung Quốc.
Nhưng khác với các cuộc xâm lược của Trung Quốc, các cuộc tiến đánh của quân
Việt đa phần là nhằm tiêu diệt bớt binh lực Trung Quốc và thị uy, rồi lại rút về.
Trước khi dành độc
lập, người Việt cũng từng tiến sang lãnh thổ Trung Quốc, như trong cuộc khởi
nghĩa của Hai Bà Trưng. Sau ngàn năm đô hộ, chiến thắng của Ngô Quyền trước
quân Nam Hán năm 938 đã mở ra thời kỳ mới cho nước Việt, thời kỳ tự chủ. Người
Việt không chỉ chiến thắng các cuộc xâm lược từ phương Bắc, mà còn đem quân Bắc
tiến, tiêu diệt sinh lực và ý định xâm lược của người Hán, thể hiện sức mạnh
của mình, rồi rút về.
Lịch sử đã chứng kiến
những lần quân Việt vượt biên giới đánh sang Trung Quốc như sau:
Thời tiền Lê
- Năm 995, hơn 100 chiến thuyền của Đại Cồ Việt đã tiến sang bờ biển nước Tống, đánh vào trấn Như Hồng thuộc Khâm Châu.
- Đến mùa hè năm 995, đội hương binh 5.000 người ở châu Tô Mậu (Lạng Sơn) của Đại Cồ Việt đã tấn công vào Ung Châu rồi lui binh.
Thời nhà Lý
- Năm 1022 vua Lý Thái Tổ đã sai Dực Thánh Vương đem quân đi đánh giặc Đại Nguyên Lịch.
- Năm 1052 thủ lĩnh người dân tộc Tày, Nùng là Nùng Trí Cao đưa quân vượt biên giới đánh Tống chiếm được nhiều châu quận.
- Năm 1059, vua Lý Thánh Tông cho quân đánh Khâm Châu nước Tống.
- Năm 1060, châu mục Lạng Châu là Thân Thiệu Thái đánh vào đất Tốngnhằm cứu dân Việt bị bắt trở về.
- Năm 1076, quân Tống chuẩn bị đánh Đại Việt, tập kết quân lương ở Ung Châu, Lý Thường Kiệt chủ động đưa quân tiến đánh vào Ung Châu của nhà Tống.
Thời nhà Trần
- Năm 1241, nhiều toán cướp từ đất Tống thường quấy nhiễu biên giới, vua Trần Thái Tông sai đốc tướng Phạm Kính Ân đem quân vượt biên giới đánh vào hang ổ quân cướp rồi rút về.
- Năm 1241 đích thân vua Trần Thái Tông đánh sang đất Tống, tấn công nhiều châu, trại.
- Năm 1242, biên giới có biến, tướng Trần Khuê Bình vượt biên đánh vào lộ Bằng Tường của nước Tống để dẹp loạn.
- Năm 1266 thủy binh Đại Việt đánh đến tận núi Ô Lôi (Quảng Đông) trong đất Tống nhờ đó phát hiện quân Nguyên có kế hoạch đánh Đại Việt.
- Năm 1285 lúc này quân Mông Cổ chiếm được Trung Quốc lập ra nhà Nguyên và đưa quân đánh Đại Việt nhưng thua trận phải rút về. Quân Việt truy kích đuổi theo tràn qua cả biên giới vào sâu trong lãnh thổ quân Nguyên ở Vân Nam và Tư Minh.
- Năm 1313 quân Việt tiến đánh nhà Nguyên ở Vân Động, châu Trấn Yên, sau đó tấn công các xứ Lôi Động, Tri Động và châu Quy Thuận, Dưỡng Lợi. Nhà Nguyên phải cho sứ đến thương lượng quân Đại Việt mới rút lui.
Thời hậu Lê
- Năm 1438, thổ quan châu Tư Lang của Đại Việt đem quân đánh hai châu An Bình và Tư Lăng (nay thuộc Quảng Tây), vua Minh phải sai sứ sang nước ta thương thuyết.
- Năm 1480, tổng binh tri Bắc Bình của Đại Việt là Trần Ao sai Đào Phu Hoán đem 600 quân đánh vào Cảm Quả, chiếm được ải Thông Quang (thuộc Quang Lang, Ôn Châu, Trung Quốc) rồi tiến vào Ban Động.
1. Những đợt tấn công
sang đất Tống của vua Lê Đại Hành
Vua Lê Đại Hành
(Ảnh: Bìa sách NXB
Kim Đồng)
|
Năm 996, hơn 100 chiến
thuyền của Đại Cồ Việt vượt biên giới nước Tống đánh vào trấn Như Hồng thuộc
Khâm Châm Châu. Vua Tống được tin không những làm lơ mà còn sai sứ giả là Lý
Nhược Chiếu mang chiếu thư và đai ngọc sang ban cho vua Lê Đại Hành.
Cũng năm đó, quân Đại
Cồ Việt tiến đánh Ung Châu của nhà Tống, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có chép rằng: “Mùa
hạ năm ấy, châu Tô Mậu nước ta lại đem 5 nghìn hương bình xâm lược Ung Châu
nước Tống”.
Chi tiết việc vua Lê Đại Hành tiến công
nhà Tống xem bài : Vị vua Việt dám tiến đánh Trung Quốc, không bị khiển
trách mà còn nhận được đai ngọc.
2. Những đợt tấn công
sang đất Tống của nhà Lý
Từ thời Lý, triều đình
có liên kết chặt chẽ với các thủ lĩnh dân tộc thiểu số ở biên giới phía Bắc,
chính các thủ lĩnh này giúp giữ yên vùng biên giới, thậm chí sẵng sàng phối hợp
cùng quân triều đình Bắc tiến.
Năm 1022 Lý Thái Tổ
sai Dực Thánh Vương đưa quân đánh giặc Đại Nguyên Lịch quấy phá ở biên giới,
rồi đuổi theo vào sâu trong đất nhà Tống, đến trấn Như Hồng, quân nhà Lý phá
hủy kho tàng rồi rút về.
Nùng Trí Cao tiến đánh
Tống
Năm 1052 thủ lĩnh
người Tày, Nùng vùng Cao Bằng là Nùng Trí Cao đem quân sang đánh nhà Tống. Được
sự hậu thuẫn của các thủ lĩnh người Thái – Tày ở Quảng Tây là Nùng Trí Trung,
Nùng Kiến Hậu, quân của Nùng Trí Cao tiến đánh và chiếm được 8 châu thuộc Quảng
Đông và Quảng Tây ngày nay.
Đường tiến quân của Nùng Trí Cao tại Trung Hoa (Ảnh qua caobangpro.com) |
Vua Đại Cồ Việt là Lý
Thái Tông dâng biểu xin mang quân giúp Tống đánh Nùng Trí Cao. Tuy nhiên danh
tướng nhà Tống là Địch Thanh can vua Tống, cho rằng Đại Cồ Việt đưa quân sang
nếu phối hợp với Nùng Trí Cao đánh Tống thì sẽ rất nguy hiểm.
Vua Tống nghe lời,
không dám để quân Việt giúp, sai các tướng Dư Tĩnh và Tôn Miện đi đánh Nùng Trí
Cao, nhưng đánh mãi mà không thắng được. Năm 1053 danh tướng Địch Thanh xin đi
đánh.
Địch Thanh quyết định
dùng “Nhẫn” để đánh, lệnh không ai được phép ra quân, các quân đều chỉ
phòng thủ nghiêm ngặt.
Quan Kiểm hạt tỉnh
Quảng Tây là Trần Thự trái tướng lệnh đem quân đi đánh bị thua, Địch Thanh đem
chém đi, rồi lệnh cho quân sĩ nghỉ ngơi 10 ngày, quân sĩ được nghỉ ngơi thoải
mái không tha thiết đánh trận nữa.
Quân do thám báo tình
hình cho Nùng Trí Cao biết, ông cho rằng quân Tống thua nhiều trận đã chán nản,
muốn nghỉ ngơi không tham chiến, nên chủ quan không phòng bị.
Lúc này Địch Thanh mới
bất ngờ đem toàn quân tiến đánh, kỵ binh hai bên tả hữu áp lại, khiến quân Nùng
Trí Cao đại bại.
Vua Lý Thánh Tông tiến
binh sang Tống
Tượng vua Lý Thánh Tông
tại Văn miếu
Quốc Tử Giám. |
Sau sự việc này quan
hệ hai nước Tống – Việt căng thẳng. Năm 1054 vua Lý Thánh Tông lên ngôi đổi tên
nước thành Đại Việt. Vua Tống muốn đánh Đại Việt, vua Lý Thánh Tông chọn cách
ngoại giao mềm dẻo, mang cả thú lạ dâng cống cho Tống để thăm dò thái độ. Vua
Tống không nhận lễ vật và cho tướng Tiêu Chú mang quân quấy phá biên giới Đại
Việt.
Trước sự tình này vua
Lý Thánh Tông đã cho quân chống trả rồi vượt biên giới đánh sang đất Tống. Sự
kiện này Đại Việt Sử ký Toàn thư có ghi lại rằng: “Đánh Khâm Châu nước Tống,
khoe binh uy rồi về, vì ghét nhà Tống phản phúc”.
Học giả Hoàng Xuân Hãn
tìm các sách sử của Trung Quốc có ghi chép lại rằng: Vua Lý đã chiếm các động Cổ
Vạn, Tư Lẩm và Chiêm Lăng, giết quan nhà Tống là Lý Duy Tân, bắt nhiều quân
Tống nhưng vẫn không lui binh. Vua Tống và các quan lộ Quảng Tây phải ra dụ cấm
Tiêu Chú gây sự với Đại Việt, rồi vua Lý mới rút quân về.
Thế nhưng khi quân
Việt rút về, xung đột biên giới lại nổ ra. Một số dân Việt bị bắt mang về Tống
trốn thoát ở châu Tây Bình của nhà Tống, nhưng viên quan ở đây không trả người
mà tìm cách dấu đi số dân này.
Vua Lê Thánh Tông sai
phò mã Châu mục Lạng Châu là Thân Thiệu Thái đem quân từ động Giáp sang đòi
người. Quân Tống do Tống Sĩ Nghiêu không chịu trả người mà đánh lại. Thân Thiệu
Thái đưa quân rút về động Giáp, Tống Sĩ Nghiêu đuổi theo qua biên giới đánh
thẳng vào động Giáp nhưng bị quân Đại Việt đánh bại.
Năm 1060 vua Lý Thánh
Tông sai Thân Thiệu Thái đánh sang Tống để lấy lại người. Quân Đại Việt lần này
chủ động dàn quân tiến sang và đánh bại quân Tống. Tướng chỉ huy quân Tống là
Tống Sĩ Nghiêu cùng 4 tướng thuộc hạ bị tử trận. Quân Tống ở Tây Bình không
chống nổi.
Chiếm được Tây Bình,
quân Đại Việt thừa thắng tiến tới Ung Châu và tấn công trại Vĩnh Bình, quân
Tống đại bại, chỉ huy sứ Dương Bảo Tài cùng nhiều quân bị bắt.
Vua Tống sai Thị lang
Bộ Lại là Dư Tĩnh tung quân lộ Quảng Nam Tây phản công nhưng lại thất bại.
Sau một loạt các thất
bại ở biên giới, vua Tống sa thải các tướng chuyên quấy rối biên giới Đại Việt
như Tiêu Cố, Tiêu Chú, rồi sai Dư Tĩnh sang Đại Việt để nghị hòa, mong quân
Việt rút về nước và hứa sẽ không xâm phạm biên giới nữa.
Đại Việt đồng ý nghị hòa
và rút quân về nước, nhưng không đồng ý trao trả tướng Dương Bảo Tài cùng nhiều
quân Tống đã bị bắt, điều này nhằm răn đe các tướng Tống khác đang giữ quân ở
biên giới.
Lý Thường Kiệt tiến
đánh Ung Châu
Năm 1072 vua Lý Thánh
Tông qua đời, vua Lý Nhân Tông lên ngôi mới 7 tuổi, nhà Tống nhân cơ hội này
muốn thôn tính Đại Việt.
Năm 1073 nhà Tống
chuẩn bị quân sang xâm chiếm Đại Việt, lập căn cứ luyện tập binh mã, chuẩn bị
quân lương ở Ung Châu, quân số ở đây là 10 vạn. Nhà Tống chuẩn bị huy động thêm
45.000 cấm binh thiện chiến từ phương Bắc xuống làm quân chủ lực.
Quân Đại Việt biết
được tình hình chuẩn bị của Tống, Thái hậu Ỷ Lan quyết định phải đưa quân tiến
sang đất Tống đánh trước. Thái hậu bàn với Thái úy Lý Thường Kiệt và giao cho
ông chỉ huy việc đưa quân đánh Ung Châu nhằm tiêu diệt bớt quân lương và nhuệ
khí của Tống. 10 vạn quân binh bao gồm quân triều đình và quân của thủ lĩnh các
dân tục thiểu số miền biên giới được huy động để chuẩn bị tiến đánh.
Lý Thường Kiệt
tiến đánh Ung
Châu.
(Tranh sưu tầm)
|
Quân Đại Việt chia làm
2 cánh: Phía Đông do Lý Thường Kiệt chỉ huy quân triều đình từ Móng Cái theo
hai đường thủy bộ tiến đánh Khâm Châu của Tống (tỉnh Quảng Tây ngày nay). Phía
Tây quân của thủ lĩnh dân tộc thiểu số do Nùng Tông Đản chỉ huy chia làm 4 mũi
tiến đánh đến Ung Châu. Quân hướng Tây có nhiệm vụ nghi binh thu hút quân Tống.
Tháng 10/1075 quân
phía Tây của các thủ lĩnh dân tộc thiểu số tiến đánh trước lần lượt chiếm các
trại Cổ Vạn, Vĩnh Bình, Thái Bình, Hoành Sơn, cùng các châu Lộc, Tây Bình.
Khi quân Tống bị hút
sang phía Tây, thì quân triều đình do Lý Thường Kiệt chỉ huy bất ngờ đánh thẳng
vào Khâm Châu. Quân Tống hoàn toàn bị bất ngờ không chống đỡ nổi. Các tướng giữ
thành của Tống đều bị bắt hoặc bị tiêu diệt.
Thừa thắng quân Đại
Việt đánh tiếp vào Liêm Châu, quân Tống đại bại. Sau đó cánh quân Việt chiếm
được Khâm Châu tiến đánh Ung Châu, cánh quân chiếm được Liêm Châu tiến đánh
Bạch Châu.
Hai cánh quân Đông Tây
của Bách Việt hợp sức đi sâu vào đất Tống đánh thẳng vào Ung Châu, trên đường
tiến quân Lý Thường Kiệt viết “Phạt Tống lộ bố văn” để dán và phát cho
dân Tống nêu rõ mục đính tiến binh là chính nghĩa nhằm tiêu diệt quân lương của
Tống chuẩn bị đánh Đại Việt, xong sẽ lui binh.
Học giả Hoàng Xuân Hãn
tìm hiểu từ sách sử Trung Quốc có ghi rằng: Dân Tống hiểu rõ mục đích tiến quân
cũng vui mừng đồng tình, còn mang cả rượu thịt ra thết đãi quân Việt. Dân Tống
thấy cờ hiệu quân nhà Lý đến thì cùng nhau bày án bái phục trên đường, từ đó uy
danh quân Việt lan rất nhanh.
Lý Thường Kiệt
tiến đánh Ung
Châu.
(Tranh sưu tầm)
|
Tin dữ lan truyền đến
kinh thành khiến vua Tống lo lắng, lệnh cố gắng di chuyển tiền, vải vóc, lương
thực để tránh khỏi bị rơi vào tay quân Đại Việt, đồng thời đưa binh đến ứng
cứu.
Tháng 1/1076 Lý Thường
Kiệt cho quân bao vây kín thành Ung Châu, tướng giữ thành là Tô Giam cố thủ chờ
viện bình. Lý Thường Kiệt cho quân công thành, nhiều tướng tâu với vua Tống
rằng thành Ung Châu rất kiên cố với thành cao, hào sâu có thể trụ được. Quan
giữ thành là Tô Giam cùng quân binh liều chết giữ thành.
Ban đầu quân Việt dùng
máy bắn đá bắn vào thành khiến quân Tống thiệt hại nhiều, sau đó dùng thang vân
thê (thang lắp trên xe đẩy) trèo lên tường thành. Quân Tống trên thành dùng
đuốc và hỏa tiễn đốt thang khiến quân Việt không leo lên thành được.
Thang Vân Thê dùng
để đánh thành của
quân Đại Việt. (Ảnh
kienthucmoi.edu.vn)
|
Tô Giam cho 100 quân
cảm tử tinh nhuệ chèo thuyền nhỏ men theo sông Ung Giang tập kích bất ngờ khiến
quân Đại Việt có 2 tướng cùng 10 voi chiến tử trận, 100 quân cảm tử của Tống
cũng thiệt mạng.
Quân Việt dùng tên có
tẩm thuốc độc nhắm lên thành mà bắn khiến quân Tống trên mặt thành chết nhiều.
Quân Tống dùng nỏ Thần Tý (một loại nỏ bắn cũng lúc được nhiều mũi tên với sức
công phá lớn) để bắn trả khiến quân Đại Việt thương vong nhiều.
Quân Đại Việt không
giáp chiến được, lại lui ra xa dùng máy bắn đá bắn vào thành, bao vây không cho
quân trong thành Ung Châu ra ngoài thành lấy nước.
Quân Tống ở Quế Châu
đến giải nguy cho Ung Châu. Tướng chỉ huy quân viện binh là Trương Thủ Tiết
thấy khí thế quân Nam nên không dám sang ngay mà dẫn quân đi đường vòng từ Quế
Châu tới Tân Châu, đóng quân ở trại Khang Hòa theo dõi động tĩnh, chuẩn bị tiến
quân sang đường vòng nhằm gây bất ngờ.
Lý Thường Kiệt đã tính
trước nên cẩn thận cho quân do thám viện binh Tống. Khi quân do thám báo có
viện binh đang kéo đến, Lý Thường Kiệt chia quân mai phục ở nơi rất hiểm trở là
ải Côn Lôn. Viện binh nhà Tống đến ải Côn Lôn thì bị quân mai phục của Đại Việt
tiến đánh úp, quân Tống thua to, Trương Thủ Tiết bị chém ngay giữa trận tiền,
các tướng Tống đều bị tử trận.
Quân Đại Việt dùng máy
bắn đá và hỏa tiễn bắn vào khiến thành bốc cháy. Nhưng tường thành Ung Châu
vững chắc, máy bắn đá không phá hủy được
Quân Tống dựa vào
thành cao và chắc khiến quân Đại Việt công phá 40 ngày vẫn chưa hạ được. Cuối
cùng Lý Thường Kiệt cho quân mang bao đất đắp dưới chân thành cho cao lên đến
tới mặt thành. Quân Việt đi theo bao đất tràn vào thành, quân Tống bại trận.
Sau 42 ngày công phá
quân Đại Việt mới chiếm được Ung Châu, thiệt hại 15.000 quân. Chiếm được Ung
Châu. Lý Thường Kiệt cho quân phá hết các kho tàng lương thảo, cùng quân nhu
của Tống, dùng đá lấp sông Ung Giang, một tuyến đường thủy huyết mạch quan
trọng.
Sau này, vua Tống
tiến đánh Đại Việt
nhằm phục thù thì
gặp phải sự phản
kháng quyết liệt,
đành phải rút quân
về nước.
(Tranh sưu tầm)
|
Để đánh lạc hướng quân
Tống khi rút về nước, tránh bị đuổi theo, Lý Thường Kiệt phao tin đang chuẩn bị
quân tiến đánh Tân Châu. Quan giữ Tân Châu là Cổ Cắn Lạc nghe tin sợ hãi bỏ
thành mà chạy. Tháng 3/1076 Lý Thường Kiệt cho quân rút về.
Sau cuộc chiến này
quân tướng nhà Tống mất hết tinh thần, quân lương bị thiệt hại, không còn lực
mạnh mà đánh Đại Việt nữa. Vì thế mà khi vua Tống tiến đánh Đại Việt nhằm phục
thù thì lại tiếp tục bại trận phải rút quân về nước.
3. Những đợt tiến quân
sang Trung Quốc thời nhà Trần
Vua Trần Thái Tông.
(Tranh sưu tầm)
|
Năm 1241 dân Thổ, Mán
từ Tống kéo sang biên giới Đại Việt cướp phá. Vua Trần Thái Tông sai đốc tướng
Phạm Kính Ân mang quân dẹp loạn, phá được quân Thổ, Mán, đồng thời vượt biên
sang đất Tống đánh thẳng vào hang ổ rồi rút về.
Cuối năm 1241 vua Trần
Thái Tông thân chinh vượt qua Khâm Châu, Liêm Châu đánh các trại Vĩnh An, Vĩnh
Bình của nước Tống. Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi chép lại như sau: “Vua thân
hành cầm quân đi đánh các trại Vĩnh An, Vĩnh Bình của nước Tống phía đường bộ,
vượt qua châu Khâm, châu Liêm, tự xưng là Trai Lang, bỏ thuyền lớn ở trong cõi,
chỉ đi bằng các thuyền nhỏ Kim Phụng, Nhật Quang, Nguyệt Quang. Người châu ấy
không biết là vua, đều sợ hãi chạy trốn. Đến sau biết là vua mới chăng xích sắt
giữa sông để chặn đường thủy. Khi trở về, vua sai nhổ lấy vài chục cái neo đem
về.”
Năm 1266, vua Trần
Thánh Tông chỉ huy thủy binh tiến đánh đến tận núi Ô Lôi (huyện Khâm thuộc tỉnh
Quảng Đông ngày nay). Thời gian này đang xảy ra cuộc chiến giữa quân Mông Thát
và nhà Tống, tình cờ trong cuộc tiến binh này, quân nhà Trần biết được âm mưu
chuẩn bị tiến đánh Đại Việt của quân Nguyên. Sau đó nhà Vua củng cố xây dựng
quân đội sẵn sàng chống giặc.
Quân Mông Cổ đánh bại
nhà Tống, lập ra triều Nguyên. Năm 1285 hoàng tử Thoát Hoan đưa hơn 50 vạn đại
quân tiến đánh Đại Việt. Nhưng khi đi hung hăng bao nhiêu thì lúc bỏ chạy trở
về nhục nhã bấy nhiêu, Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để tránh tên của quân
Đại Việt.
Quân Nguyên chạy trối
chết qua được biên giới đến châu Tư Minh tưởng đã yên, nào ngờ bị Hưng Võ Vương
Nghiễn và Hưng Hiếu Vương Úy đã vượt biên giới từ trước chở sẵn tiến đánh. Quân
Đại Việt tiến sâu vào châu U Minh để đánh đuổi khiến quân tướng nhà Nguyên phải
tháo chạy thoát thân.
Vua Trần Thánh Tông.
(Tranh sưu tầm)
|
Năm 1313 quan lại nhà
Nguyên cho lấn đất và cướp bóc. Vua Trần Anh Tông cho 3 vạn binh vượt biên giới
tiến đánh vào Vân Động, châu Trấn Yên, sau đó tấn công các xứ Lôi Động, Tri
Động và châu Quy Thuận, cuối cùng là châu Dưỡng Lợi (nay thuộc Quảng Tây).
Sự kiện này “Nguyên sử
loại biên” của Trung Quốc và “Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục ” có ghi
chép như sau:
Lúc ấy, viên Tri châu
Trấn An nhà Nguyên là Triệu Giác bắt người châu Tư Lang nước ta, lấy mất một lọ
vàng, và lấn hơn một nghìn khoảng ruộng. Nhà vua bèn sai quân sang đánh châu
Quy Thuận và châu Dưỡng Lợi nhà Nguyên, nói rõ là cốt sang đánh để báo thù. Nhà
Nguyên sai viên thiên hộ Lưu Nguyên Hanh sang dò xét… rồi đưa công điệp sang ta
nói: “Trước kia, nhà Hán đặt ra chín quận, danh giáo hóa của Trung Quốc đã tràn
lan tới. Huống chi, An Nam đối với Trung Quốc, nào là dâng địa đồ, nào là nộp
lệ cống, danh phận trên dưới đã phân minh, Trung Quốc đối với An Nam, thì ban
cho một cách đầy đặn không kể đến việc đáp lại đơn sơ, cái ơn huệ yên ủy người
phương xa thật là hết sức. Như thế thánh triều có phụ bạc gì quý quốc đâu! Thế
mà bây giờ sao lại tự nhiên gây ra sự không yên lành, dùng sức ngông cuồng để mở
rộng bờ cõi…”
Vua Trần Anh Tông hồi
đáp rằng: “Đấy là những người nhỏ mọn ở ngoài biên giới tự làm việc không
yên lành, nước tôi biết thế nào được việc ấy”. Đồng thời sứ giả mang thư
cũng nói thêm rằng: “Định lại bờ cõi và nghiêm sức quan lại ở biên giới
không được xâm phạm lẫn nhau như thế mới giữ được sự yên ổn lâu dài ở ngoài
biên giới”.
Vua Nguyên đồng ý, sai
người đem sắc thư đến dụ bảo, quân Đại Việt mới đồng ý lui binh.
4. Những đợt tiến quân
sang Trung Quốc thời hậu Lê
Tranh chấp đầu tiên
giữa nhà Minh và Đại Việt thời hậu Lê diễn ra vào năm 1438 tại châu An Bình, Tư
Lăng (nay thuộc Quảng Tây của Trung Quốc) và châu Tư Lang Hạ (nay thuộc Cao
Bằng, Viêt Nam). Hai bên đưa quân vượt biên tiến đánh lẫn nhau.
Theo “Minh sử” và
“Minh thực lục” có ghi chép rằng: Vùng châu An Bình, huyện Long Châu, phủ Thái
Bình (Quảng Tây) và châu Tư Lăng bị thổ quan châu Tư Lang của Đại Việt là Nông
Nguyên Hồng xâm lấn, chiếm 2 động và 21 thôn.
Sách “Bang giao chí”
của Phan Huy Chú có ghi lại nội dung thư của Lê Thái Tông gửi Tu Bố chính Quảng
Tây cho rằng do chính thổ quan châu An Bình và châu Tư Lăng bên Trung Quốc đánh
lấn châu Tư Lang của Đại Việt trước.
Hai nước đã có nghị
đàm giải quyết nhưng không có kết quả. Đến năm 1447 hai nước mới thống nhất 11
thôn thuộc về Long Châu của nhà Minh, 6 thôn thuộc về Hạ Tư Lang của Đại Việt.
Bức phù điêu vua
Lê Thánh Tông được
trưng bày trang trọng
tại Bảo tàng Đà
Nẵng.
(Ảnh qua baotanglichsu.vn)
|
Năm 1479 giặc cướp từ
biên giới nhà Minh hay lấn qua cướp phá của người Việt. Vua Lê Thánh Tông cho
800 quân đánh đuổi giặc cướp rồi đuổi theo sang tận huyện Mông Tự (Vân Nam)
dựng doanh trại ở đó. Các quan địa phương nhà Minh phải đến thương thảo, quân
Việt mới rút trở về.
Năm 1480, tình hình
biên giới có chiều hướng căng thẳng khi rất nhiều quân cướp từ biên giới nhà
Minh hay kéo sang tàn phá làng xóm người Việt, tổng binh tri Bắc Bình của Đại
Việt là Trần Ao sai Đào Phu Hoán đem 600 quân đánh vào Cảm Quả, chiếm được ải
Thông Quang (thuộc Quang Lang, Ôn Châu, Trung Quốc) rồi tiến vào Ban Động dựng
rào chắn, rồi tâu rõ sự việc cho triều đình. Sau khi hai bên thương thảo với
nhau, quân Việt mới rút quân trở về.
Trước những động thái
cương quyết bảo vệ lãnh thổ trước những động thái xâm lấn từ phương Bắc, thậm
chí sẵn sàng vượt biên tiến đánh khi cần thiết. Vùng biên giới phía Bắc từ năm
1480 trở đi trở nên yên ổn hơn, các toán cướp cùng quân nhà Minh không còn dám
tùy ý tràn sang lấn chiếm cướp phá như trước đây nữa.
Trần Hưng
Nguồn: TTVN
* Tên bài bản web đặt lại
* Tên bài bản web đặt lại