Theo Lên Đông xuống Đoài
Căn cứ trên nghiên cứu về lịch sử đấu tranh trên thế giới trong thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, Erica Chenoweth và Maria J. Stephan kết luận rằng các phong trào phản kháng bất bạo động có cơ may thành công và tạo biến đổi chính trị cao hơn các phong trào bạo động. Erica Chenoweth là phó giáo sư tại Trường Quốc tế học Josef Korbel của Đại học Denver và là nghiên cứu viên tại Viện Nghiên cứu Hòa bình Oslo. Maria J. Stephan là nghiên cứu viên cao cấp về chính sách tại Viện Hòa bình Mỹ và nghiên cứu viên cao cấp không thường trú tại Hội đồng Đại Tây Dương Họ là tác giả của cuốn sách “Tại sao phản kháng dân sự thành công: Logic chiến lược của xung đột bất bạo động” (“Why Civil Resistance Works: The Strategic Logic of Nonviolent Conflict”).Giã từ vũ khí
Khi nào và tại sao phản kháng dân sự thành công
Erica Chenoweth và Maria J. Stephan
Phạm Vũ Lửa Hạ dịch
(Kỳ 1)
Từ Cairo đến Kiev
Thoạt nhìn, các sự kiện gần đây, ví dụ như cuộc đấu tranh để củng cố những thắng lợi dân chủ ở Tunisia, cuộc phản cách mạng ở Ai Cập, tình trạng hỗn loạn ở Libya thời kỳ hậu Qaddafi, cuộc nội chiến dường như không giải quyết được Syria, và sự bất ổn ở Ukraine sau cuộc cách mạng ở Kiev, có vẻ như chẳng chứng minh được gì về triển vọng hứa hẹn của phản kháng dân sự. Nhưng nếu nghiên cứu kỹ hơn năm trường hợp này, ta quả thật thấy rõ tại sao quyền lực của nhân dân vẫn là phương pháp hiệu quả nhất để tạo ra thay đổi chính trị, thậm chí ở các nước đàn áp mạnh mẽ.
Dù có những trở ngại hồi năm ngoái, trong đó có các vụ phiến quân Hồi giáo ám sát hai chính khách có thiên hướng tự do nổi tiếng, Tunisia vẫn có vẻ là điểm sáng trong tất cả các quốc gia trải qua biến động Mùa xuân Ả rập. Thật vậy, cuộc cách mạng ở Tunisia rất giống với những trường hợp thành công của phản kháng dân sự trước đây, chẳng hạn như Philippines và Ba Lan. Tunisia có cơ hội cao để hoàn tất quá trình chuyển tiếp sang nền dân chủ trong vòng năm năm nữa. Quỹ đạo tích cực này chủ yếu là kết quả của cách Tunisians tập hợp chống lại Ben Ali. Đông đảo người dân Tunisia tham gia những cuộc biểu tình kéo dài, và những cuộc biểu tình này có sự tham gia của nhiều tầng lớp công dân đa dạng: phụ nữ góp phần dẫn đầu các cuộc biểu tình, và hội viên nghiệp đoàn sánh bước cùng với luật sư, giáo sư, và sinh viên. Về chiến thuật, người phản kháng chủ yếu tùy cơ ứng biến, nhưng họ cũng dựa vào nhiều phương pháp khác nhau, luân phiên giữa các cuộc biểu tình và những cuộc đình công toàn quốc làm tê liệt đất nước do nghiệp đoàn tổ chức. Các biện pháp đàn áp của chế độ để chống phản kháng, chẳng hạn như các đợt bố ráp an ninh gây chết người, bị phản tác dụng, càng khiến thêm nhiều người xuống đường biểu tình và khuyến khích binh lính đào ngũ, và người trung thành từ bỏ chế độ. Sau khi đảng Hồi giáo Ennahda thắng lớn trong kỳ bầu cử đầu tiên của thời kỳ hậu Ben Ali, vào năm 2011, những cuộc tranh giành quyền lực giữa phe Hồi giáo và các đối thủ thế tục, trong lúc bùng nổ những cuộc phản kháng và bạo lực chính trị, rốt cuộc đã dẫn đến thỏa hiệp và một thỏa thuận chia sẻ quyền lực hồi cuối năm ngoái. Đặc biệt, các nghiệp đoàn đóng vai trò chủ chốt trong việc làm trung gian để đạt thỏa thuận này.
Cuộc nổi dậy được đưa tin rình rang của Ai Cập, giống như cuộc nổi dậy của Tunisia, minh họa tiềm năng của phản kháng bất bạo động. Người phản kháng dùng nhiều loại chiến thuật khác nhau, từ chiếm đóng những quảng trường chính đến tổ chức các cuộc đình công lớn. Những nhà hoạt động tìm được đồng minh trong quân đội Ai Cập, và các binh sĩ này không chịu nổ súng bắn vào các đám đông quần chúng và từ bỏ Mubarak, dẫn đến thắng lợi cho phản kháng dân sự vào năm 2011. Nhưng chẳng bao lâu sau người ta thấy rõ rằng điệp khúc phổ biến “Quân đội và nhân dân là một” là một khẩu hiệu rỗng tuếch: quân đội Ai Cập (khác với quân đội Tunisia) có ý định bám víu quyền lực bằng mọi giá. Năm ngoái, sau khi quân đội lật đổ Mohamed Morsi, tổng thống được bầu cử một cách dân chủ, chính quyền được quân đội hậu thuẫn đã trở mặt với chính những nhà hoạt động từng tổ chức những cuộc biểu tình đầu tiên chống Mubarak ở Quảng trường Tahrir, và tống giam nhiều người. Với quân đội nắm chắc quyền lực nguyên vẹn – và cựu lãnh tụ quân đội, Thống chế Abdel Fattah el-Sisi, dự kiến sẽ giành thắng lợi trong cuộc bầu cử vào cuối tháng 5 – Ai Cập cung cấp nhiều bằng chứng cho thấy một phong trào bất bạo động thành công khi phế truất được một nhà độc tài cầm quyền không nhất thiết bảo đảm là sẽ mang lại tự do nhiều hơn và ổn định hơn trong thời kỳ sau đó.
Tuy nhiên, nếu các cuộc biểu tình ở Quảng trường Tahrir đã biến thành bạo động, tình hình ở Ai Cập rất có thể đã xấu hơn rất nhiều so với hiện nay. Những cuộc nổi dậy có vũ trang có khuynh hướng củng cố quyền lực của quân đội càng nhanh hơn, khiến binh sĩ ngại đào ngũ. Hơn nữa, những cuộc nổi dậy có vũ trang có khuynh hướng khơi mào những hành động tàn bạo nhắm vào thường dân trên quy mô rộng lớn hơn so với phản kháng bất bạo động. Những cuộc nổi loạn có vũ trang hiếm khi thành công, và khi thành công, chúng gần như chẳng bao giờ mang lại ổn định hơn.
Khi hàng ngàn người Ukraine phản kháng vào cuối năm 2013, kêu gọi Yanukovych từ chức, đây dường như là một minh chứng cho triển vọng hứa hẹn của phản kháng quần chúng bất bạo động. Dù phần lớn báo chí nước ngoài xem Kiev là trung tâm của các cuộc biểu tình, người dân quả thực đã nổi dậy ở nhiều thành phố và thị trấn trên toàn quốc. Cũng như ở Tunisia và Ai Cập, phong trào phản kháng vận dụng nhiều loại chiến thuật. Người dân tẩy chay hàng tiêu dùng của những doanh nghiệp có quan hệ với Yanukovych; ở Kiev, một chương trình rộng lớn tổ chức đi chung xe (car pool) giúp người biểu tình có thể đến và rời khỏi quảng trường chính của thành phố [Quảng trường Tự Do, N.D.]. Người phản kháng cũng hết mình vì đại nghĩa: ví dụ, thường dân nằm chắn ngang đường sắt ở ngoại ô thành phố Dnipropetrovsk để cản trở không cho một đoàn tàu chở 500 cảnh sát chống bạo động tinh nhuệ vào Kiev. Phong trào này đa dạng, bao gồm nam nữ từ các tổ chức chính trị, tầng lớp, và với độ tuổi khác nhau. Tính chất tập hợp được mọi tầng lớp của phong trào này đã khuyến khích các quan chức của chế độ và các lực lượng an ninh đứng về phía bên kia ở cả thành thị lẫn nông thôn.
Hẳn nhiên, chẳng bao lâu sau Yanukovych trốn khỏi Ukraine, vào cuối tháng 2, thắng lợi của phản kháng dân sự đã bị địa chính trị phá hoại, khi Nga phản ứng trước trào lưu thân Châu Âu ở Kiev bằng cách chiếm đoạt Crimea và gây bất ổn ở miền đông Ukraine. Nhưng những điều đó không hề thay đổi thực tế là chính các cuộc biểu tình quần chúng chủ yếu bất bạo động, chứ không phải cách mạng có vũ trang, đã lật đổ Yanukovych.
Giã từ vũ khí
Libya không thuộc hẳn trong nhóm các quốc gia có phản kháng bất bạo động dẫn đến thay đổi chính trị; dù gì đi nữa, Qaddafi bị lật đổ bởi một phong trào có vũ trang với sự hậu thuẫn của NATO. Nhưng Libya là một trường hợp cho thấy rõ ta sẽ sai lầm biết bao nếu phớt lờ các khả năng chiến lược của phản kháng dân sự. Libya chưa bao giờ có một phong trào phản kháng dân sự có phối hợp; thay vì thế, những nhà cách mạng và những người từ bỏ chế độ chuyển từ các cuộc biểu tình quần chúng thiếu tổ chức, chẳng hạn như các cuộc biểu tình gây rúng động Benghazi hồi tháng 2/2011, sang bạo động trong những ngày đầu tiên của cuộc nổi dậy này, giết nhân viên an ninh, đốt đồn cảnh sát và sở an ninh trên toàn quốc, và dấy loạn có vũ trang. Hơn nữa, tuy giành được những thắng lợi chiến thuật ban đầu, các lực lượng nổi loạn thua hẳn về quân số so với lực lượng trung thành với Qaddafi và hẳn đã tổn thất nặng nề nếu không có sự hỗ trợ của NATO, khiến họ hoàn toàn dựa vào cộng đồng quốc tế để giành thắng lợi về mình. Ngoài ra, số tử vong từ cuộc nội chiến Libyan cao hơn nhiều so với ở Tunisia, Egypt, và những trường hợp khác mà trong đó người hoạt động chỉ dựa vào các phương pháp bất bạo động. Suy cho cùng, chính cuộc nổi dậy có vũ trang đã khiêu khích để Qaddafi có bài phát biểu nổi tiếng vào cuối tháng 2/2011, trong đó hắn hứa “đến tận nhà” để “bắt những kẻ rác rưởi” đã phản bội hắn. Và Libya ngày nay có khung cảnh đáng sợ như các trường hợp trong quá khứ sau khi các nhóm phiến loạn lật đổ các chế độ độc tài: hàng chục phiến quân tự do hoành hành, và chính quyền trung ương nhu nhược đứng bên bờ vực sụp đổ. Kỳ bầu cử tương đối tự do hồi năm 2011 đã không dẫn đến các thể chế trị quốc hữu hiệu. Đúng là phản kháng bạo động đã lật được Qaddafi – nhưng phải trả giá đắt. Dù không thể biết liệu hành động bất bạo động có thành công hay không, những cuộc biểu tình tự phát vào tháng 2/2011 khiến nhiều người đồng loạt từ bỏ lực lượng an ninh của Qaddafi sau chỉ hai ngày cho thấy nếu đã thử biết đâu đã không vô ích.
Dù có tổ chức hơn phong trào ở Libya, phản kháng ban đầu có tính bất bạo động ở Syria gặp khó khăn do không đủ số người tham gia và thiếu một kế hoạch chặt chẽ. Những nhà hoạt động đã không phối hợp được các cuộc biểu tình trên toàn quốc theo cách lẽ ra đã có thể giảm bớt sự đàn áp của chính quyền và khuyến khích thêm nhiều người thuộc lực lượng an ninh và giới chóp bu kinh tế từ bỏ chế độ. Phần lớn các chiến thuật ban đầu mà phe phản kháng dùng để chống đối chế độ Assad có tính biệt lập và tùy cơ ứng biến: các cuộc biểu tình rời rạc diễn ra sau giờ cầu nguyện ngày thứ Sáu tại một nhà thờ Hồi giáo hay các cướp phá tập thể chớp nhoáng tại các chợ nổi tiếng. Hàng chục năm sống trong một nhà nước cảnh sát tàn bạo, trong đó láng giềng theo dõi lẫn nhau theo chỉ thị của một trong nhiều chi nhánh của cơ quan an ninh, đã khiến người phản kháng không tin nhau và phá hoại hành động tập thể. Tuy nhiên trong giai đoạn bất bạo động này của cuộc nổi dậy, một số nhân viên an ninh Syria vẫn bỏ hàng ngũ để về với phe chống đối, và phong trào nhận được mức độ ủng hộ vừa phải trong nước.
Nhưng việc cầm súng chống lại sự tàn bạo tất yếu của chế độ Assad triệt tiêu cơ hội giữ được sự ủng hộ dành cho phe chống đối ở Syria từ đông đảo những người Alawite, người Ki tô giáo, và người Druze – những nhóm thiểu số có đại diện trong phong trào bất bạo động và có ý nghĩa quan trọng đối với bất kỳ phong trào phản kháng dân sự tập hợp mọi tầng lớp và thành công. Cuộc nội chiến sau đó đã làm xa lánh những người trước đây tham gia và những người trước đây ủng hộ cuộc cách mạng này, và xét về nhiều mặt, điều đó đã giúp chế độ mạnh hơn. Và tổn thất quá lớn. Từ tháng 3 đến tháng 9/2011, khi cuộc nổi dậy chủ yếu mang tính bất bạo động, chế độ Assad sát hại ước tính 1.000 người mỗi tháng, và được biết bắt thêm hàng ngàn người nữa. Nhưng cuộc nội chiến diễn ra sau đó đã làm thiệt mạng 5.000 người mỗi tháng, và một phần ba dân số Syria hiện nay là người tị nạn.
Nếu trường hợp Syria theo tiền lệ lịch sử, tương lai của phe nổi loạn có vẻ u ám. Ngay cả khi có sự hậu thuẫn của các nhà nước bên ngoài, các phong trào bạo động từ năm 1900 đến năm 2006 có xác suất thành công chưa đến 30%. Trong các thành công có những trường hợp đáng nghi vấn, chẳng hạn như Khmer Đỏ ở Cam Bốt năm 1975 và phiến quân Hồi giáo của Afghanistan trong thập niên 1980. Trong các thất bại có cuộc nổi dậy của người Shiite chống lại Saddam Hussein ở Iraq vào đầu thập niên 1990, sau Chiến tranh Vùng Vịnh. Và tuy tình hình ở Syria đã tệ, nó còn có thể tệ hơn. Kể từ năm 1990, một cuộc nội chiến trung bình kéo dài chín năm. Ngay cả khi phe nổi loạn rốt cuộc giành thắng lợi, chiến thắng của họ có thể sẽ không đáp ứng được hy vọng ban đầu của họ muốn có tự do nhiều hơn. Chưa đến bốn phần trăm các chiến thắng của phe nổi loạn trong các cuộc kháng chiến có vũ trang từ năm 1900 đến 2006 dẫn đến nền dân chủ trong vòng năm năm; gần một nửa quay trở lại nội chiến trong vòng mười năm.
Bất cứ phong trào nào ở Syria, cả bất bạo động lẫn bạo động, cũng có lẽ khó có cơ may thành công, do sự tàn bạo của chế độ. Nhưng dù nghe có vẻ phi lý, phản kháng dân sự đang có tác dụng ở Syria và có lẽ có cơ may thành công cao hơn so với đấu tranh có vũ trang. Thật vậy, thay vì minh họa các hạn chế của phản kháng bất bạo động, con đường của Syria cho thấy lựa chọn bạo động có thể gây tác hại đến dường nào. Bạo động là đấu với Assad bằng sở trường của Assad trong khi khiến phe chống đối hoàn toàn dựa vào sự can thiệp bằng vũ trang của nước ngoài. Dù hoàn toàn có thể hiểu được do mức độ đàn áp của chế độ, việc đối đầu với Assad bằng chính phương thức bạo lực của hắn đã gây ra những hậu quả thảm thương – dù có thể tiên đoán được.
Để làm cách mạng
So sánh các trường hợp này ta có thể thấy vài điểm quan trọng. Thứ nhất, các phong trào bất bạo động thu hút sự tham gia đa dạng hơn nhiều so với các phong trào có vũ trang, tăng xác suất nhân viên an ninh đào ngũ và giới chóp bu của chế độ từ bỏ chế độ. Đúng là càng đông càng an toàn, nhất là khi người phản kháng đại diện cho nhiều tầng lớp khác nhau của xã hội. Thứ hai, các phong trào bất bạo động thành công đã dùng nhiều chiến thuật khác nhau. Trái lại, ở Syria, những nhà hoạt động bất bạo động thường chỉ dựa vào các cuộc biểu tình và chiếm đóng, vốn là những phương pháp phản kháng dân sự có rủi ro cao nhất. Các cuộc đình công làm thử, các đợt tẩy chay, và các hình thức bất hợp tác quần chúng khác đều yếu ớt, cục bộ địa phương, và thiếu hậu thuẫn.
Thứ ba, mặc dù các cuộc phản kháng của Mùa xuân Ả rập tạo cảm hứng cho nhau và thống nhất về khẩu hiệu tương tự có tính biểu tượng được hô vang lần đầu ở Tunisia – “Nhân dân muốn chế độ sụp đổ!” – chúng không hề giống nhau. Thực ra, kết cuộc khác nhau ở mỗi quốc gia cho thấy rõ tại sao các nhóm bất bạo động phải cưỡng lại ước muốn sao chép một cuộc biểu tình quần chúng ở một quốc gia khác mà không có một chiến lược tổng quát hơn của chính mình, nhất là khi cuộc biểu tình quần chúng đó là nước cờ tàn cuộc của một phong trào bất bạo động lâu dài hơn. Thứ tư, ngoài việc giết nhiều thường dân không vũ trang hơn và làm giảm mức độ tham gia, phản kháng có vũ trang khiến các nhóm phiến loạn phụ thuộc đến mức nguy hiểm vào sự hậu thuẫn từ bên ngoài. Ở cả Libya và Syria, sự lệ thuộc hoàn toàn như vậy đã khiến phiến quân càng dễ bị cáo buộc là tay sai của các kẻ thù nước ngoài. Hơn nữa, sự hậu thuẫn quốc tế dành cho các nhóm vũ trang thường có điều kiện và dễ thay đổi, khiến các nhóm phiến loạn may nhờ rủi chịu tùy theo ý thích của người tài trợ (như minh chứng qua việc Washington ngần ngại giữ lời hứa hỗ trợ đáng kể cho phiến quân Syria).
Trong cuộc họp Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc hồi năm ngoái, Tổng thống Mỹ Barack Obama nói với một bàn tròn về vai trò thiết yếu mà xã hội dân sự đã có trong gần như tất cả các biến đổi xã hội và chính trị lớn trong nửa thế kỷ vừa qua, từ phong trào dân quyền ở Mỹ, đến cuộc chiến chống chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu, đến cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc ở Nam Phi. Obama nói rằng quyền hội họp và lập hội ôn hòa “không phải là một giá trị phương Tây; đây là một quyền phổ quát.” Nhưng không gian cho quyền này đang thu hẹp lại ở nhiều nơi trên thế giới. Các quốc gia đang thông qua các luật bóp nghẹt xã hội dân sự, hạn chế việc các tổ chức phi chính phủ tiếp cận với nguồn tài trợ nước ngoài, kiểm soát chặt chẽ công nghệ thông tin liên lạc, và, trong những trường hợp cực đoan hơn, bắt bớ và quấy nhiễu các nhà báo và những nhà hoạt động. Obama kêu gọi các chính phủ xem các tổ chức dân sự như đối tác và, trong lời kêu gọi có phần thúc bách hơn, yêu cầu các chính phủ và các tổ chức phi chính phủ tìm ra những cách sáng tạo hơn và hữu hiệu hơn để hỗ trợ các nhóm và giới hoạt động đấu tranh chống lại bất công và sự áp bức.
Nhưng điều đó đặt ra những câu hỏi về việc những hình thức hỗ trợ từ bên ngoài nào dành cho các nhóm xã hội dân sự bất bạo động có hiệu quả, và những hình thức nào không có hiệu quả. Ý tưởng “không gây tác hại” vẫn là nguyên tắc trụ cột về cách các chính phủ và thể chế nước ngoài nên cổ xúy dân chủ và hỗ trợ các nhóm xã hội dân sự ở các nước khác. Sự hậu thuẫn quốc tế dành cho các phong trào như vậy có thể có nhiều hình thức, chẳng hạn như giám sát các phiên tòa xét xử các tù nhân chính trị, can dự vào các phong trào đoàn kết để ủng hộ quyền hội họp ôn hòa, cung cấp các kênh tin tức và thông tin khác, đưa ra cảnh báo đối với các quan chức an ninh có thể muốn dùng vũ lực gây chết người nhắm vào những người phản kháng bất bạo động, và hỗ trợ việc xây dựng năng lực nói chúng cho các xã hội dân sự và báo chí độc lập. Nhưng các thành phần địa phương là vị thế tốt nhất để quyết định loại hỗ trợ nào là phù hợp và liệu hình thức hỗ trợ đó có đáng với các rủi ro liên quan hay không.
Củng cố xã hội dân sự không chỉ là một điều kiện tiên quyết để phát triển dân chủ lâu bền. Điều đó cũng có thể bảo vệ thường dân tránh khỏi những hình thức đàn áp bạo lực dã man nhất. Dù các chế độ có thể không dùng bạo lực đối với những người phản kháng ôn hòa, lịch sử cho thấy rằng việc giúp đỡ các nhóm xã hội dân sự duy trì kỷ cương bất bạo động – một tập quán thường đòi hỏi có sự phối hợp, hợp tác, và huấn luyện – rốt cuộc có thể giảm thiểu mức thương vong cho thường dân. Ngoài việc ngăn cản cuộc nổi dậy có vũ trang, việc duy trì đường lối phản kháng dân sự có thể giúp người phản kháng tránh được những hình thức cực đoan nhất của bạo lực nhà nước bằng cách tăng phí tổn của sự đàn áp (dù như Tunisia và Ai Cập đã chứng minh, hàng trăm người phản kháng vẫn có thể trả giá bằng mạng sống của mình). Các phong trào bất bạo động không lệ thuộc nhiều vào sự hậu thuẫn từ bên ngoài như các phong trào có vũ trang, nhưng cộng đồng quốc tế có thể góp phần bảo đảm rằng các nhóm xã hội dân sự duy trì không gian họ cần để thực thi các quyền cơ bản của họ về tự do ngôn luận và tự do hội họp trong khi tránh được ý muốn cầm súng để theo đuổi các mục tiêu của mình.
Giới hoạch định chính sách nên ưu tiên “trách nhiệm hỗ trợ” các nhà hoạt động bất bạo động và các nhóm xã hội dân sự, thay vì chỉ tìm cách bảo vệ thường dân bằng vũ lực quân sự, như trong đợt NATO can thiệp vào Libya. Dĩ nhiên, các phong trào phản kháng dân sự là các phong trào cây nhà lá vườn, và phải tiếp tục như vậy. Nhưng trong những năm gần đây, cộng đồng quốc tế đã có nhiều hành động gây phương hại đến phản kháng dân sự vì đã hậu thuẫn một cách nhanh chóng và nhiệt tình các thành phần có vũ trang khi họ xuất hiện. Thảm kịch của Syria là một ví dụ điển hình. Dù sự đàn áp của chế độ, với sự hậu thuẫn của Iran và Nga, rõ ràng đã góp phần biến một cuộc nổi dậy chủ yếu mang tính bất bạo động thành một cuộc nội chiến, các thành phần bên ngoài lẽ ra đã có thể làm được nhiều hơn để hỗ trợ phản kháng dân sự và kéo dài cuộc nổi dậy bất bạo động ban đầu. Lẽ ra họ đã có thể góp phần khuyến khích, phối hợp, và khai thác cho mục đích chính trị những trường hợp từ bỏ chế độ (trong đó có trường hợp của các nhân vật chủ chốt của giới chóp bu Alawite); yêu cầu Assad cho phép các nhà báo nước ngoài lưu lại Syria; đẩy nhanh sự hậu thuẫn tài chính cho các mạng lưới bất bạo động quần chúng cơ sở và các hội đồng địa phương; và cung cấp nhiều thông tin cho các nhà hoạt động Syria về những điều cần làm để giữ tính chất bất bạo động trong những hoàn cảnh bị đàn áp cao độ. Thay vì thế, cộng đồng quốc tế đã công nhận và bảo hộ về mặt chính trị cho các thành phần có vũ trang, hỗ trợ cho họ cả phương tiện không gây chết người lẫn gây chết người, và góp phần quân sự hóa cuộc xung đột này, phá hoại đà tiến triển của phong trào bất bạo động. Không có giải pháp màu nhiệm nào để hỗ trợ một cách hiệu quả cho phe chống đối bất bạo động ở Syria. Nhưng các thành phần bên ngoài đã thiếu tốc độ và sự phối hợp, nhất là vào thời kỳ đầu của cuộc cách mạng này.
Trường hợp Syria cho thấy rõ nhu cầu cấp bách về đạo đức và chiến lược cần tìm ra những cách linh hoạt, nhanh nhạy hơn để hậu thuẫn các phong trào phản kháng bất bạo động. Những thành phần nội địa cổ xúy quyền lực của nhân dân sẽ tiếp tục hoạch định tương lai của chính mình. Nhưng các thành phần bên ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm rằng phản kháng dân sự có cơ may giành thắng lợi.
Nguồn: Erica Chenoweth and Maria J. Stephan, Drop Your Weapons, Foreign Affairs, July/August 2014.
Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Vũ Lửa Hạ
(Một phần của bản dịch tiếng Việt, ký tên Khương An, đã đăng trên Thời Mới Canada, ngày 2/7/2014. Bài đăng trên blog này là bản dịch trọn vẹn.)