18 août 2014

Gợi Ý Phát Triển Việt Nam (Bài 2)



Phan Văn Song

B/ Bối Cảnh Ngày Nay Ở Việt Nam :


Chúng tôi xin trích đăng một nhận định kinh tế cuối cùng nhận được :
Con số thống kê Bộ Kế hoạch Đầu tư Việt Nam vừa công bố cho thấy đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) vào Việt Nam trong năm 2013 chỉ ở mức 8 tỷ đô la, bằng 66 % so với cùng kỳ năm 2012. Sự suy giảm từ 19,9 tỷ đôla năm 2010 xuống con số như trên, trong lúc FDI toàn cầu tăng từ 1 đến 1,9 ngàn tỷ trong cùng thời gian cho thấy FDI tại Việt Nam đang đi ngược chiều với xu hướng thế giới. Sự tụt hạng đầu tư của Việt Nam ở châu Á cùng thời gian cũng chứng minh môi trường kinh doanh Việt Nam đang mất điểm trong mắt giới đầu tư, so với nước cùng khu vực như Indonesia, tăng từ vị trí 21 lên 9 một cách ngoạn mục.



1/ Những chướng ngại vật :

Thông báo số lượng FDI tại Việt Nam, thường chênh lệch xa với số lượng FDI thật sự được chánh thức đưa vào sử dụng vì tốc độ giải ngân yếu kém. - thủ tục hành chánh kém ? hay giữ tiền lâu tạo tiền lời ngân hàng lớn?
Việc đưa vốn đầu tư vào chính thức sử dụng tại Việt Nam là một thử thách đối với tập đoàn nước ngoài vì các thủ tục giấy tờ cũng như các điều khoản qui định đầu tư rắc rối, không rõ ràng,
do quan liêu hay tham nhũng ? do hay cả hai ?
Các dự án lên đến hàng tỉ đôla thậm chí sau khi đã hoàn thành các thủ tục, vẫn phải đối mặt với những giai đoạn “khó nuốt nhất” của quy trình đầu tư: dụ như “giải phóng mặt bằng”. Được quản lý bởi các chính quyền địa phương nghèo vốn, hay muốn làm ăn, đòi chia chác hay tham nhũng ?


Kinh tế gia Raphael Cecchi của hãng phân tích đầu tư ONDD tại Bỉ trả lời trong một cuộc phỏng vấn đài BBC rằng, một trong hai thế mạnh lớn nhứt của Việt Nam đó là lực lượng lao động đông đảo với giá rẻ (và chỉ có vậy thôi, người viết xin góp lời bàn ).
Tuy nhiên ngay cả ông và giới phân tích trên thế giới cũng đồng ý rằng, « trước nhu cầu thị trường toàn cầu về hàng hóa kỹ thuật càng ngày càng tinh vi, cách thâm dụng vốn – do tham nhũng ? ăn cắp ? Rút ruột công trình ? Cũng như tốc độ tăng giá lao động ở Việt Nam , vì lạm phát ? Vì mãi lực bị xói mòn? Thế mạnh của lao động giá rẻ,  sẽ, một ngày rất gần, không còn cần thiết.
Giới quan sát nói Việt Nam sẽ khó đón nhận những làn sóng FDI khổng lồ trong tương lai với đội ngũ lao động kém trình độ, chủ yếu bắt nguồn từ những bất cập trong nền giáo dục vốn thiếu sự tự do để cạnh tranh, chuyên môn hóa.
Một ví dụ: Vào năm 2011, Intel, hãng sản xuất chip điện tử hàng đầu của Mỹ, đã gặp trở ngại trong việc đầu tư vào Việt Nam khi số công nhân đủ trình độ tuyển dụng chỉ bằng một phần nhỏ số lượng yêu cầu. Và hãng Intel đã gạt hẳn qua một bên lợi thế lao động giá rẻ của Việt Nam, tuyên bố rằng đó không phải là điều họ tìm kiếm. 
Trong những năm trước, khi giá lao động Trung Quốc tăng nhanh, nhiều ý kiến đã cho rằng Việt Nam sẽ là điểm dừng chân tiếp theo của những nhà đầu tư muốn hướng về Châu Á. Cho đến nay, Trung Quốc, với giá lao động tối thiểu cao hơn Việt Nam rất nhiều, vẫn là điểm nhập cảng đầu tư hàng đầu cho các tập đoàn kỹ nghệ của thế giới như Samsung, Apple nhờ những nỗ lực nâng cao phẩm chất kỹ thuật lao động.
Một bài viết của kinh tế gia Geoffrey Cain trên tờ Foreign Policy tháng 7/2012 có đoạn: « Việt Nam của năm 2012 là xứ sở mà chính phủ ra những quyết định xây dựng các hải cảng kỹ nghệ ở những nơi kỳ quái hoặc đường xá không có ý nghĩa kinh tế nào ! »
Vấn đề cơ sở hạ tầng không được đầu tư đúng nơi, đúng lúc và đúng mức độ đang là vấn nạn, gây cản trở với giới đầu tư vào Việt Nam, đặc biệt khi các vấn đề mất điện và giao thông đình trệ có những ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và lưu thông hàng hóa. Nhiều năm qua, các doanh nghiệp đặt xưởng sản xuất tại Việt Nam liên tục kêu ca là 'chới với' vì không có điện để sản xuất, nhất là trong thời điểm mùa hè, dẫn đến thiệt hại về cả năng suất cũng như chi phí sản xuất. Thí dụ, Samsung, với một vụ mất điện 10 phút đủ có thể biến các sản phẩm dang dở thành 'phế thải', gây tốn kém lên đến hàng chục triệu đô la. Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) liên tục lên tiếng than lỗ vì thiếu nước ? Chi phí mua điện ngoài tăng cao, cũng như các nguồn điện chậm tiến là các lý do cho vấn đề bất cập năng lượng. Thế nhưng, EVN vẫn tiếp tục đầu tư vào các ngành không liên quan như ngân hàng, bảo hiểm, bất động sản!
No comments!

Nhưng, Chướng Ngại Vật số một vẫn là doanh nghiệp nhà nước (DNNN):

"Doanh nghiệp Nhà Nước vẫn là nòng cốt của nền kinh tế trong chiến lược phát triển" - Thủ tướng CS Nguyễn Tấn Dũng (sic)
Doanh nghiệp Nhà Nước (DNNN), bị coi là trở ngại lớn nhất với sự phát triển của khu vực tư doanh, chẳng những là nòng cốt và tương lai của nền kinh tế Việt Nam, mà còn là lá chắn nguồn FDI, suốt nhiều năm qua. Ngân hàng HSBC ngay từ những năm 2012 ( 1/8/2012) đã  đánh giá rõ cái sai lầm lớn nhứt của Việt Nam là “ tập trung 40% tổng sản lượng quốc gia (GDP) vào các tập đoàn nhà nước kém hiệu quả, chẳng những đã tạo ảnh hưởng tiêu cực lên thị trường mà còn lại đòi hỏi thêm sự hỗ trợ khổng lồ để tiếp tục tồn tại”.
Các doanh nghiệp này, bị các nhà đầu tư lên án là với số vốn lớn mạnh đã ra sức thao túng vị trí « đầu tàu của ngành », chiếm thế độc quyền bằng cách mở rộng đa ngành để tạo khó khăn cho việc thâm nhập thị trường của nước ngoài, ảnh hưởng đến mức FDI. Những ngày nay (2014) bản cũ vẫn tốn tại. Vì chỉ ở các Tập đoàn Nhà nước các Đảng Viên tai to mặt lớn mới có nơi để dựa hơi vào “ăn có” nếu không nói là “ăn cắp”.
Cũng trong bài viết trên tờ Foreign Policy nói trên, Geoffrey Cain viết về doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam: « Họ thật là một đám phiền toái ! chẳng ai (nhà đầu tư nước ngoài) muốn dính líu vào họ. Tuy nhiên, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vẫn tiếp tục khẳng định Doanh nghiệp Nhà Nước vẫn là nòng cốt của nền kinh tế trong chiến lược phát triển đất nước Việt Nam từ đây đến năm 2015. Có điều chính ông này (TT NTD) là người bị dư luận lên án vì đã bỏ ngoài tai những cảnh báo của các chuyên gia về tác hại của mô hình DNNN nhiều năm trước khi Vinashin, Vinalines đổ vỡ ».


 Và cuối cùng : lạm phát vẫn là nỗi ám ảnh kinh hoàng :
Lạm phát tại Việt nam trong năm 2012 có giảm xuống đấy (10%), thế nhưng những dư âm và hậu quả của mức lạm phát lên đến 23% của năm 2011 vẫn còn tồn đọng trong nền kinh tế hiện tại và tâm lý các nhà đầu tư (Dự định kế hoạch năm sẽ đưa lạm phát xuống còn 8 % năm  2014 – Mong lắm !) Phải chăng đó là một phần nguyên nhân của tình trạng suy giảm lượng FDI từ năm 2012 trở đi ? Trong bối cảnh lạm phát Việt Nam - cao nhất Châu Á năm 2011- các khách hàng nước ngoài, các công ty nước ngoài, trở nên lãnh đạm hẳn với thị trường Việt Nam vì mất đi sự lợi thế cạnh tranh giá cả trước áp lực lạm phát vì sẽ đem đến yêu cầu tăng lương, chi phí vật liệu tăng giá, lãi suất ngân hàng cao và các ngân hàng hạn chế tín dụng. Nguồn FDI vào ngành bất động sản cũng giảm xuống thấy rõ, dư âm subprime vẫn còn tồn đọng.

Để giải quyết mức lạm phát, Việt Nam cần phải hy sinh tăng trưởng thường niên và giá trị tiền đồng. Điều này cũng đang khiến các nhà đầu tư lo ngại, và do đó cũng sẽ giảm mức độ đầu tư tại Việt Nam.





2/Thử đóng góp một cái nhìn cho Việt Nam tương lai :

Bối cảnh kinh tế Việt Nam trong bối cảnh kinh tế liên lập, toàn cầu hóa thế giới. Về mặt kinh tế chúng ta phải thấy rõ, toàn cầu hóa là cái mẫu số chung của một nền kinh tế liên lập.

Việt Nam chỉ có một phương cách duy nhứt là :

-       Hãy bỏ hẳn mô hình Tàu, bỏ hẳn mô hình nửa quốc doanh nửa tư doanh.
Hiện nay chỉ số các doanh nghiệp nhà nước trong hệ thống doanh nghiệp kỹ nghệ Tàu cũng là một chướng ngại vật cho nền kinh tế Tàu

-       Đảng Cộng sản cũng là một chướng ngại vật cho một sự Phát triển hài hòa, bền vững của Tàu. Và dỉ nhiên của Việt Nam.

Nhưng Tàu là Tàu, phức tạp hơn Việt Nam, và ở đây cũng không phải chỗ để chúng ta phân tách cái địa lý kinh tế chánh trị của Tàu. Chúng ta chỉ tóm tắt sơ lược là Tàu chia đất nước ra làm ba vùng thấy rõ. Các tỉnh ven biển, phát triển giàu có, dân chúng có mức sống ngang ngửa với mức sống Tây phương, nhưng trong vùng nội địa, các tỉnh nội địa vẫn ở tình trạng chậm tiến, và cuối cùng các tỉnh biên cương, Tân Cương, Tây Tạng là những vùng trái độn do dân Hán chiếm đóng có thế chiến lược không hơn không kém. Đảng Cộng sản cầm quyền Tàu cũng như đảng Cộng sản ta, chỉ lo củng cố địa vị cầm quyền, tổ chức theo kiểu kim tự tháp. Trung ương tập quyền đấy ! Nhưng ngày nay, với Tập Cận Bình -(hồi xưa cũng đã có những hiện tượng tranh chấp nầy rồi, nhưng Mao Trạch Đông, hay Đặng Tiểu Bình đã thủ tiêu tất cả đối lập )- đang phải  lo đấm đá vì bị những chia rẽ thế lực khác nhau, nào là phe nhóm Beijing, nào là phe nhóm Shanghai, hay phe nhóm Trùng Khánh hiện thời đã bị loại …
Và Việt Nam cũng thế:
Suốt ngày, giành giựt, cân bằng quyền lực, dòm ngó, «canh me» nhau nên không lo gì đến đất nước. Riêng chuyện Biển Đông, phe Tàu, phe Tây, phe Mỹ cũng canh me dòm ngó lẫn nhau… Theo Mỹ hay theo Tàu không phải vì quyền lợi đất nước mà chỉ quyền lợi cá nhơn, phe đảng…

Vì những lẽ nêu trên, chúng tôi thiển nghĩ, chẳng có một phương thức nào gọi là khả thi để cứu nước hay kiến nước khi nào còn các “nhóm” của đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền.

Chúng tôi nhấn mạnh «từ ngữ» Các nhóm. Vì ai nghĩ rằng Đảng Cộng sản không còn cầm quyền nữa là sẽ thay đổi là lầm to! Dư âm, ảnh hưởng tàn dư, ngoại vi, huệ dậu, coi dzậy mà không phải dzậy còn nhiều lắm.
Cộng sản là một con bạch tuộc, Tàu là một con Bạch tuộc, là một Tề Thiên Đại Thánh biến hóa ngàn dạng, ngàn hình.

Ngày nay, với những nhận định về nền kinh tế vừa nói trên, chứng minh rằng  tình hình kinh tế của Việt Nam rất bi đát. Tổng sản lượng nguồn vốn đầu tư ngoại quốc đến nửa năm 2014 chỉ vỏn vẹn trên dưới 9 tỷ dollars! Thử nhơn đôi, hy vọng lắm, cuối năm nguồn đầu tư ngoại quốc vào Việt Nam cũng chỉ độ 18 tỷ ( so sánh tiền Kiều Hối cũng đã xêm xêm 12 tỷ rồi). Ngày nay, Việt Nam còn gì để hấp dẫn, ngoài công nhơn giá rẻ ? Giá rẻ nhưng không còn khéo tay nữa, vì tay nghề không còn, vì kỹ thuật càng ngày càng cần tay nghề cao, chuyên môn, để hội nhâp vào công nghiệp khoa học hiện đại.
Vậy làm nghề gì?



Tiếp tục nghề nông ?
Trồng lúa, trồng bắp, trồng đậu nành, … để xuất cảng? Tình hình thế giới nay đã thay đổi:  ngày mai, kỹ nghệ xe hơi sẽ xuống, vì thiếu nhiên liệu, vì ô nhiễm, chuyên chở giao thông đi lại con người từ chuyên chở tư nhơn, sẽ sang chuyên chở công cộng. Chỉ có anh Tàu còn thèm đi xe hơi thôi. Xe hơi ngày mai, phải chạy bằng điện lực, chạy điện phải sản xuất điện, một đất nước mà mỗi ngày còn bị cúp điện nhiều lần làm sao sản xuất đủ điện cho xe chạy. .. Cái thí dụ việc hãng Intel đầu tư  ở Việt Nam năm kia không tìm ra công nhơn đủ chứng minh tình trạng « dốt » của công nhơn Việt Nam. Vẫn biết rằng, Intel sẵn sàng đào tạo công nhơn, nhưng muốn có công nhơn để đào tạo, cũng phải có công nhơn đủ trình độ học vấn, hiểu biết tí ti khoa học, để hấp thụ được cái kỹ thuật. Siêng năng, cần cù, chưa đủ, phải có vốn liếng hiểu biết, không thì suốt đời chỉ làm anh khuân vác siêng năng, cần cù thôi.

(Sau đó vì vấn đề «mất mặt bầu cua», người Việt chúng ta từ hải ngoại đến trong nước đều nguyền rủa In-tel, kỳ thị, khi dễ Việt Nam!… Trong nước, nào anh hùng, hai lần chiến thắng Tây phương, đuổi Tây thắng Mỹ. Ngoài nước, nào là đại giáo sư, bác học, có vị làm vị ở NASA, có vị sáng chế ra quả bom phá hầm, phá núi …). Nhưng hỡi ôi, sự thật phũ phàng, có tài «lấy thân phủ đầu súng», có tài dùng «sức người biến sỏi đá thành cơm», cũng không giúp người Việt Nam trong nước vào làm việc với Intel, hay một hãng điện tử ngoại quốc nào.

Để so sánh, sực nhớ đến dân Việt Nam tỵ nạn hải ngoại ngày nào, tới Mỹ, nhào vào nghề điện tử,chồng  «tách» vợ «ly» - (ý nói chồng làm khâu« technical » vợ làm khâu «assembly» của các hãng điện tử vùng Silicon Valley – San Jose Bắc California thuở mới qua tỵ nạn). Nói đến việc ấy là để chúng ta vinh danh và cám ơn chế độ và ngành Giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa đã đào tạo thế hệ anh em chúng ta đầy đủ thông minh, vốn liếng hiểu biết để hội nhập dễ dàng với kỹ thuật khoa học xứ người. 

Và đây cũng là cái cầu để chúng ta nói đến chế độ Giáo dục.
 40 năm cầm quyền toàn đất nước Việt Nam, phương thức và chương trình Giáo dục của Đảng Cộng sản không giúp được người dân đi làm một việc rất tầm thường - thợ assembly cho một quy trình sản xuất chip điện tử - bằng chứng là Intel đã than phiền là không tuyển được số nhơn viên có trình độ để họ huấn luyện.


Cải tổ ngành Giáo dục phải là việc làm đầu tiên. Xây dựng lại một nền tảng đạo đức, khoa học kỹ thuật văn hóa để con em có một ý thức công dân Việt Nam rõ ràng. Có một  nền tảng, một cốt lõi, là những con người tốt, với kiến thức kỹ thuật căn bản rõ ràng, chúng ta mới có thể đi đến một suy nghĩ phát triển tương lai cho đất nước.
Hãy bắt chước Ấn Độ, Ấn Độ tiếp tục dùng anh ngữ làm ngôn ngữ giảng dạy chánh ở cấp trung học. Ngày nay Ấn Độ có một tầng lớp có chuyên môn cao về ngành điện tử. Kỹ sư Ấn Độ nhận gia công tất cả những công tác viết những nhu liệu điện toán cho toàn thế giới. Nếu Trung Cộng là một nhà mấy lắp ráp gia công của thế giới, thì Ấn Độ là một cơ sở gia công các nhu liệu toàn thế giới. Tàu làm «vỏ » các bộ máy, Ấn độ làm «trí» sự thông minh của cái bộ máy. Thế giới ngày nay chia làm ba phần, phần sáng chế, kiến tạo ở Mỹ, Ấn Độ viết bộ nhớ, trí thông minh, Tàu làm vỏ.

Hãy thử mơ tìm con đường sống cho Việt Nam tương lai :
Lấy thử Đồng bằng sông Cửu Long làm thí điểm cho cái suy nghĩ của chúng ta. Nước Việt nam là một nước nông nghiêp, nghề nông là cổ truyền để nuôi dân Việt Nam. Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa của miền Nam Việt Nam. Vựa lúa, nhưng cũng là vườn cây ăn trái, do màu mỡ của phù sa do hai nhánh sông Cửu Long tạo thành. Vựa lúa, vườn cây ăn trái, nhưng cũng tôm, cá và thủy sản. Đồng bằng sông Cửu là điển hình của nghề nông Việt Nam. Nên vì vậy, ngoài nghề nông ra, Việt Nam không phát minh hay chọn một nghề nghiệp kỹ nghệ gì cả. Từ thời Quân chủ lạc hậu đã đành, thời thuộc địa Tây cũng chọn nghề nông để khai thác Việt Nam, kể cả nghề nông kỹ nghệ, trồng cao su, cà phê, trà, tiêu hay bông sợi…
Nghề chăn nuôi phần đông cũng còn rất gia đình, không được kỹ nghệ hóa. Việt Nam không có một cơ sở lớn nào về chăn nuôi cả. Không có trại gà, không có trại heo mà cũng chẳng có nuôi bò thịt hay bò sữa. 37 năm cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, dù có làm hợp tác xã đi nữa cũng chỉ lay hoay với những nông trại hay trang trại loại gia đình. Những năm qua có những trại nuôi thủy sản, nuôi cá ba sa để xuất cảng, và nuôi tôm, nhưng vì thiếu tánh cách khoa học, vì làm ăn sổi, kiểu ngắn hạn nên tuy có làm có ăn thật sự đó nhưng không có hậu, không có tương lai, vì tác hại môi trường, nên đất đai khai thác mỗi ngày mỗi xói mòn đi, và cũng vì không có chương trinh nên không có đầu tư đúng đắn, thiếu bền vững, dự phóng, thay thế gìn giữ.

Nguyên tắc «Chặt cây đốn cây khai thác rừng phải trồng cây giữ rừng» không có ! Nếu có, cũng chỉ làm cho lấy lệ hay che mặt thế giới để lấy ngân quỹ viện trợ quốc tế về trồng rừng.

Và một nguy hiểm hơn, cũng do tánh liên hệ và toàn cầu hóa. Đồng bằng sông Cửu Việt Nam là cuối giòng sông Mê Kông. Thượng nguồn ở Tây Tạng, ở Tàu, ở Miến Điện, Thái Lan, ở Lào, ở Cao Miên. Ngày nay, thượng nguồn đang bị giặc Tàu ngang nhiên và không trách nhiệm xây đập thủy điện và lấy nước dẫn thủy nhập điền vào những vùng đất khô cằn phía Đông Bắc Tàu. Các quốc gia láng giềng thượng nguồn Lào cũng đang có chương trình xây đập thủy điện để hoặc bán điện cho Thái Lan, biến sinh thái các vùng hạ lưu sông Mê Kông tự nhiên trù phú lúc xưa thành những vũng ao nghèo nàn, Biển Hồ Tonlé Sap, ngày xưa trù phú đầy cá, nay không còn cá nữa để nuôi dân, diện tích nước Hồ những mùa nước những năm nay không bằng phân nửa những năm xưa. Biển Hồ thiếu nước thì giòng Cửu Long ở miền Nam Việt Nam cũng thiếu nước. Thủy lực nước đổ không còn đủ mạnh để chặn giòng thủy triều từ biển tràn vào. Nước mặn chạy ngược lên, ngày xưa một hai cây số vào trong nội địa, ngày nay cả trăm cây số. Những vùng trồng lúa dĩ nhiên ngày nay không trồng lúa được vì nhiễm mặn! Nhiểm mặn thì nuôi tôm, nuôi cá…nhưng cũng vẫn còn nghề nông thì sao?
Một chương trình hợp tác thật sự và lương thiện giữa các quốc gia của lưu vực sông Mê Kông phải được suy nghĩ để đi đến một chương trình khai thác và sử dụng sông MêKong công bằng lương thiện và bền vững. Nhưng dù sao cũng trễ rồi ! Bởi sự thiếu lương thiện của Tàu, đồng bằng sông MêKong, vựa lúa của miền Nam Việt Nam đang bị nhiễm mặn. Vùng đất nông nghiệp của Việt Nam nay cũng đã giảm.

Phải từ nay sửa soạn kỹ nghệ hóa đồng bằng sông Cửu.

Hẹn tuần sau tiếp.


Hè 2012,  hiệu đính Hè 2014
Kỷ Niệm ngày Hội Thảo Wikimania X London 8/10 tháng 08

Phan Văn Song