Mươi năm trước đây, dưới khẩu
hiệu của Đặng Tiểu Bình, "thao quang dưỡng
hối" giấu sức mạnh chờ thời gian, Trung Qu ốc đã làm thế giới
tưởng rằng ông trỗi dậy một cách hòa bình, rằng "Trung Qu ốc mạnh lên thì cả thế
giới đều được phúc lợi chung". Sau đó không lâu,thế giới bừng tỉnh giấc
nam kha hòa bình khi giọng ông thay đổi, tác phong thay đổi, từ mềm thành cứng,
từ thủ thành công, từ lịch sự đến đe dọa, gây hấn, trịch thượng. Ông bốp chát
với Mỹ, căng thẳng với Nhật, trấn áp lân bang, lè lưỡi bò liếm hết Biển Đông,
liếm tất, không chừng liếm qua đến cả Ấn Độ Dương. Vậy thì chiến tranh là hậu
quả phải tiên liệu cùng với cái đà trỗi dậy của ông? Ông muốn gì? Đó là câu hỏi
đặt ra trong sách báo ngày nay.
Không ai trả lời được câu hỏi
vì một lẽ giản di: không ai đoán trước được tương lai, huống hồ là tương lai
của Trung Qu ốc
mà ai cũng biết là phức tạp và khó lường. Bề mặt của chiếc mể đay Trung Qu ốc là một sức mạnh ghê
gớm, về quân sự, về kinh tế. Nghe nói Trung Qu ốc sẽ vượt qua Mỹ trong vài chục năm tới,đã
thất kinh. Quỹ Tiền tệ quốc tế còn tính toán khiếp đảm hơn nữa: kinh tế Trung Qu ốc sẽ qua mặt Mỹ từ đây
đến năm 2016. Nhưng cái mề đay lại có mặt trái mà ai cũng biết: nhũng lạm, bất
bình đẳng xã hội, bất ổn định, nghi ngờ về chính đường lối phát triển... Có
chắc cái đà phát triển này sẽ tiếp tục như thếhay không? Không biết chắc Trung Qu ốc sẽ như thế nào mà
trả lời câu hỏi "Trung Qu ốc
muốn gì" trong tương lai thì có khác nào chưa ăn mà đã hỏi có ngon không.
Cho nên, đối với anh nhà giáo chỉ biết lý thuyết, có trả lời thì cũng chỉ mượn
lý thuyết mà trả lời, mong lấy lý thuyết mà soi đường cho thực tế.
Vậy thì, từ trước đến gần
đây, mọi lý thuyết về tương lai của Trung
Qu ốc đều căn cứ trên cái nhìn từ
bên ngoài, nghĩa là trên những tiêu chuẩn khách quan về sức mạnh, cho rằng như thế mới "khoa
học", bởi vì đó là những tiêu chuẩn có thể đánh giá được,đo lường được.
Quân sự, kinh tế, dân số,kỹ thuật, tài nguyên, địa chính trị... là những tiêu
chuẩn như vậy. Nhưng khi đặt câu hỏi "Trung Qu ốc muốn gì?" thì những tiêu chuẩn khách
quan ấy không đáp ứng đủ thỏa mãn vì người hỏi cần biết thâm ý của Trung Qu ốc ở trong thâm sâu ý
định. Cái gì ở trong đầu một cá nhân, ta đã khó biết, làm sao biết được cái gì
ở trong đầu một tập thể? Tuy vậy, đây mới chính là điều quan trọng, có lẽ là
quan trọng hơn cả,để hiểu ông khổng lồ láng giềng của ta. Vậy thì bằng cách nào
dò biết thâm ý? Câu hỏi đặt ra sự cần thiết phải có một cái nhìn nữa từ bên trong của sức mạnh để bổ túc cho cái
nhìn từ bên ngoài. Cái nhìn từ bên trong ấy cũng phải căn cứ trên một tiêu
chuẩn khách quan. Tiêu chuẩn gì? Trả lời: phương pháp duy nhất để biết "Trung Qu ốc muốn gì?" là
đặt câu hỏi "Trung Qu ốc là gì?". Chính
xác hơn: "Trung Qu ốc tự định nghĩa mình
là gì?" Chỉ mới gần đây, lý thuyết về quan hệ quốc tế mới đặt
nặng tiêu chuẩn văn hóa như thế. Và
đúng vậy, trong thời sự quốc tế, càng ngày văn hóa càng là yếu tố quan trọng
hàng đầu quyết định hòa bình, căng thẳng, hay chiến tranh giữa các quốc gia hay
các tập thể dân tộc.
Bài viết này, như vậy, thuật
lại hai lối nhìn lý thuyết, từ bên ngoài và từ bên trong. Từ bên ngoài, nhìn khả năng của sức mạnh. Từ bên trong, nhìn cách
một dân tộc tự định nghĩa về mình.
Lối nhìn thứ nhất chủ trương: ý định biểu lộ qua khả năng. Anh mạnh lên thì anh
sẽ có ý định của kẻ mạnh. Lối nhìn thứ hai chủ trương: anh tự định nghĩa về anh
như thế nào thì anh phát triển sức mạnh của anh lên thế ấy. Vậy,hãy bắt đầu với
lối nhìn thứ nhất.
I. Nhìn từ
bên ngoài: khả năng
Hiểu theo nghĩa rộng,
"khả năng" bao trùm cả lĩnh vực kinh tế. Hiểu theo nghĩa hẹp,
"khả năng" chủ yếu đặt trên lĩnh vực quân sự. Nhìn vấn đề dưới khía
cạnh kinh tế, các chủ thuyết tự do (liberalism) cho rằng vì trật tự thế giới
hiện nay buộc phải mở rộng giao thương, Trung Qu ốc muốn mạnh lên bắt buộc phải nương theo
trật tự ấy, không làm khác được, phá vỡ nó là đi ngược lại với chính lợi ích
của Trung Qu ốc.
Chúng tôi dang tay ra đón anh vào chơi trong trật tự này để chúng ta cùng trù
phú lên với nhau: đó là lập luận của Mỹ và Âu châu từ đầu cho đến bây giờ.
Trong trật tự này, mọi nền kinh tế đều liên đới với nhau, một kẻ đau là tất cả
đều bị nhiễm, không ai có lợi gì để muốn một Trung Qu ốc yếu. Hơn nữa, bây
giờ anh đã mạnh rồi, anh hãy củng cố thêm trật tự ấy, hãy cùng chúng tôi trừng
phạt kẻ nào phá rối trật tự: Bắc Hàn, Iran, Syria, nội chiến ở Sudan, cướp biển
ở Somali, phát tán nguyên tử, khủng hoảng kinh tế, thời tiết hâm nóng... bao
nhiêu ách tắc trên thế giới đang cần đến anh để dẹp bỏ, anh hãy chứng tỏ anh là
một cường quốc có trách nhiệm. Một trật tự thế giới ổn định là điều kiện tất
yếu để phát triển kinh tế, thị trường phải thay thế cho chiến tranh, cạnh tranh
thay thế vũ khí. Make money, not war! Lạc
quan, tín đồ của chủ thuyết này giữ vững lập trường dù Trung Qu ốc đã trở nên hung hãn,
và dù cạnh tranh của Trung Qu ốc
sát phạt không thua gì dao kiếm, sức mạnh mềm xâm nhập cả những lĩnh vực chiến
lược ởcả châu Âu. Mà không phải chỉ giới đại học: các nhà nghiên cứu chính sách
ở Mỹ cũng không ngớt khuyên răn: với Trung Qu ốc, hãy thuyết phục, đừng bao vây. Persuasion,
not containment.2
Thuyết tự do còn lạc quan trên địa hạt xã hội. Trung Qu ốc càng trù phú, giới
trung lưu càng phát triển. Giới trung lưu càng phát triển, nền tảng xã hội của
dân chủ càng mở rộng. Dân chủ càng mở rộng, chế độ càng khó làm chiến tranh.
Nghe rất hợp lý. Nhưng thế nào là "trung lưu"? Mấy ai đồng ý với ai
về định nghĩa, về tiêu chuẩn. Và mấy ai đồng ý với ai về mối liên hệ cơ hữu
giữa giới trung lưu và chiều hướng dân chủ ở Trung Qu ốc? Tuy vậy, mỗi khi
bàn về chiến tranh hay hòa bình, thế nào cũng có người đặt tin tưởng trên giới
trung lưu: họ đang giàu lên, họ đang hưởng lợi, dại gì họ lao đầu vào chiến
tranh để mất phú quý? Huống hồTrung
Qu ốc còn cần phát triển thêm kinh tế nữa để mạnh hơn, để vượt
qua Mỹ như người ta nói. Bởi vậy, dù căng thẳng chăng nữa, họ dại gì cắt đứt
liên đới hỗ tương giữa kinh tế của hai nước để đi vào tình trạng điên rồ mà
giới chuyên gia quân sự ngày trước, trong thời chiến tranh lạnh với Liên Xô,
gọi là "tình trạng tiêu diệt hỗ tương" nếu một bên bấm nút nguyên
tử?.3 Nếu tôi, người viết bài này, là chuyên gia Mỹ, chắc tôi cũng có thể chủ
trương như vậy, bởi vì tin tưởng lạc quan ấy có thể thích hợp với hoàn cảnh và
lợi ích của nước Mỹ. Nhưng tôi lại là người Việt Nam, sống sát nách Trung Qu ốc, quá biết kinh tế có
thể giết trọn một nước, không cần súng đạn, cho nên quá lạc quan vào chủ thuyết
liên đới kinh tế không phải là thái độ của tôi. Và thú thật, tôi có thiện cảm
hơn với những chuyên gia Mỹ chống lại thuyết ấy, cho rằng dù có căng thẳng, dù
chủ trương bao vây, vẫn có thể đồng thời giao thương kinh tế, không việc gì
phải cong lung nhân nhượng, nhất là khi cán cân thương mại giữa hai nước có lợi
cho Trung Qu ốc.
Vả chăng, chắc gì liên đới kinh tế hỗ tương là giá trị cao nhất trong tính toán
của Trung Qu ốc?
Ví thử Đài Loan tuyên bố độc lập, Bắc Kinh sẽ chọn thái độ gì, chiến tranh hay
lợi ích kinh tế hỗ tương? Lại ví thử Trung Qu ốc nghĩ rằng một chiến tranh chớp nhoáng ở
Biển Đông với một mình chiếc đũa Việt Nam, đặt Mỹ và cả vùng trước sự đã rồi,
không mang lại những hậu quả kinh tế tai hại như một chiến tranh dài hạn, liệu Trung Qu ốc không biết ra tay
như đã từng ra tay ở Hoàng Sa, Gạc Ma?.4 Chiến tranh thế giới thứ nhất có thể
còn mách nước cho Trung Qu ốc:
Anh, Pháp, Nga vẫn giao thương mạnh mẽ với Đức trong hai thập kỷ trước chiến
tranh, mặc dù Tam Cường ấy đã liên minh với nhau để bao vây Đức. Chiến tranh,
như có tác giả đã viết, không ngăn cấm hai bên địch thủ tiếp tục giao thương
với nhaunếu thấy điều đó có lợi cho cả hai.5
Vì những lẽ trên, tôi thấy chủ thuyết tả thực (realism) hợp với Việt Nam hơn và thấy
gần gũi hơn với tác giả đại diện sáng chói của thuyết ấy, Mearsheimer. Tôi tóm
tắt dưới đây luận thuyết của ông.6
Trước hết là nhận định của phái tả thực nói chung về hệ thống quốc tế:
đây là một hệ thống vô chính phủ, trong đó mỗi quốc gia đều nhắm đến mục đích
tối thượng là bảo vệ sự sống còn bằng cách duy trì và tăng cường sức mạnh. Quan
tâm về sức mạnh đưa đến cạnh tranh để mạnh hơn vì ai cũng sợ ai. Bởi vậy, các
nước lớn phát triển sức mạnh đến tối đa để cạnh tranh thắng lợi với các nước
mạnh khác, đểchiếm ưu thế trên cán cân lực lượng, và tiến tới thống trị thế
giới.
Có một lúc, dưới thời tổng thống Bush, người ta tưởng nước Mỹ đã đạt đến
mức chúa tể như vậy. Bây giờ thì ai cũng thấy: dù mạnh đến đâu, nước Mỹ ở bên
kia Thái Bình Dương cũng không thể một mình làm chủ trên phần đất bên này Thái
Bình Dương. Điều mà nước Mỹ có thể làm, giống như các đại cường đã làm trong
lịch sử, là đô hộ trên vùng địa lý của mình và ngăn cản không cho một ông đại
cường nào khác đô hộ trên vùng địa lý ấy. Đã là bá chủ vùng thì không ông nào
muốn thấy một ông đại cường khác mon men đến vùng mình để cạnh tranh. Nước Mỹ
đủ mạnh để không ai dám đến cạnh tranh ở châu Mỹ, nhưng đó là cố gắng mà nước
Mỹ đã làm với xương máu chiến tranh trong suốt cả thế kỷ từ khi lập quốc. Điều
mà nước Mỹ đã làm, điều mà các cường quốc khác đã làm trong lịch sử, tại sao
bây giờ Trung Qu ốc
không làm? Bộ Trung Qu ốc
là ông thầy tu? Là ông thánh? Là con gà trống thiến? Trung Qu ốc cũng sẽ ngăn cản
không cho nước Mỹ can thiệp vào vùng của ông. Ngược lại, nước Mỹ cũng sẽ không
để cho ông tự do hoành cứ trong vùng ấy. Và, cũng theo đúng luận lý của sức
mạnh và thực tế của lịch sử, Trung
Qu ốc sẽ mon men thọc gậy bánh xe vào vùng lãnh địa của nước
Mỹ ở châu Mỹ như đã bắt đầu và đang tiếp tục hành động như vậy hiện nay.
Cho đến bây giờ, nước Mỹ tung hoành trên thế giới được là vì nước Mỹ yên
tâm về an ninh trong vùng ảnh hưởng của mình, chẳng ai dám phá rối trừ anh Cuba xấc xược.
Trong vòng vài chục năm nữa, nếu Trung
Qu ốc vượt được Mỹ như có nhiều người nói thế, tại sao Trung Qu ốc lại không tung hoành
dọc ngang trên thế giới như Mỹ hiện nay? Và khi đó, cũng để yên tâm về an ninh
trong vùng mình, tại sao Trung
Qu ốc không làm như Mỹ, nghĩa là, trước hết, dẹp tan mọi tranh
chấp chủ quyền, áp đặt chặt chẽ thống trị trong vùng, không ai được nói khác,
làm khác, cựa quậy khác, mơ mộng khác, đảo nào cũng là đảo của ta, biển nào
cũng là hồ tắm của con cháu Mao chủ tịch? Những gì thế giới đã chứng kiến trong
hơn chục năm qua cho thấy rõ đường đi nước bước ấy: tăng cường hạm đội, lè lưỡi
bò, liếm hết đảo kể cả với Nhật, phản đối việc Mỹ tập trận với Hàn Quốc ở Hoàng
Hải năm 2010, bàn luận thiết lập "chuỗi dây chuyền hải đảo thứ nhất",
rồi "dây chuyền hải đảo thứ hai"... Nếu thực hiện được, Nhật và Phi
hết đường đồng minh với Mỹ. Chưa kể việc bàn tính thành lập một "hạm đội
nước xanh"để làm chủ đại dương, làm chủ an ninh hải lộ, chẳng lo ai bịt
ống dầu dẫn từ Trung Đông.
Và cũng chưa kể, Việt Nam ơi, hành động đặt giàn khoan
trong vùng kế cận Hoàng Sa, ngang nhiên như đào giếng trong vườn nhà.
Bước đi vững chắc như cọp săn mồi, ý đồ lồ lộ, ngôn từ trịch thượng anh
cả, ngày nay ai mà chẳng thấy an ninh của mình bị đe dọa nghiêm trọng trước
thực tế một sức mạnh khổng lồ càng ngày càng được tăng cường? Hậu quả tất nhiên
là "hiện tượng leo thang an ninh" phải xảy ra. Nước này rồi nước nọ
leo thang tăng cường quân sự, leo một hồi sẽ leo đến chiến tranh. Ngày nay, dù
miệng có ngọt ngào lien đới hợp tác kinh tế đến đâu, trong bụng anh láng giềng
nào của Bắc Kinh cũng đều ớn sự trổi dậy của ông ấy,đều nghĩ cách rào cản ông
lại. Thương hay ghét, muốn hay không, tin hay nghi, anh nào cũng bắt buộc phải
nghĩ đến kinh nghiệm rào cản của Mỹ trong chiến tranh lạnh. Và Mỹ cũng sẽ không
có chiến lược nào hữu hiệu hơn đối với Trung Qu ốc bằng chính sách rào cản. Nghĩa là liên
minh với các nước láng giềng cảm thấy bị Trung Qu ốc đe dọa:Ấn Độ,Nhật Bản, Phi, và, why not, Việt Nam .
Câu hỏi đặt ra là: các nước why not có
dám chọn liên minh với Mỹ chăng? Có dám cùng với Mỹ lập lại cân bằng lực lượng
hay ngã hẳn về Trung Qu ốc?
Hay chơi trò đu dây? Khó mà tưởng tượng rằng khi tranh chấp Mỹ-Trung xảy ra đến
độ quyết liệt, hai ông siêu cường không làm áp lực mạnh để chẳng ai chơi được
trò đu dây. Vậy thì ngã vào ai là tùy ở tính toán của mỗi nước về ai đe dọa hơn
ai đến sự sống còn, ai ở xa ai ở sát nách, ai nuốt mình dễ, ai cần mình hơn.
Nước Mỹ có quân đội trấn đóng trên đất Nhật, trên đất Hàn, nhưng hễ phong phanh
nghe Mỹ muốn rút quân đi là cả Hàn lẫn Nhật đều xin ở lại. Nước Tàu không có
quân đội trấn đóng, chỉ có hàng vạn phu phen và làng xã mọc lên như nấm thôi,
nhưng chủ nhà mất đất không bao giờ hay. Cho nên các nước nhỏ không thể không
lo nghĩ đến chuyện rào cản. Các nước lớn cũng vậy. Ấn Độ và Nhật Bản ký
"Tuyên bố về hợp tác an ninh" năm 2008 khi thấy Trung Qu ốc tăng cường vũ lực.
Ấn Độ và Mỹ sát lại gần nhau tuy Mỹ rất cần Hồi Quốc để chống khủng bố Al
Qaida. Nhân quyền là giá trị đầu môi của Mỹ nhưng khi cần thì Mỹ cũng lơ đi để
quan hệ chặt hơn với Indonesia .
Singapore miệng nói thân Tàu
nhưng cung cấp cảng Changi cho hạm đội Mỹ. Và Nhật, dù dân có biểu tình phản
đối, Okinawa vẫn trải thảm điều mời thủy quân
lục chiến Mỹ đóng đô. Trung Qu ốc
càng đe dọa, khuynh hướng ngã vào Mỹ ở đâu cũng tăng lên. Á châu hoan hô Obama
dời trọng tâm chiến lược từ Âu sang Á. Rồi Á châu lo ngại khi thấy Mỹ yếu tay ở
Syria ,
ởUkraina.
Tóm lại: Trung Qu ốc
càng mạnh lên càng làm trầm trọng thêm cạnh tranh an ninh với Mỹ và với láng
giềng, càng muốn tống nước Mỹ ra khỏi vùng ảnh hưởng, càng thúc đẩy khuynh
hướng liên minh với Mỹ để cân bằng lực lượng. Có khả năng nhiều căng thẳng sẽ
xảy ra. Khả năng gần đây nhất là sự kiện giàn khoan HD 981.Vấn đề là: những
căng thẳng đó có đưa đến chiến tranh không? Trả lời câu hỏi này buộc phải đặt
câu hỏi đặt ra trước: Cả Trung
Qu ốc cũng có vũ khí nguyên tử, liệu vũ khí nguyên tử có ngăn
cản chiến tranh xảy ra ở Á châu như đã ngăn cản ở Âu châu trước đây chăng?
Mearsheimer không nghĩ rằng hai hoàn cảnh có thể so sánh với nhau. Trước
hết là vì lý do địa lý. Trọng tâm của chiến tranh lạnh tụ trên một điểm duy
nhất: Bá Linh, nằm giữa lục địa châu Âu. Ván bài quá lớn, nếu có chiến tranh
xảy ra, khó lòng không đưa đến chiến tranh nguyên tử,nghĩa là tiêu diệt cả châu
Âu, không chừng thảm họa lan ra đến cả lãnh thổ hai địch thủ. Không ai dám nghĩ
đến cái viễn tượng đó. Mục đích của vũ khí nguyên tử ở đây là tạo ra để mà
không dùng, tạo ra để mà ngăn cản bên kia không dùng đến. Tất cả tinh túy của
chiến lược nguyên tử nằm ở chỗ bảo tồn lực lượng nếu địch nả cú đầu để đánh trả
cú thứ hai. Chính vì sợ cú thứ hai ấy mà không phe nào dám nổ cú đầu, và chiến
tranh đã không xảy ra. Địa lý ở Á châu khác hẳn. Không có một tụ điểm như Bá
Linh, tranh chấp phân tán trên nhiều nơi khác nhau mà không nơi nào có tầm quan
trọng như Bá Linh, nếu chiến tranh có xảy ra cũng không đưa đến những hậu quả
khốc liệt như thế. Vì vậy chiến tranh giữa Mỹ và Trung Qu ốc dễ có khả năng xảy
ra hơn.
Chẳng hạn căng thẳng ở Bắc Triều Tiên. Giả sử chiến tranh xảy ra giữa
Nam và Bắc Hàn và ví dụ 19.000 quân đội Mỹ trấn đóng ở đấy phải lao vào chiến
tranh với Trung Qu ốc,
chiến tranh vẫn nhỏ so với trận chiến nếu xảy ra ở Bá Linh. Đài Loan, Biển
Đông, Senkaku cũng vậy, khó bề so sánh. Huống hồ chiến trận ở các nơi ấy diễn
ra trên biển, giả thuyết leo thang nguyên tử ít có khả năng xảy ra, cho nên
đụng độ cổ điển (nghĩa là không nguyên tử) giữa Mỹ và Trung Qu ốc dễ tưởng tượng hơn là
giữa Mỹ và Liên Xô trên lục địa Âu châu ngày trước.
Đó là lý do thứ nhất: lý do địa lý. Lý do thứ hai liên quan đến cấu trúc
của hệ thống quốc tế: Ngày trước, cấu trúc ấy là hai cực, cực Mỹ và cực Liên
Xô; bây giờ, ở Á châu cấu trúc ấy là đa cực. Ngay Nhật, và ngay cả Ấn Độ,cũng
là những nước lớn, Ấn Độ còn có vũ khí nguyên tử, kém gì ai? Dù rằng hai nước
ấy không mạnh bằng Trung Qu ốc,
và dù rằng cái thế đa cực ở đây không cân bằng nhau, nhưng Trung Qu ốc vẫn chưa phải là một
cực như Liên Xô ngày trước. Ở cái thế đa cực ấy, chiến tranh dễ xảy ra hơn ởthế
lưỡng cực vì nhiều lẽ. Một, là các nước lớn dễ đánh nhau hơn, hoặc với nhau
hoặc với các nước nhỏ. Hai, là ông anh cả dễ bắt nạt em ba, em tư, em út, dễ
đánh tỉa từng em. Ba, là ông lớn nhất, đang vươn lên thành bá chủ vùng kia, làm
ai cũng sợ, mà sợ thì hoặc là giơ tay đầu hàng trước, hoặc là chịu nhục hết nổi
thì uýnh một trận, chết cũng cam.
Sự kiện giàn khoan HD 981 của Trung Qu ốc ở Biển Đông và hành động trấn áp của Nga
ở Ukraina mới đây đã khiến các giới quan sát quốc tế chú ý hơn đến lý luận đa
cực này. Không thiếu gì con mắt nhà nghề thấy rằng chưa chắc đã có dầu khí ở
vùng biển Hoàng Sa. Rất có thể Bắc Kinh "lớn tiếng cao giọng tuyên bố bá
quyền". Giống như Nga, Trung
Qu ốc muốn chứng tỏ Ta đây là sếp trong sân sau của Ta.
"Na ná như phiên bản của Nga và Trung về cái được gọi là chủ thuyết Monroe ", nghĩa là
không ai được xớ rớ vào vùng cấm địa của Ta. Tờ báo danh tiếngLe Monde của Pháp, phân tích hai sự kiện nổi
bật nói trên trong tháng 5 vừa qua, kết luận sau khi nhắc lại chủ thuyết
Monroe: "Xét những gì đã xảy ra trong mấy tuần qua, thế giới đa cực tự báo
trước về mình một cách không có gì đáng ngạc nhiên: đây là thế giới của những
tên thô bạo".7
Câu kết luận của tờ báo tóm tắt những gì đã nói ở trên về bức tranh mà
Mearsheimer đã vẽ ra. Dù không muốn bi quan, tôi cũng khó mà lạc quan với các
tác giả bác ông. Không có cách gì chấp nhận luận điệu của họ. Họ nói: Một, tuy
cấu trúc quốc tế đúng như phái tả thực mô tả, Mỹ và Trung Qu ốc vẫn có thể khôn khéo
lèo lái để tránh đụng độ nhau đến mức căng thẳng. Hai, tuy liên minh với Nhật
và với Hàn có thể gây vấn đề - luôn luôn là vấn đề - tế nhị giữa Mỹ và Trung Qu ốc, chiến tranh không
phải là tất yếu. Ba, muốn thế Mỹ phải tránh, đừng thổi phồng hiểm nguy của một Trung Qu ốc lớn mạnh. Và bốn,
phải biết nhân nhượng về những tranh chấp nào mà quyền lợi của Mỹ không phải là
sống chết, Đài Loan chẳng hạn. Thế thì Biển Đông của chúng tôi, ai cùng bảo vệ
với tôi? Huống hồ các người lập luận như vậy cũng không dám cả quyết lạc quan.
Họ nói, khá ba phải: "Sự trỗi dậy của Trung Qu ốc là hòa bình, nhưng kết luận ấy cũng không
có gì bảo đảm".8
Đúng là không có gì bảo đảm, nhất là trong thời gian gần đây, với hăm
dọa của Trung Qu ốc
trên đảo mà Nhật gọi là Senkaku, và nhất là với ngang ngược của Bắc Kinh khi
cắm giàn khoan trên thềm lục địa của Việt Nam. Chiến tranh với Mỹ càng ngày
càng không phải chỉ là giả tưởng: lo ngại phản ánh ngay cả trên tờ Foreign Affairs khi có tác giả khuyến cáo hai
bên phải "rõ ràng về những đường ranh đỏ
thực sự và giá phải trả để bảo vệ những đường ranh ấy".9 Nhưng
đâu là đường ranh, khi danh sách những quyền lợi "cốt
lõi" mà Trung
Qu ốc giương ra trước mắt nước Mỹ trong thời gian gần đây càng
ngày càng dài khiến những tranh chấp phụ cũng trở thành quyết tử? Đâu là
đườngranh, khi cả thếgiới đang chứng kiến một hiện tượng mới hừng hựcbốc lên từ
chục năm nay tưởng chừng như hỏa diệm sơn sẵn sàng phunlửa? Hiện tượngđó, không
nguy hiểm nào khó lường hơn: đó là dântộc chủ nghĩa. Đọc sách báo ở Mỹ, rất dễ để
ý. Trước đây, các giớiphân tích chỉ chú tâm vào yếu tố kình tế, quân sự, địa
chính trị. Gầnđây, ai cũng chỉa ống dòm vào nguy cơ của dân tộc chủ nghĩa, kể
cảtrường phái tả thực mà lập trường cố hữu là chỉ xét những yếu tố ở bênngoài,
những gì có thể đo lường, đánh giá cụ thể. Trong phân tích vềquan hệ quốc tế,
yếu tố văn hóa bây giờ được đưa vào
với tất cả trân trọng, không thua gì những yếu tố khác, nhất là đối với Trung Qu ốc. Như một chuyên gia
về Trung Qu ốc
đã viết, "câu hỏi phải chăng Trung
Qu ốc là mối đe dọa đối với các nước khác không thể chỉ trả
lời bằng cách phóng tầm nhìn vào sức lực của Trung Qu ốc trong tương lai -
chỉ số kinh tế, tiến bộ kỹ thuật, ngân sách quốc phòng - như nhiều nhà tiên
đoán đã làm. Sức mạnh chỉ là một phần của giải đáp. Ý định– Trung Qu ốc lựa chọn sử dụng sức
mạnh của mình như thế nào - mới chính là đầu mối để biết hòa bình hay chiến
tranh".10 Cái nhìn từ bên ngoài không đủ, phải bổ túc bằng cái nhìn từ bên
trong, cái nhìn vào tận xương tủy của văn hóa ông
khổng lồ đểxem ông tự định nghĩa mình như thế nào.
II. Nhìn từ bên trong: Trung Qu ốc tự định nghĩa
2008. Năm Thế Vận Hội. Ngọn đưốc Thế Vận chuyền tay từ Hy Lạp qua Bắc
Kinh, trên một lộ trình dài 85.000 dặm, dừng chân trên 135 thành phố. Khoảng
thời gian ấy, Trung Qu ốc
bị thế giới lên án gay gắt, nhất là về nhân quyền và đàn áp ở Tây Tạng. Luân
Đôn, Paris, San Francisco, Canberra... khắp nơi, các hội đoàn nhân quyền tổ
chức phản đối khi đuốc Thế Vận rước qua. Thế nhưng, khắp nơi, Hoa kiều bừng
bừng lửa hận đáp trả, khí thế ngùn ngụt không thua gì ở chính quốc, nhất là
trong giới thanh niên, sinh viên ở các trườngđại học tiến bộ, Duke, Berkeley,
Chicago... khắp nơi! Siêu thị Carrefour của Pháp,đang ăn khách thế, phát đạt mở
nhánh trên 20 thành phố, bị dân chúng ồ ạt tấn công. Khẩu hiệu, la hét:
Nói không với Carrefour!!! Nói không với bọn đế quốc
Pháp!!!
Cực lực phản đối cuộc xâm lăng Anh-Pháp năm 1860!
Toàn dân Trung
Qu ốc đứng lên!!!
Ô hay, Thế Vận Hội thì có ăn nhậu gì với liên quân Anh Pháp hồi xửa hồi
xưa, hồi cố nội cố ngoại các vị ấy chưa đẻ? Ấy thế mà lịch sử bốc máu chảy rần
rần trong gân cốt. Ai cả gan động đến cái lông chân Trung Qu ốc ngày nay, mà lại xấu
số trót sinh vào đất Nhật hay đất Tây phương, hãy coi chừng: "Đừng quên
quốc sỉ!" Wuwang guochi! Bốn chữ
ấy ngự trị trên bàn thờ, tín đồ của cái đạo dân tộc chủ nghĩa ấy đạp nát như
voi đạp bả mía bất cứ ai dám cảgan thách thức. Các nhà nghiên cứu đánh cuộc cho
hòa bình cũng hãy coi chừng! Cái thứ lửa tân chủ nghĩa ấy đốt râu quý vị bao
giờ không hay.
Quá dễ dàng đểminh chứng điềuấy qua vài biến cố lớn đã xảy ra: vụ Mỹ ném
bom nhầm trên tòa đại sứ Bắc Kinh ở Belgrade năm 1999 hay vụ đụngđộgiữa máy bay
Mỹ EP-3 và máy bay Trung Qu ốc
F8 kế cận hải phận Hải Nam năm 2001. Lạ thật, tưởng giới trẻ dị ứng với
chếđộ,ai ngờ sinh viên rần rộ phô trương khí thế trước Sứ quán Mỹ, bao vây, ném
đá, đốt xe, đốt cà nhà của tổng lãnh sựMỹ ở Thành Đô. Lửa ấy, sách báo thế giới
đã nói nhiều. Nhưng,đểhiểu gan ruột anh Tàu, không phải cứ tìm đến những chuyện
lớn mà hiểu; chính trong những chuyện tầm phào nhất, người Việt chúng tôi hiểu
anh Ba rành rọt hơn Tây. Chẳng hạn chuyện này: cái mề đay vàng của Thế Vận Hội.
Bất cứ ở nước nào, thể thao cũng là đầu tư cho chính trị quốc tế. Cả
chính trị quốc nội nữa, vì chính quyền cũng được thơm lây nhờ thắng lợi của các
lực sĩ. ỞTàu cũng vậy thôi... nhưng mà khác. Phải là huy chương vàng kia! Đừng
nói: thì ở đâu chẳng vậy! Không phải! Khác hẳn, chẳng giống ai. Ở đâu khác,
được bạc hay đồng cũng vui rồi. Ở Tàu, phải là vàng! Bạc và đồng là sọt rác!
Phải là vàng mới thiêng liêng. Và thiêng liêng như Thượng Đế. Nói theo giọng
Mao, mề đay vàng là "khí giới nguyên tử tâm linh". Tại sao? Thì tại
vì lịch sử! Tại vì "đừng quên quốc sỉ!" Trước đây, bọn Nhật Bản và bọn
đế quốc Tây phương đã dám nói: Trung
Qu ốc là "kẻ phàm phu bệnh hoạn ở Đông Á".Dongya bingfu! Thật ra, nguyên thủy, câu ấy ám
chỉ sự suy nhược của nhà Thanh, giống như đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ đã trở thành "Đông Ábệnh phu" của châu Âu. Thế
nhưng tín đồ của chủ nghĩa dân tộc cải biên ngày nay nghĩ khác: bọn đếquốc ấy
dám chê hình hài thể xác của chúng ta! Đã thế thì phải cho chúng nó biết hình
hài này đè bẹp thể xác chúng nó như thếnào. Thế là bắt đầu nhồi nhét lịch sử
Thế Vận Hội vào đầu giới trẻ năm 2004:
"Trước 1949, lực sĩ Trung
Qu ốc đã tham dự 3 Thế Vận, nhưng lần nào cũng trở về với thất
bại, không đạt được huy chương nào. Một tờ báo ngoại quốcđăng một tranh hý họa:
dưới lá cờ năm vòng tròn của Thế Vận, một toán Trung Hoa ốm yếu, da bọc
xương, bận lễ phục quan gia và Âu phục, khiêng một quả trứng vịt khổng lồ - một
con số không. Bức tranh hý họađó nhan đề: " Đông Á bệnh phu". Đó là
một chế diễu và nhục mạ".11
Thật ra, bức tranh châm biếm đó không phải đăng trên một tờ báo phương
Tây mà trên một tờ báo Hoa ngữ ở Singapore. Nhưng hề chi sự thật, đây đâu phải
là thể thao, đây là quốc nhục phải rửa.
Bởi vậy mà cái huy chương vàng của Liu Xiang ở Thế Vận Athens 2004 là
thiêng liêng! Nó thiêng liêng vì nó là huy chương về môn chạy đua 110 mét có
rào cản. Thế giới chứng kiến tận mắt: thân thể của anh phàm phu ngày xưa đè bẹp
thân thể của bọn Tây phương ngày nay. Liu tuyên bố một câu danh ngôn tại
Athens: "Chiến thắng của tôi chứng minh rằng lực sĩ da vàng có thể chạy
nhanh như lực sĩ da đen hoặc da trắng". Ai nói đó là thành tích thể thao,
người đó chẳng hiểu gì anh Ba.
Đó là cả dân tộc Trung
Hoa đứng lên xóa sạch tủi nhục của thế kỷ.
Bởi vậy mà phải là huy chương vàng! Bạc hay đồng thì hóa ra thân thể anh
Tàu vẫn cứ bingfu, vẫn cứ thua thân
thể anh Tây! Huy chương vàng vừa rửa hận vừa mang tính chính đáng đến cho Đảng
Cộng Sản Trung Qu ốc.
Một tỷ trái tim cùng tung hô cặp giò của lực sĩ Liu nghĩa là một tỷ trái tim
cùng tung hô Đảng Cộng sản Trung
Qu ốc. Ai đem lại tự hào này nếu không phải là Đảng! Ai đưa Trung Qu ốc từ địa vị cái trứng
vịt lộn năm 1932 lên địa vị thượngđẳng 100 huy chương và 51 vàng năm 2008? Có
lĩnh vực nào mang lại đồng thuận, đồng tình, đồng hỷ, đồng lạc, đồng bốp bốp vỗ
tay như lĩnh vực thể thao? Đảng Cộng sản vạn vạn tuế!
Cái rủi của Trung Qu ốc
hồi thê kỷ 19 biến thành cái may cho chế độ hiện hành. Khi hệ ý thức Mao không
còn linh hiển nữa đểgiúp Ngu Công dời núi thì hệ ý thức dân tộc chủ nghĩa vù
đến, đúng lúc, đúng thời, thay cái cũ bằng một cái mới đáp ứng đôm đốp tâm lý
cộng đồng, đánh thức cả gia tài văn hóa ngàn đời nằm ngủ trong tận thâm sâu của
tiềm thức dân tộc. Bởi vậy, câu hỏi mà nhiều giới quan sát ở Mỹ đã đặt ra nghe
nó ngây ngô làm sao: dân tộc chủ nghĩa ấy là từ trên ban xuống hay từ dưới trồi
lên? Hỏi vớ vẩn! Tất nhiên là cả hai! Cái dễ sợ, cái khiếp đảm của vũ bão triều
cường đang cuồn cuộn phăng phăng trào lên ở phương Bắc là do ở chỗ gặp gỡ của
hai hưng phấn, từ trên xuống và từ dưới lên, đưa đến một run rẩy hoan lạc song
phương, từ đó thai nghén một đứa con bất trị có tên là chiến tranh.
Từtrên xuống: "Vật vong quốc sỉ"
là khẩu hiệu dẫn đầu cả một quốc sách dạy con trẻ bằng sách giáo
khoa, viện bảo tàng, nói chuyện tập thể, tiểu thuyết, văn thơ, nhạc, phim ảnh,
nghỉ lễ,bản đồ,tham quan di tích lịch sử... dạy trẻ không được quên. Không được
quên "thế kỷ tủi nhục" từ chiến tranh nha phiến 1840. Không được quên
cái gì và phải nhớcái gì: đó là nhét vào đầu con trẻ định nghĩa vềTrung Qu ốc, về bản chất của dân
tộc, về bản chất của chính người dân Trung Qu ốc, chính mỗi cá nhân. Đừng quên: tủi nhục
ấy là trước Tây phương và trước Nhật Bản.
Và phải nhớ: "Trung
Qu ốc" là nước ở trung tâm. Trung tâm ở đây không phải là
khái niệm địa lý, cũng phải chỉ là khái niệm văn hóa: nó bao hàm cả ý nghĩa
chính trị. Ai kiểm soát được trung tâm, kẻ ấy là nhà cầm quyền chính đáng đểcai
trị thiên hạ. Tác giả câu ấy là Tưởng
Giới Thạch. Trung Qu ốc
còn có tên nữa là Trung
Hoa. Tôi được nghe một học giả cắt nghĩa nguyên thủy của từ
này: "Hoa" là đẹp đẽ, áo quần đẹp, trang sức đẹp. Trung Qu ốc tự cho mình là
"hoa", chung quanh tất cả đều là "di". Với văn hóa đẹp đẽ, Trung Qu ốc tự cho mình nhiệm vụ
đồng hóa man di, "dụng Hạ biến di" ("yong xia bian yi") nhưlời của Mạnh
Tử. Man di mà được biến đổi văn hóa thì "di" cũng thành
"hoa", thành dân nước Hạ. Sĩ phu ta ngày xưa chắc đã mắc lỡm cái sách
lược này: suốt đời dài lưng tốn vải cặm cụi sách đèn cố làm sao cho
"giống", chứ không phải cho "khác" như anh hảo hán samourai
Nhật kia. Cứ đọc sử thần Ngô Sĩ Liên thì rõ. Tôi lại được cắt nghĩa thêm: Trung Qu ốc lại còn có tên là Shenzhou,
xuất hiện từ thời Chiến Quốc, đất thiêng, đất thánh. lại còn được gọi là Thiên
Triều, danh hiệu mà nghe nói giới trẻ ngày nay rất ưa dùng trên internet để gọi
nước của họ.
Lại phải nhớ: trong tư tưởng cổ truyền của Trung Qu ốc, không có khái niệm
"quốc gia", chỉ có khái niệm "thiên
hạ"mà Trung Qu ốc
chiếm vị trí trung tâm. "Thiên hạ" bao hàm nhiều nghĩa. Một, đó là
cộng đồngvăn hóa, khác với ý nghĩa
chủng tộc, chính trị hoặc pháp lý trong khái niệm "quốc gia" của
phương Tây. Văn minh là căn bản của khái niệm "thiên hạ". Với Khổng
giáo, Trung Qu ốc
tự cho mình là trung tâm của văn minh, nghĩa là văn minh cao hơn, đạo đức cao
hơn. Hai, "thiên hạ"không có biên giới như biên giới của quốc gia
ngày nay. Ai đồng chí với văn minh Hán thì là Hán: Mãn châu chẳng hạn. Ba, ta
đã ở trung tâm, ta là cao nhất, vậy thì làm sao quan niệm được thế giới bao gồm
(trên lý thuyết) các quốc gia bình đẳng? Trung Qu ốc là thế giới, đâu phải là một nước trong
thế giới? Hồi bắt đầu chiến tranh nha phiến, Charles Elliot gửi một văn thư cho
Lin Zexu, chức sắc của nhà Thanh phụ trách giao thương nha phiến, trong đó viên
chức của nước Anh dại mồm gọi Anh và Trung Qu ốc là "hai nước". Liu nổi
cơn thịnh nộ trả lại thư không thèm đáp, tên kia hỗn láo quá, "dưới vòm
trời này không nơi nào có thể được xem như ngang hàng với thiên triều".
Bốn, "thiên hạ" đặt trọng tâm trên sức
mạnh mềm, như văn hóa, đạo đức, lễ nghĩa hơn là trên sức mạnh cứng
-quân sự, kinh tế - đểduy trì trật tự thế giới như ngày nay. Thần phục văn minh
của thiên triều, tuân thủ lệ cống, lễ nghĩa trên dưới phân minh, ấy là trật tự
của hệ thống "thiên hạ". Ai dám bảo điều này không cắt nghĩa thói
hống hách, trịch thượng của thiên triều ngày nay?
Đừng quên và phải nhớ. Đừng quên nhục nhã. Phải nhớvinh quang. Định
nghĩa vềTrung Qu ốc
ngày nay dựa trên hái chân đứng đó. Và vinh quang ngày xưa được phục hồi ngày
nay là nhờĐảng Cộng sản Trung Qu ốc.
Đảngấy không còn định nghĩa mình là "người tiên phong của giai cấp vô
sản" nữa, mà là người yêu nước "vững chắc nhất, hết lòng nhất".
Nhiệm vụ của Đảng Cộng sản không còn là "thực hiện một xã hội cộng
sản" nữa, mà là "đại phục hưng dân tộc Trung Qu ốc". Quốc sách
"đừng quên, phải nhớ" là từ trên dội xuống bằng cả một hệ thống giáo
dục, tuyên truyền mà sự thành công là nhờ ở đáp ứng hồ hởi của dân chúng từ
dưới lên trên. Nước Mỹ bỏ tiền ra chiêu đãi sinh viên Trung Qu ốc, tưởng rằng giới trẻ
này sẽ hấp thụ văn hóa phương Tây. Ô hô, măng này hùng hục dân tộc chủ nghĩa
không thua gì tre già tre lão.
Thật ra, đây là làn sóng dân tộc chủ nghĩa thứ hai. Làn sóng thứ nhất,
hồi thế kỷ 19, hãy còn yếu ớt lắm, và không hẳn từtrên xuống hay từ dưới lên.
Trên thì nhà Thanh đã suy. Dưới thì dân ngu khu đen, chỉ khoái làm "cách
mạng" kiểu A.Q của Lỗ Tấn. Dân tộc chủ nghĩa hồi đó phát khởi từ ở giữa,
giữa trên và dưới, từ tầng lớp trí thức mà tiêu biểu là phong trào Ngũ Tứ 1919.
Làn sóng thứ nhất là dân tộc chủ nghĩa tựvệ: nó chính đáng và không nguy hiểm
cho ai. Làn sóng thứ hai là dân tộc chủ nghĩa tấn công: nó nguy hiểm vìđến từ
một nước bá quyền. Nó càng nguy hiểm hơn khi cả một dân tộc sôi sục tấn công,
hung hăng đến nỗi cấp trên phải hãm bớt phanh, sợ chính mình cũng bị đốt cháy,
sợ không điều khiển nổi cơn lũ. Từ một ý thức hệ do Nhà nước đẻ ra để chính
đáng hóa lãnh đạo của mình, thứ "dân tộc chủ
nghĩa Nhà nước"("state
nationalism") ấy đã trở thành "dân tộc
chủ nghĩa xã hội" (social
nationalism) khi nó động viên được cả xã hội. Mearsheimer gọi thứ dân tộc chủ
nghĩa "bình dân" ấy của Trung
Qu ốc ngày nay (popular nationalism) là "siêu dân tộc chủ nghĩa"(hypernationalism)
có thể đưa đến những hiểm nguy khó lường. Nói như nhà văn danh tiếng Hồ Bình
(Hu Ping), "đối với dân Trung
Qu ốc, lịch sử là tôn giáo của chúng tôi... Chúng tôi không có
một chuẩn mực siêu nhiên về phải trái, tốt xấu, cho nên chúng tôi xem Lịch Sử
như là Quan Tòa tối cao... Mỗi người dân Trung Qu ốc khi sinh ra đã là tín đồ của dân tộc chủ
nghĩa".
III. Lời kết
Lịch sử của nước nào cũng có lúc huy hoàng có lúc bi thảm. Lịch sử của
nước nào mà chẳng có vết thương? Cái quái đản của Trung Qu ốc là bắt thế giới phải
đau cái vết thương của chính họ và phải chấp nhận quyền của cái vết thương đó
cứ mãi mãi là vết thương không lành, sẵn sàng chảy máu. Dân tộc chủ nghĩa, nước
nào cũng có, không nhiều thì ít. Cái quái đản của Trung Qu ốc là bắt cả thế giới phải
xem trường hợp của mình như là duy nhất, riêng biệt, thiêng liêng, ai cũng phải
cúi đầu. Muốn chơi với Trung Qu ốc,
ai cũng phải cúi đầu ký một câu mà trên thếgiới không đâu thấy một tập tục
ngoại giao tương tự: "Đài Loan là một phần của Trung Qu ốc..." Dân tộc chủ
nghĩa ấy là mầm mống của chiến tranh.
Từnhững trình bày trên đây, xin rút ra bốn kết luận:
1. Chỉ cần để ý một chút là thấy cái thâm ý gắn
liền mưu đồbá quyền với chính sách "quốc sỉ". Ta phải rửa
nhục bằng cách lấy lại cái gì đã mất. Trong những cái đã mấtấy, có cái bản
đồ.Về điểm này, Tàu Tưởng và Tàu Mao không khác nhau. Ngày 27-3-1934, Tưởng
Giới Thạch ghi trong Nhật Ký quyết định soạn một sách giáo khoa dạy về bổn phận
và trách nhiệm đối với nước. Mục 3: "Chiếm lại Đài Loan và Triều Tiên. Chiếm
lại lãnh thổ nguyên thủy vốn là thành phần của triều Hán và triều Đường..; như
vậy chúng ta, con cháu của Hoàng Đế,sẽ không còn hổ thẹn". Sáu mươi năm
sau, sách giáo khoa của Bắc Kinh mở đầu chiến dịch giáo dục lịch sử ghi triều
đại Goguryeo (37 trước TL - 668 sau TL) của Triều Tiên là thành phần của lịch
sử Trung Qu ốc.12
Triều Tiên thôi sao? Nghe thêm than thở của các nhà ngoại giao Trung Qu ốc đầu thế kỷ 20: chúng
ta đã mất "Hồng Kông của chúng ta", "Miến Điện của chúng
ta", "Xiêm La của chúng ta", "A Nam của chúng ta". Bọn
đếquốc đã "căt giang sơn của chúng ta như cắt trái dưa hấu". Tiếp nối
truyền thống, Tàu Mao ghi thêm quần đảoTrường Sa như là "đương nhiên của Trung Qu ốc" trong một bản
đồinnăm 1999. Đó là những lãnh thổ mà chúng ta đã mất trong "thế kỷ
tủinhục",đương nhiên châu phải về hợp phố. Một sách giáo khoa khácviết rõ
mồn một: "Lịch sử thế kỷ quốc nhục của chủng tộc Trung Qu ốcluôn luôn nhắc nhở
chúng ta rằng các giống dân ngoại quốc xâm chiếmchúng ta bằng đường biển. Kinh
nghiệm không ngừng buộc chúng taphải nhớ: chiến hạm xuất hiện từ Thái Bình
Dương: tổ quốc chúng tachưa thống nhất toàn vẹn; cuộc tranh đấu về chủ quyền
trên TrườngSa, Diao Yutai và biên giới Ấn-Trung vẫn còn tiếp diễn... ta phải
xâydựng một hải quân hùng hậu để thu hồi toàn vẹn lãnh thổvà bảo vệnhững quyền
và đặc quyền về lãnh hải của ta".13 Hay thật! Trung Qu ốcrửa nhục bằng cách
xây dựng lại đếquốc của nhà Thanh! Bằng cáchđòi hỏi "địa vị xứng đáng trên
sân khấu quốc tế"! Ngôn từ "quốc sỉ"phà hơi vào than hồng chiến
tranh, hiểm nguy hiện ra rõ hơn bao giờhết.
2. Bởi vậy, thế giới phải nói thẳng với Trung Qu ốc: ông hãy chấm dứt
cái trò quốc sỉ ấy đi. Quốc sỉ! Nhục của nước! Nhục nào? Cái nhục ấy đã có hơn
trăm tuổi thọ rồi. Có người hỏi ông: bao giờ thì nó chấm dứt? Ông không chịu
trả lời,14 bởi vì đó là con ngoáo ộp để ông dọa thiên hạ. Nước nào? Trung Qu ốc ngày nayđâu còn là Trung Qu ốc hút thuốc phiện!
"Đã đến lúc Trung Qu ốc
chấm dứt nói mình là nạn nhân và hãy sống như một quốc gia bình thường",
một tác giả Mỹ đã viết như thế.15 Hay nói như một nhà văn Trung Qu ốc, Vương Sóc (Wuang Shuo), trong
tiểu thuyết "Please don't call me
Human": "Cứu quốc! Quốc nào? Cứu ra khỏi cái gì? Cám ơn
bạn, nước chúng ta làm ăn tốt, và càng ngày càng tốt".16
Là măn tốt: ai cũng mong muốn một Trung Qu ốc như thế,nhất là Mỹ. Không ai ngăn cản nổi
một Trung Qu ốc
trỗi dậy, một Trung Qu ốc
cường thịnh. Nhưng một Trung Qu ốc
cường thịnh phải là một Trung Qu ốc
có trách nhiệm trên thế giới và cư xử một cách có trách nhiệm: lý thuyết của Mỹ
là như thế ngay từ đầu. Nhưng Trung
Qu ốc lại làm như thể mọi người phải gánh trách nhiệm về tủi
nhục của ông, trước là Mỹ,bây giờ cả Mỹ lẫn Nhật. Có tác giả đã nhận định:
"Chính quyền TrungQuốc tuyệt đối không muốn giải quyết vấn đề các đảo
Senkaku. Nếu ngày mai Nh ật
trao Senkaku vào tay Trung Qu ốc,
Bắc Kinh sẽ lập tức bắt đầu nói đến Okinawa. Lập tức. Họ sẽnói: "Chúng tôi
không muốnSenkaku nữa. Chúng tôi muốn Ryukyus". Nói như vậy có thể là hơi
quá. Nhưng câu tiếp theo thì không sai: "Hệ thống chính trị của họ cần
phải có đối nghịch với Nhật. Đó là ô-xy của hệ thống. Họ không thể sống mà
không có lập trường nghịch với Nhật. Các bạn không thể làm giảm căng thẳng, bởi
vì phía Trung Qu ốc
tuyệt đối cần phải có căng thẳng".17 Đúng hay sai không phải là vấnđề
ởđây. Vấn đề ởđây là:Trung Qu ốc
không thể chiếm độc quyền về dân tộc chủ nghĩa. Dù Nhậtcó sai trái bao nhiêu đi
nữa trong thế chiến thứ hai, ông khiêu khích tựhào dân tộc nơi họ,dồn họ đến
chân tường, thì họ phản ứng thôi.
3. Nhận xét thứ ba liên quan đến việc sử dụng ý thức hệ "quốc
sỉ". Khác với Tưởng, Mao không đặt đề tài "quốc sỉ"lên hàng đầu
trong suốt thời gian kháng Nhật. Kẻ thù chính của Mao là nội thù, không phải
ngoại thù. Là Tưởng. Là giai cấp tư sản. Chỉ thị của Mao gửi đến cán bộ cao cấp
của Đảng Cộng sản năm 1937 viết: "Mục đích của ta là khai triển sức mạnh
quân sự của Đảng Cộng sản đểlàm đảo chánh. Bởi vậy, phải quán triệt áp dụng chủ
trương căn bản này: 70% cố gắng là đểbành trướng, 20% là để đối phó với Quốc
Dân Đảng, và 10% là để kháng Nhật. Toàn thể đảng viên và đoàn thể phải tuân
lệnh, không được chống lại chỉ thị tối quan trọng này". Mao dĩ nhiên cũng
khác Tưởng về vấn đề văn hóa. Với Tưởng, Khổng giáo vẫn là rường cột của nước.
Với Mao, đó là văn hóa "phong kiến", nguyên do làm Trung Qu ốc lụn bại. Mao không đặt
tính chính đáng của Đảng Cộng sản trên việc khai thác "quốc sỉ" mà
trên chiến thắng của Cách Mạng."Đông phương
hồng" là bài hát thay thế địa vị của quốc ca trong suốt thời
gian ngự trị của Mao (1949-1976). "Đông
phương hồng" không có một chữ nào nhắc lại quá khứ. Chỉ hoan
hô Chủ Tịch, hoan hô Đảng, hoan hô mặt trời trước mắt.
Các nhà viết sử sau này nhận xét: trong suốt thời gian Mao nắm quyền và
cho đến Thiên An Môn, không có một quyển sách nào xuất bản trong khoảng
1947-1990 viết về đề tài "quốc sỉ".Cuộc thảm sát Nam Kinh bị loại bỏ
một cách có ý thức. Năm 1962, các giáo chức khoa sử ở Đại Học Nam Kinh viết
cuốn "Đếquốc Nhật và cuộc thảm sát Nam Kinh": sách ấy chỉ được lưu
hành nội bộ, không xuất bản. Mãi đến 1982, chính quyền mới để ýđến biến cố đó.
Các tác giả viết sử ấy giải thích: Một, trong ý thức hệ Mao, giai cấp mới là
quan trọng, không phải dân tộc. Hai, dân tộc chủ nghĩa trái với quốc tế chủ
nghĩa. Ba, lụn bại của Trung Qu ốc
chính yếu là do tham nhũng và bất tài của giai cấp phong kiến, tư bản. Bốn,
"chiến thắng" là ngôn từ căn bản để cắt nghĩa tính chính đáng của
Đảng Cộng sản, "anh hùng" là mẫu mực để động viên dân chúng: Mao dẫn
dắt nhân dân đi từchiến thắng này đến chiến thắng khác. Không nói nhục, bởi vì
chỉ có vinh. Chưa kể thêm lý do này nữa: trong vụ thảm sát Nam Kinh, chẳng có
"anh hùng" nào ở Nam Kinh bởi vì đó là kinh đô của Tưởng năm 1937. Kẻ
chết ở Nam Kinh, Thượng Hải, hoặc bất kỳ nơi đâu ở miền Nam phần nhiều là lính
Tưởng. Các nhà viết sử này nói thêm: đúng là Mao còn phải biết ơn Nhật bởi vì
nếu không có Nhật mở cuộc xâm lăng rộng lớn như thếtừ1937 đến 1945, quân đội
của Mao đã bịTưởng thanh toán. Lẩn tránh trong núi rừng Sơn Tây, chiến lược của
Mao là tránh giao tranh với Nhật để bành trướng quân lực từ 30.000 người nhỏ
nhoi lên cả 1 triệu quân cường tráng. Đối thoại sau đây giữa Mao và thủ tướng
Nhật Tanaka Kakue ngày 27-9-1972, khi Nhật theo chân Mỹ mở bang giao chính thức
với Bắc Kinh, rất thú vị, phải ghi chép lại đầy đủ để thấm thía hài hước của
Chủ tịch Mao:
Mao nói: "Chúng tôi phải cám ơn nước Nhật. Nếu Nhật không xâm lăng Trung Qu ốc, chúng tôi chẳng bao
giờ hợp tác được với Quốc Dân Đảng. Chúng tôi chẳng bao giờ phát triển và giành
được chính quyền. Chính là nhờ Nhật giúp sức mà chúng ta bây giờ mớiđược gặp
nhau ở Bắc Kinh"
Tanaka nhũn nhặn: "Xâm chiếm Trung Qu ốc, Nhật đã gây nhiều tổn hại cho Trung Qu ốc". Mao đáp lại
liền: "Nếu Nhật không xâm chiếm Trung Qu ốc, đảng Cộng sản Trung Qu ốc sẽ không chiến thắng
được, hơn nữa chúng ta sẽ chẳng gặp nhau được hôm nay. Biện chứng của lịch sử
là như vậy".
Vậy thì làm sao và từ bao giờ biện chứng ấy bị trái gió lộn lèo? Cứ lấy
ví dụ bài quốc ca cho cụ thể. Khởi đầu là bài "Chí nguyện quân hành
khúc", lời của Tian Han, nhạc của Nie Er. Viết vào năm 1932, một năm sau
khi Nhật chiếm Mãn Châu, bài hát thúc giục dân chúng đứng lên gia nhập kháng
chiến. "Đứng lên, đứng lên, đứng lên! Dân tộc Trung Hoa đối mặt với hiểm
nguy lớn nhất". Năm 1949, khi thảo luận về một bài quốc ca cho Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Hoa
vừa thành lập, có người đề nghị đổi câu ấy thành câu khác, "biện chứng
lịch sử" hơn: "Dân tộc Trung
Hoa đã đến ngày giải phóng". Chu Ân Lai không đồng ý, cho
rằng câu trong nguyên bản gợi cảm hơn và bao giờ cũng thích hợp để chống đe dọa
ngoại xâm. Đến thời Cách mạng văn hóa, "Chí nguyện quân hành khúc" bị
dẹp xó, thay thế bằng "Đông phương hồng" như đã nói. Đến khi Mao chết
năm 1976, Hoa Qu ốc
Phong tái lập "Chí nguyện quân hành khúc" vào địa vị quốc ca năm
1978, nhưng thay toàn bộ lời, tán dương
Mao và Đảng. Năm 1982, tháng chạp, ngày 4, dưới sự lãnh đạo
của Đặng Tiểu Bình, hành khúc nguyên văn của năm 1935 được lập lại và Quốc Hội
chính thức biểu quyết làm quốc ca.
Thếthì, từ 1921, khi thành lập Đảng Cộng sản, đến 1949, khi thành lập
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa ,
tính chính đáng của quyền lực dựa trên hai chân: chủ nghĩa cộng sản và chủ
nghĩa dân tộc. Từ 1949 đến hết Cách mạng văn hóa năm 1976, tính chính đáng dựa
trên Mao Chủ Tịch và viễn tượngđỏ rực của chủ nghĩa cộng sản. Từ 1976 đến 1991,
phân vân xảy ra ngay trên tính chính đáng: mèo xám hay mèo đen, mèo nào bắt
chuột giỏi? Thật vậy, bước qua những năm 1980, tình hình ý thức hệtrở nên trầm
trọng, "tam tín nguy cơ"("san xin weiji") xảy ra. Ba khủng
hoảng niềm tin : tín tâm nguy cơ (xinxin
weiji) tức là khủng hoảng niềm tin xã hội chủ nghĩa, tín ngưỡng nguy cơ (xinyang weiji) tức là khủng
hoảng niềm tin mác xít, tín nhiệm nguy cơ (xinren
weiji), tức là, nguy quá, khủng hoảng niềm tin vào Đảng. Cả ba niềm tin ấy đã
thay thế niềm tin tôn giáo, vậy thì miếng đất tâm linh đã thành cái miếu hoang.
Lấy gì thay thế vào đó?
Thiên An Môn ập tới năm 1989, sinh viên bê Nữ thần Tự Do đặt vào miếu.
Thế thì loạn to! Lập tức chiến dịch giáo dục lịch sử được phóng ra, lái nhiệt
huyết của giới trẻ từ đấu tranh với bên trong qua đấu tranh với bên ngoài, tái
lập tính chính đáng trên cái chân dân tộc chủ nghĩa. Quên cái chân đấu tranh
giai cấp rồi chăng?Đâu có! Loạn Thái Bình Thiên Quốc (1851-1864) cũng là nhân
dân nổi dậy để chống áp bức. Và đâu có phải chỉ Trung Qu ốc là nạn nhân: giai
cấp công nhân và nông dân Nhật Bản cũng là nạn nhân của quân phiệt đếquốc chủ
nghĩa. Không quên lý thuyết giai cấp, nhưng dân tộc chủ nghĩa phất lênthành cờ
lãnh đạo.
Từ bỏ hình ảnh oai hùng của kẻ chiến thắng ngày hôm qua - chiến thắng
trên Quốc Dân Đảng- sách giáo khoa vẽ cho con trẻ hình ảnh tủi nhục của nạn
nhân ngày hôm kia, nạn nhân của phương Tây và của Nhật. Trước, con trẻ học tung
hô. Bây giờ, con trẻ học thù hận. Từ 1994 đến 2002, Giang Trạch Dân làm một
cuộc cách mạng thầm lặng, biến Đảng Cộng sản Trung Qu ốc từ một đảng cách
mạng thành một đảng dân tộc chủ nghĩa, lấy lòng yêu nước thay thế chủ nghĩa
cộng sản như là ý thức hệ nòng cốt. Đảng dạy con trẻ: Thế nào là một công dân Trung Qu ốc chân chính? Ghét bọn
xâm lăng ngoại quốc, khinh bỉ Hán gian, kính trọng người yêu nước.
Nói thêm một chuyện mới đây. Tập Cận Bình tuyên bố gì trong khi ngang
nhiên cắm dàn khoan HD 981 trong vùng biển Hoàng Sa? Y chang một giọng:
"Chính sự yếu kém của quốc gia trong quá khứ đã giúp những kẻ ngoại xâm
phá vỡ phòng thủ biên giới trên bộ và trên biển của Trung Qu ốc hàng trăm lần,đẩy
đất nước Trung Qu ốc
đến tận cùng của tai họa" Vì vậy người dân Trung Qu ốc "không được
quên quá khứ nhục nhã đó và phải xây dựng biên giới vững chắc"18 Ai không
được quên quá khứ nhục nhã nếu không phải chính là người Việt Nam chúng tôi
trước hành động ngang ngược của ông?
Rất nhiều tác giả ngày nay nói: Khi Lỗ Tấn viết A Q, ông trào lộng con
người Trung Qu ốc,
xã hội Trung Qu ốc.
Trí thức thời ấy không phải là không biết nhục trước đế quốc, nhưng họ nhắm vào
cái cổ hủ, cái lụn bại của văn hóa Trung
Qu ốc để đả kích, hòng canh tân, đưa Trung Qu ốc vào hiện đại. Hậu
Thiên An Môn đi ngược lại chiều hướng ấy, lái dân tộc chủ nghĩa qua tham vọng
bá quyền ởbên ngoài. Một bên nhắm vào bên trong để định nghĩa cái
"ta". của Trung Qu ốc.
Một bên nhắm vào bên ngoài , biến cái "ta" của Trung Qu ốc thành đe dọa thường
xuyên. Không phải súng ống tàu bè làm Trung Qu ốc đáng sợ. Đáng sợ là cái thứ văn hóa chiến
tranh ấy. Người viết bài này không phải là tín đồ của văn hóa Tây phương. Nêu
lên điểm nhận xét cuối cùng trong điểm 4 sau đây không phải để tán tụng, mà cốt
đểso sánh hai thứ văn hóa trong câu chuyện định nghĩa chữ "ta" này.
4. Vâng, so sánh thứ nhất là về cái mề đay. Tại Thế Vận Hội 2008 về môn
điền kinh, đoàn Mỹ được huy chương đồng, đoàn Nhật huy chương bạc, đoàn Trung Qu ốc huy chương vàng.
Đoàn Mỹ ôm nhau mừng rơn sau lễ trao huy chương, giơ cao huy chương đồng cho
báo chí chụp ảnh. Được phỏng vấn, lực sĩ Jonathan Horton trả lời: "Điều
quan trọng nhất đối với chúng tôi là được lên bục này; như vậy là chúng tôi đã
lên được. Còn đồng, bạc hay vàng, điềuđó không quan trọng". Ai muốn bình
phẩm gì về câu đó, cứ bình phẩm. Nhưng hãy suy nghĩ về câu hỏi được nêu lên như
đề tài nóng trong thảo luận "chat"trên
mạng Bắc Kinh tối hôm đó: "Quái, sao chỉ được huy chương đồng mà bọn Mỹ
hạnh phúc thế!"Đây là suy nghĩ của chính một tác giả Trung Qu ốc: "Một dân tộc
bị ám ảnh về huy chương vàng đến mức phải khích động tình cảm dân tộc chủnghĩa
và tính chính đáng của chế độ,không phải là một chính quyền tự tin ở mình. Và
một dân chúng không thể chấp nhận một cách hào hoa khi thua trong thể thao
không phải là một dân chúng bình tỉnh và cảm thấy an ninh".19
So sánh thứ hai liên quan đến "Ngày tủi nhục dân tộc". Nhiều
nước cũng có một ngày tưởng niệm như thế,cũng gọi ngày đó là "National
Humiliation Day": ở Anh, ở Mỹ, ở Ấn Độ, ở Hàn Quốc... Bởi vì văn hóa trong
các nước Anh Mỹ, nhất là trong các thế kỷ trước, là văn hóa Thiên chúa giáo,
chiến tranh hay hòa bình, thắng hay bại, đều được cắt nghĩa là do ý muốn của
Thượng đế. Bởi vậy, nước nào cũng quốc hữu hóa Thượng đế, cho rằng Thượng đế
đứng về phe ta. Nhưng đó không phải là vấn đề ở đây, khi nói về ngày tủi nhục.Ở
đây, kẻ thù chính hoặc đồng minh chính không phải là nước kia, mà chính là
Thượngđế. Bởi vậy, rùng rợn biết bao khi nghĩ rằng Thượngđếlà kẻ thù của mình
trong chiến tranh. Cho nên cách để thắng trong chiến tranh không phải là ỷ vào
sức mạnh vật chất hay tài nghệ chiến lược, mà là phải biết hối hận trước
Thượngđế vềnhững tội lỗi mà nước mình đã phạm và phải biết cư xửnhư một nước
khiêm cung, hết lòng hối lỗi. Chân thành hổ thẹn để rửa sạch tội lỗi của dân
tộc mình là cách để nắm lấy chiến thắng. Đó là lý thuyết mà nhà thờgiảng giải
trước đây trong những ngày lễ"tủi nhục dân tộc". Lý thuyết đó còn nói
thêm: bởi vì nguyên do của chiến tranh là mối tương quan giữa một dân tộc với
Thượngđế, và bởi vì chiến tranh là một phán đoán của Thượngđế vềtội lỗi của một
dân tộc, đối phương trên chiến trường không nhất thiết phải bị biến thành kẻ
thù, vì trả thù là tội lỗi. Nhiều nhà thờcòn khuyên hai đối thủ tái lập thân
thiện. Dân tộc Việt Nam chúng ta chẳng cần ai khuyên cả, cứ vô tư hào hiệp
"hello" với người Mỹ, người Pháp.
Tất nhiên tôi biết các thánh chiến trước đây không cao đẹp như thếđâu.
Nhưng tôi dài dòng về lý thuyết của nhà thờ là cốt để trích nguyên văn tuyên bố
của Abraham Lincoln, tổng thống Mỹ , thiết lập "Ngày tủi nhục dân
tộc" sau khi chấm dứt nội chiến Nam Bắc:
"... Chúng ta biết rằng, do luật thiêng liêng của Thượng đế các
quốc gia, cũng như cá nhân, đều chịu hình phạt trong thế giới này, cho nên làm
sao chúng ta không sợ một cách chính đáng rằng cái họa khủng khiếp của nội
chiến đang tàn phá đất nước này chỉ có thể là một hình phạt giáng xuống chúng
ta vì những tội lỗi kiêu căng, với mục đích cần thiết là để toàn thể chúng ta
cải tạo như là một dân tộc. Chúng ta đã được chọn để nhận những ân huệ quý báu
nhất của Thượng đế; chúng ta đã gìn giữ được những ân huệ ấy trong nhiều năm
tháng với hòa bình và thịnh vượng; chúng ta đã phát triển lên về dân số, về của
cải, về sức mạnh nhưchưa có nước nào phát triển như thế. Nhưng chúng ta đã quên
Thượng đế... Vì vậy chúng ta phải cúi mình trướcSức Mạnh bị xúc phạm ấy, để
xưng những tội của dân tộc ta và để cầu khẩn Thượng đế khoan hồng và tha
tội".
Khi Lincoln ban hành "Tuyên Bố" này (1863) nước Mỹ chưa phải
là đế quốc. Đúng một thế kỷ sau, trong chiến tranh Việt Nam, Bob Dylan, trong
một bài hát nổi tiếng "Với Thượng đế ở cùng phe", chỉ trích mâu thuẫn
giữa lý thuyết và hành động của nước Mỹ ngoan đạo. Nhưng dù sao chăng nữa, vẫn
có một cái gì đẹp trong đó, vẫn có cái ý tưởng này để so sánh với "quốc
sỉ" của Trung Qu ốc:
kẻ thù, nên tìm ở trong ta.
Tìm ở trong cái "ta" của chính ông, kẻ thù của Trung Qu ốc chính là cái định
nghĩa của ông về ông, chính là cái sức mạnh đã cho phép ông định nghĩa như thế
ngày nay: ông là con đẻ của lịch sử ngày xưa, là trung tâm của thế giới, là
vương quốc trị vì thiên hạ. Cái tham vọng đó thôi thúc ông phải mạnh lên nữa,
mạnh hoài, nhưng chính vì vậy mà ông bất an và ông làm thế giới bất an. Ông bất
an vì tham vọng sẽ gặp tham vọng, sức mạnh sẽ gặp sức mạnh. Do đó ông phải tạo
ra kẻ thù ở bên ngoài, tạo ra cái "quốc sỉ" vô thời gian, vô hạn
định, ngòi lửa của chiến tranh. Ông là ông khổng lồ, nhưng là ông khổng lồ bất
an, một "Goliath insecure" như
có tác giả đã viết.20 Xét cho cùng, tìm Thượng đế như đồng minh cũng là để tìm
an ninh, hỗ trợ an ninh súng đạn bằng an ninh
tinh thần. Nhưng ngày nay, trong văn hóa Anh Mỹ, an ninh tinh thần
ấy còn nằm ở nơi một ông Thượng đế khác , ông Thượng đế Dân chủ, và ông ấy nằm
trong lòng dân. Trung Qu ốc
không có Thượng đế, không có cả ông Trời mà ngay cả Khổng Tử cũng kính sợ. Chỉ
còn lòng cuồng nhiệt của dân chúng để kích động, để tìm hỗ trợ an ninh. Nhưng
ngay cả trong an ninh tinh thần ấy, ông cũng bất an, vì ông cứ phải nghe hoài
câu nói của tổ tiên ông vọng lại từ Thiên An Môn: "dân như nước, nước chở
thuyền nhưng cũng làm lật thuyền".21 Bất an trong an ninh tinh thần, ông
lại càng nổ đại bác quốc sỉ vào Biển Đông của chúng tôi.
Ông muốn gì? Muốn làm cha thiên hạ. Muốn thuộc địa hóa Việt Nam. Muốn
đầy tớ hóa dân ta. Thật là buồn cười khi ta gọi ông là đồng chí. Đồng chí với
chủ nghĩa dân tộc của ông ấy? Đồng chí để cùng Hán hóa nước ta?
Nguồn: Thời đại mới
……………………………….
1 Tham luận đọc tại Hội Thảo Hè “Sự trỗi
dậy của Trung Qu ốc
và ảnh hưởng của nó đối với Việt Nam và thế giới,”từ ngày 31-7-2014
đến 1-8-2014 tại Toulouse (Pháp)
2 Thomas J. Christensen, The Avantages of an Assertive China, Foreign Affairs, March-April 2011.
3 MAD, viết tắt của Mutual Assured Destruction: phe nào thử
tiêu diệt đối phương trước, chắc chắn sẽ bị tiêu diệt theo.
4 Nhiều quan sát viên nghĩ rằng Trung Qu ốc đang nghiền ngẫm một chiến tranh chớp
nhoáng. Xem Thomas Hammes, US. eyes on Japan's Security 3/ Threat of Blockade, allied
presence key to deterrence. The Yomiuri Shimbun,
April 11, 2014.
5 Jack Levy and Katherine Barbiery, trích bởi John J. Mearsheimer, Can
China Rise Peacefully, Foreign Affairs,
April 8, 2014. trang cuối. Đặc điểm này, xảy ra trong thế chiến thứ nhất, cũng
được nhắc đến trong: Michael Vlahos, History's Warning: A US-China War is
Terrifyingly Possible, The National Interest,
July-August 2014. Vẫn đánh nhau mà vẫn có thể tiếp tục giao thương:
"Economic fears does not brake on war" (Lo ngại về kinh tế không
ngăn chiến tranh).
6 John J. Mearsheimer, Can China Rise Peacefully?, dẫn ở trên.
7 Alain Frachon, Moscou,
Pékin et leurs petits voisins, Le Monde,
16-5-2014 Quanđiểmấy được nhắc thêm một lần nữa trong một bài xã luận ở trang
đầu: Moscou et Pékin, même combat, Le Monde 22-5-2014.
Ngay câu đầu: "C'est une histoire du monde multipolaire
d'aujourd'hui". Xem thêm ý kiến của Robert Cohen, China's Monroe
Doctrine, New York Times, 8-5-2014.
8 Charles Glaiser, Will China's Rise Lead to War?, Foreign Affairs, March- April 2011.
9 Xem James B. Steinberg and Michael O'Hanlon, Keep Hope Alive. How to
Prevent US-Chinese Relations from Blowing Up, Foreign
Affairs, July- August 2014.
10 Zheng Wang, Never Forget National
Humiliation, Columbia University Press/New York, 2012, Preface,
XIII. Phần thứ II trong bài viết này phần lớn dựa trên quyển sách này mà tác
giả nhận xét là đứng đắn. Những trích dẫn nào khôngđềxuất xứ là lấy từ đây.
11 Những trích dẫn từ đây là lấy từ sách nói trên
12 William A. Callahan,
National Insecurities: Humiliation, Salvation, a Chinese Nationalism, Alternatives 29, 2004.
13 Callahan, như trên,trang
212.
14 Ryan Kilpatrick, National
Humiliation in China, 20-10-2011, http://www.eir.
info/2011/national-humiliation-in-china/
15 Callahan, như trên,trang
214.
16 Callahan, như trên.
17 Edward Luttwak, The Yomiuri Shimbun,
April 09, 2014.
18 Bangkok Post, 30-6-2014, http://www.bangkokpost.com/mostrecent/
417832/xi-demands-stronger-defenses
19 Nhà văn Wang Shuo châm biếm bằng cách kể một câu chuyện tếu: Trung Qu ốc hừng hực đầu tư vào
việc huấn luyện một catcheur để trả thù một thất bại trước một catcheur Tây
phương. Nhưng trước khi chàng lực sĩ Trung Qu ốc vào đấu trường, lực sĩ Tây phương bỗng
lăn ra chết. Anh ta tự tử vì sợ phảiđấu với cả một tỷ người chống đối . Quốc sỉ
đã rửa sạch. (Callagan, đã dẫn, notes 54 và 60)
20 Allen Carlson, China's Conflicted Olympic Moment, Current History, Vol 107, N° 701, September
2007
21 Điều mà Brzezinski nói về Nga cũng đúng cho cả Trung Qu ốc: "Nga có thể là
môt đế quốc hay một nền dân chủ, nhưng không thể là cả hai". Xem Ross
Terrill, What does China Want?, Wilson Quarterly,
Autumn 2005