01 octobre 2015

Gạo Việt đi sau Thái Lan 100 năm: Lỗi hai ông lớn?


(Thị trường) - Bên trong hai TCT lương thực có nhiều doanh nghiệp nhưng hầu như chẳng doanh nghiệp nào có vùng nguyên liệu, họ làm chỉ mang tính chất đối phó.

Trách nhiệm của hai Tổng công ty lương thực

Trao đổi với Đất Việt, một số chuyên gia đã chỉ thẳng trách nhiệm của hai Tổng công ty lương thực miền Bắc và miền Nam (Vinafood 1, Vinafood 2) trong việc khiến gạo Việt có chất lượng kém, không có thương hiệu trên thị trường thế giới và đang bị tụt hậu dần so với Thái Lan cũng như một số nước khác trong khu vực.

PGS.TS Dương Văn Chín, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu nông nghiệp Định Thành (Công ty CP BVTV An Giang) cho rằng, từ trước đến nay, để xuất khẩu gạo, Vinafood 1 và Vinafood 2 đi mua lúa gạo trôi nổi thông qua thương lái ở ngoài, không biết rõ nguồn gốc rồi trộn nhiều giống với nhau nên chất lượng gạo kém. Họ cạnh tranh trên thế giới bằng giá thấp để có được hợp đồng cung cấp gạo. Bởi hai Tổng công ty lương thực không có vùng nguyên liệu, trồng những giống lúa đặc sắc của riêng mình để bán ra thị trường trong nước và xuất khẩu nên gạo Việt không có thương hiệu là vì vậy.
 
Hiện có nhiều doanh nghiệp không phải thành viên của Vinafood nhưng họ có vùng nguyên liệu riêng, sản xuất gạo chất lượng để xuất khẩu. Ảnh minh họa
 
"Bên trong Vinafood 1 và Vinafood 2 có rất nhiều doanh nghiệp. Ngay cả Tổng công ty lương thực miền Nam có 17 đơn vị thành viên nhưng hầu như không có doanh nghiệp nào có vùng nguyên liệu. Nhà nước yêu cầu doanh nghiệp phải có vùng nguyên liệu thì mới cho xuất khẩu, họ liền chạy đôn chạy đáo được vài ba trăm hecta để chứng minh mình có vùng nguyên liệu, trong khi thực chất họ mua gạo trôi nổi, trộn vào rồi bán. Đây chính là cái dở nhất trong cách làm gạo của Việt Nam: doanh nghiệp không cố gắng, không nỗ lực có vùng nguyên liệu để có gạo chất lượng cao, an toàn cạnh tranh thắng lớn với gạo quốc tế để tham gia xây dựng thương hiệu gạo Việt.

Hiện nay ở miền Nam có doanh nghiệp không phải thành viên của Vinafood 2 nhưng họ có vùng nguyên liệu riêng, sản xuất gạo chất lượng để xuất khẩu. Họ cũng có thế đứng nhất định vì chất lượng gạo của họ được thị trường thế giới chấp nhận. Nhưng số doanh nghiệp như vậy còn rất ít", PGS.TS Dương Văn Chín cho biết.

Đồng quan điểm, PGS.TS Nguyễn Văn Nam, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thương mại (Bộ Công thương) nói thêm rằng, sự tụt hậu của gạo Việt Nam mới xảy ra nhưng lý do xưa nay thì vẫn thế: Việt Nam không có những doanh nghiệp xuất khẩu thương mại đúng nghĩa và đủ mạnh. Trước đây, việc xuất khẩu gạo do doanh nghiệp nhà nước đảm nhận, đầu tiên là xuất theo quota rồi đến hợp đồng tập trung và họ không quan tâm đến việc làm thương hiệu cho gạo Việt Nam. Mãi đến năm 2001, Nhà nước mới cho tư nhân tham gia xuất khẩu gạo nhưng số lượng không nhiều, hai Tổng công ty lương thực chiếm vị trí gần như bá quyền trên thị trường xuất khẩu gạo.

"Hai Tổng công ty lương thực không phải là những đơn vị kinh doanh thực thụ và được giao cho rất nhiều đặc quyền. Họ cứ ngồi chờ Nhà nước bao cấp, trợ giá, họ ký kết những hợp đồng lớn rồi phân bổ cho doanh nghiệp để doanh nghiệp tự làm. Ngoài hai Tổng công ty này, còn có một loạt doanh nghiệp nhà nước ở các tỉnh, đặc biệt gạo ở ĐBSCL bị họ khống chế hết. Doanh nghiệp tư nhân yếu thế, làm được chăng hay chớ, không có sức đâu để xây dựng thương hiệu.

Thế nhưng trách hai Tổng công ty chỉ là một phần, có trách phải trách các cơ quan quản lý đã không cải cách hệ thống thương mại về gạo, mà đầu mối là Bộ Công thương và Bộ NN&PTNT", ông Nam thẳng thắn.