Yếu kém về văn hóa,
giáo dục dẫn tới yếu kém kinh tế, quốc phòng, hậu quả tất yếu là sẽ bị lệ thuộc
vào nước ngoài, khi đó chủ quyền quốc gia liệu có còn nguyên vẹn?
Vậy nên xin hỏi Bộ
trưởng, chúng ta cần “bình tĩnh” đến khi nào?"
Tìm hiểu trong mục
Thống kê/Số liệu tổng quan trên Trang thông tin điện tử Bộ Giáo dục và Đào tạo
mới thấy số liệu thống kê năm 2013, số liệu các năm gần đây hình như chưa công
bố. Theo số liệu năm 2013 thì cả nước có 15.361 trường tiểu học; 274.700 lớp;
7.202.764 học sinh; 381.432 giáo viên. [1]
Năm học 2016-2017, cả
nước có 22,5 triệu học sinh, sinh viên, trong đó khoảng 20,5 triệu học sinh phổ
thông, như vậy số học sinh tiểu học chiếm khoảng gần 1/3 tổng số người học cả
nước.
Vậy hơn bảy triệu học
trò tiểu học đang học gì và gần 400 nghìn thày cô đang dạy gì?
Theo thông lệ, tốt
nghiệp cao đẳng sư phạm sẽ dạy tiểu học, trung học cơ sở, một số ít giáo viên
tiểu học tốt nghiệp ngành Giáo dục tiểu học (mã ngành: 904) tại Đại học Sư phạm
Hà Nội.
|
|
||
Tuyển sinh ngành “Giáo
tiểu học” được công bố tại địa chỉ [1], đại học Sư phạm viết văn như thế thì
thấp hơn đại học viết thế nào? Có lẽ câu trả lời sẽ là “lỗi đánh máy” chứ không
phải lỗi của lãnh đạo trường hoặc khoa!
Trong gần chục năm trở
lại đây, thày cô và học sinh tiểu học Việt Nam đã được tiếp cận với ít nhất là
bốn kiểu dạy và học khác nhau: phương pháp dạy học truyền thống, phương pháp “Bàn
tay nặn bột”, phương pháp VNEN,
học theo sách “công
nghệ giáo dục” và gần đây là dạy và học theo Thông
tư 30/2014/TT-BGDĐT, năm 2016 được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư
22/2016/TT-BGDĐT.
Học theo sách “công
nghệ giáo dục” không phải là “phương pháp” dạy và học mới mà là theo sách giáo
khoa khác với sách “truyền thống”, tuy nhiên vì sách này được phổ biến ở mấy
chục địa phương nên ảnh hưởng của nó không thể nói là nhỏ.
Bài viết trên báo
Plo.vn ngày 8/11/2016 có đoạn “bài
quả bứa, trang 87, sách Tiếng Việt 1, tập 2 kể câu chuyện hai cháu Năm và Sáu
đi qua vườn quả. Năm thấy quả liền la (hô) to và Sáu nhặt quả bứa. Hai cháu
giành qua giành lại, cậu Cả đi qua và phân xử.
“Cậu Cả bổ quả bứa và phán: Năm, mày
thấy quả bứa, hãy nhận lấy nửa vỏ này. Sáu, mày nhặt quả bứa, hãy nhận lấy nửa
vỏ này. Dành phần ruột trả thù lao cho quan tòa phân xử, của tao. Cậu Cả vừa ăn
vừa bỏ đi”.
Lời lẽ trong câu chuyện rất phản cảm và giáo dục các cháu cách sống tiểu xảo”. [2] |
Với bài viết như thế,
sách giáo khoa Công nghệ giáo dục đã được “thực nghiệm” tại hơn 40 tỉnh thành
phố trong khoảng mấy chục năm, nghĩa là hàng nghìn trẻ nhỏ được học cách “quan tòa phân xử” theo
kiểu rất vô giáo dục.
Nếu có cháu nào sau đó
trở thành “quan tòa” liệu vị “quan tòa” ấy có vận dụng bài học vỡ lòng từ sách
“công nghệ giáo dục” vào cuộc sống?
Cho đến nay chưa thấy
Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố các báo cáo tổng kết những gì được và chưa được
của loại sách công nghệ này.
Phương pháp dạy
“truyền thống” được xem là phương pháp thày cô đọc, học trò ghi, tất cả nội
dung bó gọn trong sách giáo khoa, thậm chí vở làm bài tập cũng được in sẵn.
Cũng xin nói thêm là đơn
vị sản xuất những vở cho học sinh tiểu học đã rất “hào phóng” khi in cách quãng
rất rộng, mỗi dòng chỉ vài chữ cái, nếu viết nhanh chỉ vài phút là hết trang
giấy.
Có một sự đối nghịch
không khó nhận thấy giữa phương pháp “Bàn tay nặn bột” và phương pháp VNEN.
“Bàn tay nặn bột” là
phương pháp dạy học dựa trên các thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, áp dụng cho
việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên, còn thì VNEN lại thiên về cách tổ
chức lớp học chứ không phải nội dung học.
Số liệu thống kê cho
thấy năm học 2017-2018 riêng cấp tiểu học có 58 tỉnh/thành tham gia dạy theo
VNEN với 4.800 trường và 18% học sinh, như vậy chỉ còn 5 tỉnh/thành nói không
với VNEN.
Tuy nhiên so về số
lượng thì số trường dạy theo VNEN chiếm 31,25% tổng số trường cấp tiểu học.
31,25% số trường và 18% số học sinh theo VNEN nói nên điều gì?
Nghĩa là ngay trong những trường dạy và học theo VNEN thì cũng không có nghĩa là tất cả các lớp đều theo VNEN. |
Với mấy cách tiếp cận
dạy và học đã nêu, sẽ không quá đáng nếu cho rằng học sinh tiểu học đang bị đối
xử như “chuột bạch”, nói một cách nghiêm túc, cấp tiểu học đang bị coi là cấp
thử nghiệm các “sáng kiến cải tiến” của đội ngũ nghiên cứu, quản lý giáo dục đủ
mọi cấp, đủ mọi thành phần.
Chương trình giáo dục
phổ thông tổng thể mới ban hành quy định cấp tiểu học có một số môn được xem là
“tích
hợp” như Tự nhiên và xã hội, Lịch sử và địa lý, Tin học và công nghệ, cấp
trung học cơ sở có Khoa học tự nhiên, Lịch sử và địa lý, (Tin học và Công nghệ
tách thành 2 môn riêng).
Cấp trung học phổ
thông thì môn Khoa học Tự nhiên lại tách thành Lý, Hóa, Sinh?
Vậy “tích hợp” có còn
ý nghĩa gì ngoài việc muốn minh chứng, rằng chúng ta đang tích cực đổi mới toàn
diện giáo dục và đào tạo?
Theo một vị có trách
nhiệm, do chưa có “giáo viên tích hợp” nên các môn Tự nhiên và xã hội, Lịch sử
và địa lý, Tin học và công nghệ phần nào riêng thì giáo viên chuyên ngành đó
dạy, phần nào chung thì chọn người “giỏi hơn” dạy?
Vậy là giáo dục Việt
Nam sẽ chứng kiến một câu chuyện không biết nên vui hay buồn, sách giáo khoa
“tích hợp” nhiều khả năng sẽ có trước, thày/cô “tích hợp” còn phải chờ Bộ lên
kế hoạch đào tạo?
Từ cách lý giải đó
liệu có thể kết luận: “Sách
giáo khoa quan trọng hơn thày dạy?”. Cứ có sách cái đã, thày dạy từ
từ sẽ tính? Trước mắt, thày nào đủ “trình” thì dạy phần “tích hợp”, không thì
dạy học phần riêng!
Với cách tuyển chọn
đầu vào cho các trường cao
đẳng sư phạm như hiện nay, cộng với chủ trương Quy
hoạch mạng lưới các trường sư phạm của Bộ Giáo dục và Đào tạo, người
viết cho rằng giải thể hệ thống trường cao đẳng sư phạm sớm ngày nào, tốt
ngày ấy.
Đã là thày/cô giáo (có
thể tạm chưa bao gồm mẫu giáo, nhà trẻ) trình độ chuẩn phải tốt nghiệp đại học.
Tất cả các trường sư phạm phải do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý.
Nghĩa là các trường
địa phương, các trường do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội hiện đang quản lý
cần chuyển về bộ Giáo dục và Đào tạo.
Sẽ có vấn đề về “tự
chủ đại học” với các trường sư phạm, về vấn đề cơ quan chủ quản mà rất nhiều
chuyên gia phê phán.
Một khi đã coi “giáo
dục là quốc sách hàng đầu” thì hệ thống trường sư phạm cần được “bao cấp” hoàn
toàn, từ kinh phí hoạt động đến học phí của sinh viên.
Các trường đào tạo
theo kế hoạch, có địa chỉ tiếp nhận khi giáo sinh ra trường.
Nếu không làm được
việc đó thì “quốc sách hàng đầu” mãi mài vẫn chỉ là khẩu hiệu.Cần phải khẳng
định “thị trường” giáo viên không có biến động mạnh như các thị trường khác,
nhà nước hoàn toàn nắm được thông tin về tỷ lệ tăng trưởng dân số, mật độ và
phân bổ dân cư theo vùng miền từ đó nắm được lượng học sinh các cấp.
Với số liệu tổng điều
tra dân số đã có, không có bất cứ lý do chính đáng nào có thể biện minh cho
việc đào tạo giáo viên tràn lan, lúc thiếu, lúc thừa như hiện nay, càng không
thể xem số lượng khá đông giáo viên không có việc làm là hiện tượng bình thường
trong cơ chế thị trường có định hướng.
Dư luận bức xúc không
sai chuyện giáo viên ra trường muốn làm việc phải tốn khá nhiều tiền “chạy”
(như một lãnh đạo Hà Nội từng nói là hàng trăm triệu) nhưng lại được hưởng mức
lương mà dân gian gọi là “bèo bọt”.
Quân nhân chuyên
nghiệp trình độ sơ cấp hoặc hạ sĩ trong lực lượng vũ trang hệ số lương bậc 1 là
3,2 còn giảng viên đại học trình độ thạc sĩ hệ số lương bậc 1 là 2,54.
Mấy năm trước Báo Điện
tử Giáo dục Việt Nam đã đăng bài viết: “Nghề
dạy học quý như không khí và … nước lã”. [3]
Loài người thiếu không
khí và nước lã chắc chắn sẽ bị diệt vong, không riêng Việt Nam, thế nhưng có
bao nhiêu người thực sự biết trân quý không khí và nước lã?
Trước đây, ông Nguyễn
Thiện Nhân khi còn làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nói đại ý “đào tạo tại chức là nồi cơm của các
trường đại học”.
Ngày nay có ý kiến cho
rằng: “Người ta cố tuyển
bằng được thí sinh (vào trường sư phạm) để các thầy khỏi thất nghiệp”.
[4]
Nếu các nhận định trên
là đúng thì hóa ra nền giáo dục nước nhà lo cho “nồi cơm” của mình hơn là quốc
gia đại sự?
Bộ
trưởng Giáo dục Phùng Xuân Nhạ trấn an dư luận, rằng “cần có cách nhìn bình tĩnh để
những vấn đề đặt ra sẽ được khắc phục tốt hơn…”.
Người viết cho rằng
với các ngành khác (tạm thời) có thể “bình tĩnh”, với ngành Sư phạm thì không.
Người dân và dư luận đã
“bình tĩnh” mấy chục năm nay rồi, từ cái thời “chuột chạy cùng sào” vào những
năm 60 của thế kỷ trước.
Đến hôm nay, hàng trăm
bài báo được đăng tải trên tất cả báo giấy, báo hình, báo điện tử cho thấy lời
khuyên “bình tĩnh” của Bộ trưởng thật khó giúp người dân và truyền thông “bình
tĩnh” thêm được nữa, ngược lại lời khuyên của Bộ trưởng hình như đang đổ thêm
dầu vào lửa.
Tuy nhiên người viết
đồng tình với ý kiến của Bộ trưởng về quy hoạch mạng lưới các trường sư phạm,
đó không phải là chuyện riêng của Bộ Giáo dục và Đào tạo mà liên quan đến nhiều
bộ, ngành, địa phương.
Chính vì liên quan như
thế nên đất nước mới có Hội đồng quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực; Ủy
ban quốc gia Đổi mới giáo dục và đào tạo.
Nếu cả hai cơ quan
được quy định là “quốc gia” đó không giúp được Bộ trưởng thì ai sẽ giúp? Nếu
các cơ quan đó đủ sức mạnh quyết định ở tầm vĩ mô nhưng Bộ trưởng chưa “nhờ”
thì lỗi là của ai?
Hạn hán, lũ lụt, bão
lốc có thể gây nên thiệt hại cục bộ về sinh mạng và tài sản, sự dốt nát trong
giáo dục, đào tạo sẽ làm đất nước tụt hậu về kinh tế, trí tuệ các thế hệ tương
lai bị thui chột, điều này không chỉ ảnh hưởng trong một phạm vi hẹp mà là toàn
quốc.
Yếu kém về văn hóa,
giáo dục dẫn tới yếu kém kinh tế, quốc phòng, hậu quả tất yếu là sẽ bị lệ thuộc
vào nước ngoài, khi đó chủ quyền quốc gia liệu có còn nguyên vẹn?
Vậy nên xin hỏi Bộ
trưởng, chúng ta cần “bình tĩnh” đến khi nào?
Tài liệu
tham khảo:
Xuân
Dương
Nguồn: Theo GDVN