NGUYỄN QUỐC TẤN TRUNG
Ngày 24 tháng 3 năm 1933.
Toà nhà Quốc hội
Đức ngập tràn cờ phướn của đảng Quốc xã. Các nhân viên của đảng Quốc xã súng
ống đầy mình có mặt khắp nơi. Bên ngoài toà nhà, một đám đông quần chúng
đang gào thét. Họ muốn Quốc hội phải thông qua một đạo luật trao quyền lực
tuyệt đối “tạm thời” cho một nhân vật đang lên: Adolf Hitler.
Hơn một năm sau, vào tháng 8 năm 1934,
ông tự xưng là “lãnh tụ” của nước Đức, mở ra một trong những chương đen
tối nhất không chỉ của nước Đức mà còn của cả nhân loại.
Những nhóm phản đối dân chủ hay chí ít
là phê phán, nghi ngờ các chế định dân chủ luôn dùng Adolf Hitler như một ví dụ
kinh điển cho khả năng thất bại và nguy cơ dân túy của những quốc gia dân chủ.
Khi Donald Trump được bầu trở thành Tổng
thống Mỹ thứ 45 hồi năm ngoái, mối lo ngại này càng trở nên sâu sắc hơn. Nhiều
tác giả bi quan cho rằng thể chế cộng hòa và các định chế dân chủ mẫu mực sẽ
không thể cứu họ thoát khỏi thảm hoạ này.
Nhưng liệu đó có là sự thật? Liệu dân
chủ có phải là nguyên nhân khiến Hitler trỗi dậy ở Đức? Bài viết này sẽ phân
tích rõ rằng bằng cách này hay cách khác, dân chủ đã luôn là bức tường chắn
Hitler đến với quyền lực tối cao.
Đêm
trước Phát xít: Tâm thế dân chủ của người Đức thoái trào trước chủ nghĩa cực
đoan và những lời kêu gọi bạo lực
Trước khi Hitler được trao quyền lực
tuyệt đối ở Đức, nền tảng dân chủ thật sự không quá mạnh trước các luồng tư
tưởng cực đoan từ nhiều phía.
Đảng Dân chủ Xã hội Đức (SPD) là một
trong những lực lượng chính trị đáng kể nhất trong lịch sử Đức thời hậu Thế
chiến thứ Nhất. Tuy là một đảng thiên tả và từng gắn các tư tưởng của mình với
chủ nghĩa Marx, họ luôn muốn sử dụng các biện pháp chính trị hợp hiến và dân
chủ.
Vì lý do này, vào năm 1918, sau khi Đế
chế Đức sụp đổ, đảng Dân chủ Xã hội đã từ chối lời kêu gọi thực hiện một cuộc
cách mạng bạo lực của “giai cấp vô sản” để lật đổ “tàn dư” của chế độ cũ, do
các nhóm cực tả Marxist phát động.
Thay vào đó, đảng Dân chủ Xã hội tin
tưởng rằng một cuộc tổng tuyển cử cùng một quốc hội dân bầu mới là cách tốt
nhất để nhìn thấy được nguyện vọng của người dân Đức. Nền cộng hòa Weimar nhờ
đó hình thành với bản chất dân chủ, dân quyền truyền thống. Đảng Dân chủ Xã hội
xem họ là những người sáng lập ra nền cộng hòa, nhưng cũng vì vậy mà họ trở
thành cái gai trong mắt các phe cánh tả Marxist còn lại.
Các nhóm cộng sản (mà lớn mạnh nhất là đảng Cộng sản Đức – KPD) lên án đảng Dân chủ Xã hội là bọn phản quốc, những kẻ chống lại giai cấp vô sản. Họ nhanh chóng trở thành lực lượng đối lập quan trọng của đảng Dân chủ Xã hội.
Hình ảnh một chiến dịch vận động tranh cử trong thời kỳ cộng Hòa Weimar, năm 1924. Ảnh: Alamy. |
Các nhóm cộng sản (mà lớn mạnh nhất là đảng Cộng sản Đức – KPD) lên án đảng Dân chủ Xã hội là bọn phản quốc, những kẻ chống lại giai cấp vô sản. Họ nhanh chóng trở thành lực lượng đối lập quan trọng của đảng Dân chủ Xã hội.
Họ
tuyên bố mình là nhóm đại diện độc quyền của các giá trị Marxist, là giai cấp
tiên phong thật sự của giai cấp vô sản. Trong suốt 14 năm của nền cộng hòa
Weimar, chưa bao giờ những nhóm này từ bỏ tâm thế vũ trang cực đoan. Họ thường
xuyên đưa ra những lời hiệu triệu giai cấp vô sản nổi dậy bằng bạo lực vũ trang
và cáo buộc nền cộng hòa Weimar đã trở thành con rối của giai cấp tư sản. Điều
này cũng làm cho nội bộ của đảng Dân chủ Xã hội phần nào suy yếu.
Trong
khi đó, tư tưởng quốc gia xã hội chủ nghĩa (national socialism – Nazis) được
Hitler phổ biến thông qua chính đảng của mình – đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã
hội Chủ nghĩa (NSDAP, gọi tắt là đảng Quốc xã ).
Tư
tưởng này dần được nhóm cử tri trẻ thuộc thế hệ hậu chiến hấp thụ do họ cảm
thấy xấu hổ với cái cách mà nước Đức bị chèn ép trong Công ước Versailles 1919
về kết thúc Thế chiến thứ Nhất. Sống trong một môi trường dân chủ nhưng cho
rằng chính phủ đương nhiệm đang chấp thuận và tuân thủ một công ước đáng tủi
nhục, thế hệ thanh niên Đức nhanh chóng phủ nhận vai trò của chủ nghĩa nhân đạo
cấp tiến, chủ nghĩa cấp tiến và mô hình cộng hòa. Họ cho rằng chúng đã lỗi thời
và không đủ khả năng cứu rỗi một xã hội Đức mục ruỗng và nhu nhược.
Cả Marxism và Nazism đều gây ấn tượng mạnh với tầng lớp cử tri trẻ nước Đức thời bấy giờ với hình ảnh mới mẻ, lời hứa hẹn một trật tự xã hội tập thể, nơi không có đau thương và nghèo đói, trái ngược với hình ảnh người bóc lột người hay bất công thường được gán cho “bản chất” của nền Cộng hòa Weimar.
Toàn cảnh lễ ký kết Hiệp ước Versailles 1919, một trong những lý do ngoại quan cho khiến Hitler trỗi dậy. Ảnh: Khan Academy. |
Cả Marxism và Nazism đều gây ấn tượng mạnh với tầng lớp cử tri trẻ nước Đức thời bấy giờ với hình ảnh mới mẻ, lời hứa hẹn một trật tự xã hội tập thể, nơi không có đau thương và nghèo đói, trái ngược với hình ảnh người bóc lột người hay bất công thường được gán cho “bản chất” của nền Cộng hòa Weimar.
Trong
cuộc đua song mã đó, Nazism của Hitler vượt trội hơn do đánh trúng tâm lý dân
tộc trong thời điểm ngày càng nhiều người dân Đức bất bình trước áp lực đè nén
của ngoại quốc.
Mặt khác, những lời kêu gọi đấu tranh vũ trang của đảng Cộng sản
Đức dần dà biến môi trường chính trị nước này trở nên bạo lực, tạo điều kiện
phát triển cho các nhóm dân quân bán vũ trang của các đảng phái, bao gồm cả các
tổ chức khét tiếng như Sturmabteilung (SA)
và Schutzstaffel (SS) của đảng Quốc xã.
Có rất
nhiều ví dụ cho kiểu thanh trừng chính trị như xã hội đen xảy ra nhan nhản
trong 14 năm của nền cộng hoà Weimar. Tháng 9 năm 1929, Joseph Goebbels, cánh
tay mặt của Hitler (sau này trở thành Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Đức Quốc xã) và
nhóm vũ trang của mình bị bao vây ở Neukölln, thành trì của đảng Cộng sản, và
hai bên đọ súng như chiến trường. Đến ngày 14 tháng 1 năm 1930, Horst Wessel,
một thủ lĩnh dân quân địa phương có tiếng của SA bị hai thành viên của đảng
Cộng sản ám sát. Năm 1932 thì đến lượt thủ lĩnh Trung ương SA – Axel Schaffeld
bị thủ tiêu.
Hai
chính đảng có xu hướng xã hội chủ nghĩa do vậy mà không thể đội trời chung.
Bối
cảnh bạo lực này tạo ra một tiền đề cực kỳ nguy hiểm: nó giúp biện minh cho các
công cụ bạo lực và khủng bố mà Hitler sẽ sử dụng sau này để đàn áp các đảng
khác và những người chống đối rồi cuối cùng thâu tóm được toàn bộ quyền lực.
Dân chủ ngăn cản Hitler, các đảng phái chính trị làm ngược lại
Một
điểm cần chú ý là, nền dân chủ Đức chưa bao giờ cho đảng Quốc xã của Hitler một
lần nắm đa số ghế trong Quốc hội.
Trong
cuộc bầu cử tháng 5 năm 1928, đảng Quốc xã chỉ giành được 12 ghế, tức 2,6% phiếu
bầu. Thời cơ vàng của các đảng cánh tả bắt đầu vào năm 1929, khi sàn chứng
khoán phố Wall sụp đổ và thời kỳ Đại khủng hoảng bắt đầu. Lúc này, cả đảng Quốc
xã và phe Cộng sản đều giành thắng lợi bầu cử lớn, nhưng tổng số ghế của cả hai
đảng cũng chỉ đạt gần 40%.
Tuy vậy, điều này đủ để buộc các đảng trung lập phải đối thoại
với phe phản dân chủ nếu muốn hình thành chính quyền. Đáng tiếc thay, theo sử
gia Anh Quốc Alan
Bullock ghi nhận lại, đảng Cộng sản tuyên bố công khai rằng, họ
thà nhìn thấy đảng Quốc xã cầm quyền còn hơn là nhấc một móng tay lên để cứu
rỗi nền cộng hòa của giai cấp tư sản.
Không
quá thành công trong việc tìm phiếu bầu bằng con đường chính thống, phe Quốc xã
bắt đầu chuyển sang sử dụng công cụ của người anh em cùng cha khác mẹ (đảng
Cộng sản) – khủng bố và bạo lực nhân danh chính nghĩa.
Các nhóm “quần chúng nhân dân bất bình” và “chiến sĩ công lý xã hội”,
mà thật ra phần nhiều là thành viên SA, bắt đầu diễu hành trên phố, phá rối các
cuộc diễn thuyết của các chính trị gia đối lập, ngăn cản các đảng phái chính
trị khác họp mặt và khủng bố tinh thần người bất đồng chính kiến nếu cần thiết.
Việc
đảng Cộng sản sử dụng vũ lực nhằm vào các mục tiêu của Quốc xã có vẻ chỉ khiến
vấn đề càng thêm trầm trọng, khi bộ phận tuyên truyền dưới trướng Hitler thành
công trong việc sử dụng cái chết của những thành viên này để tìm kiếm cảm tình
viên mới. Phe chống đối Hitler nhanh chóng được mô tả là những kẻ bạo lực và
phản động.
Năm
1932, các chiến dịch của đảng Quốc xã tỏ ra hiệu quả. Trong cuộc bầu cử vào
tháng 6, họ chính thức trở thành chính đảng có nhiều phiếu nhất với gần 14
triệu phiếu bầu (37.3%), nắm giữ 230 ghế trên tổng số 608 ghế, tức đảng phái có
quyền bổ nhiệm người cho ghế Chủ tịch Quốc hội.
Ngay
sau đó, Hitler ra yêu sách đòi ghế Thủ Tướng Đức (Chancellorship) nhưng chỉ
được đề nghị ghế phó. Hitler lập tức từ chối và bắt đầu tung ra các chiến dịch
mới với kỳ vọng có thể tìm thêm phiếu bầu để tự mình thành lập chính phủ trong
kỳ tuyển cử sau đó.
Việc
đảng Quốc xã bắt đầu đầu nắm giữ quyền lực nhà nước, dù chỉ ở một mức độ nhất
định, giúp họ thuận lợi hơn trong các chiến dịch thanh trừng của mình.
Đảng
Cộng sản Đức, với “thành tựu” bạo lực vũ trang xuất sắc, nhanh chóng bị đặt ra
ngoài vòng pháp luật. Đảng Dân chủ Xã hội phải đối chọi với các công cụ truyền
thông nhà nước độc quyền mạnh mẽ mà Quốc xã được trang bị (bao gồm cả sóng
truyền thanh vừa xuất hiện).
Tuy
nhiên, điều này vẫn không đủ tạo ra thẩm quyền tuyệt đối mà Hitler mơ ước. Thậm
chí, với những công cụ nhà nước có trong tay, ông vẫn không thể thành lập được
một chính phủ đa số trên tinh thần dân chủ sau cuộc bầu cử tháng 3 năm 1933.
Không
những thế, đảng Quốc xã thậm chí còn mất phiếu bầu và chỉ còn được 33% số phiếu.
Đảng Dân Chủ Xã hội giữ lại gần như toàn bộ cử tri ủng hộ của mình trước đó với
7,2 triệu phiếu (18%). Đảng Center có 5,5 triệu phiếu (14%) và đảng Cộng sản,
dù bị xem là hoạt động bất hợp pháp, vẫn có 4,8 triệu phiếu (12%).
Gần thời điểm này, Quốc tế III (The Communist International –
hay còn gọi là Comintern) chính thức lên án mọi đảng phái cánh tả trung lập
là social facists, đảng Cộng sản vì vậy cương quyết
từ chối hợp tác với đảng Dân chủ Xã hội để thành lập liên minh chính trị chống
lại đảng Quốc xã.
Nhận thấy các đảng phái chính trị đối lập rời rạc, không thống nhất và ngày càng cực đoan, trong khi bản thân cũng quá thất vọng với các công cụ dân chủ, Hitler chơi bài ngửa.
Hitler phát biểu trong tòa nhà Quốc hội yêu cầu thông qua Enabling Act năm 1933. Ảnh: Worldfuturefund |
Nhận thấy các đảng phái chính trị đối lập rời rạc, không thống nhất và ngày càng cực đoan, trong khi bản thân cũng quá thất vọng với các công cụ dân chủ, Hitler chơi bài ngửa.
Ngày
24 tháng 3 năm 1933, Hitler triệu tập Quốc hội để thông qua Enabling Act – một
đạo luật trao cho ông quyền lực độc tài “tạm thời”, với khả năng quyết định và
hành động không cần Quốc hội và không quan tâm giới hạn bảo hiến để giải quyết
khủng hoảng kinh tế – chính trị trong xã hội Đức hiện tại.
Cờ
phướn phát xít tràn ngập tòa nhà Quốc hội. Các thành viên quân sự của đảng Quốc
xã có vũ trang đứng chực chờ trong khán phòng và đám đông “quần chúng nhân dân
bất bình” bao vây Quốc hội. Hầu hết các chính đảng trong Quốc hội im lặng trước
Hitler và lên tiếng ủng hộ đạo luật.
Enabling
Act được thông qua với 441 phiếu thuận và 91 phiếu chống, Hitler chính thức có
quyền lực mới, với vòi bạch tuộc kiểm soát các dịch vụ công cộng, chính phủ
bang, quyền kiểm soát đời sống kinh tế và chính trị Đức.
Ngay
cả đến nước này, đảng Dân chủ Xã hội vẫn luôn tự an ủi rằng Hitler sẽ không làm
gì gây hại đến nền cộng hòa vì họ được bố thí cho quyền tiếp tục giữ ghế trong
Quốc hội.
Các
đại sứ nước ngoài trấn an rằng Hitler chỉ là phiên bản lỗi của Benito Mussolini
ở Ý.
Paul
von Hindenburg, tượng đài chính trị của nước Đức, người nhiều lần đánh bại
Hitler trong các cuộc bầu cử thủ tướng, không hề chỉ trích hay kêu gọi người
dân phản đối chính quyền mới.
Kurt
Schumacher, một chính trị gia có uy tín, cho rằng người dân Đức không cần phải
lo lắng, rằng Hitler chỉ là con rối của chính quyền mà thôi.
Nhờ
không khí thanh bình im lặng này, không lâu sau, người Đức đánh rơi chính phủ
của mình vào tay đảng Quốc xã. Toàn bộ các thể chế của nền cộng hoà dần dần bị
Hitler đàn áp và xoá xổ.
Tháng 8 năm 1934, Thủ tướng Adolf Hitler chính thức tự xưng là
Fuhrer (lãnh tụ). Quân đội Đức thề trung thành độc nhất với Tổng tư lệnh mới.
Những cơ quan nội các cuối cùng của nền cộng hòa Weimar bị Hitler giải thể. Đệ tam Đế chế (Third Reich) của Hitler
ra đời.
***
Con đường đưa Hitler trở thành người nắm
quyền lực tối cao của nước Đức chưa bao giờ là câu chuyện của dân chủ. Những
người tốt im lặng và những công cụ bạo lực nhân danh chính nghĩa mới thật sự là
thứ khiến cho lịch sử nước Đức bước vào thời kỳ đen tối này dưới lá cờ của chủ
nghĩa phát xít. Dân chủ đã làm hết sức mình, nó chưa bao giờ có lỗi.
Tài liệu tham khảo:
·
Alan Bullock (1991)
[1962]. Hitler: A Study in Tyranny. New York; London: Harper
Perennial.
·
Lewis J. Edinger,
German Social Democracy and Hitler’s “National Revolution” of 1933: A Study
inDemocratic Leadership; World Politics, Vol. 5, No. 3
·
Philip W. Bennett
(2010) Wilhelm Reich’s Early Writings on Work Democracy: A Theoretical Basis
for Challenging Fascism Then and Now, Capitalism Nature Socialism.