(Truyện
ngắn của Đặng Xuân Xuyến)
*
"Thời buổi này, có quan nào tử tế, nhân
nghĩa mà leo cao, tiến nhanh như diều gặp gió đâu? Chỉ bọn cơ hội, đểu giả mới
leo nhanh, leo cao, mới cần bọn người như tớ hầu hạ, tung hô chứ mấy ông quan
chính trực, liêm khiết chả đá đít bọn tớ từ xa... Với lại, những quan chính
trực, liêm khiết giờ hiếm lắm, lạc lõng lắm, là của hiếm, của độc... "
Về làm hàng xóm với nhau từ năm
1998, cũng ngót ngét 20 năm. Gặp nhau vẫn tươi cười chào hỏi, đẩy đưa mấy câu
thân tình chẳng động chạm tới ai, kiểu con gà nhà em sáng nay bị cúm, con lợn
nhà anh tối qua biếng ăn... Đôi khi hứng chí còn đấm lưng nhau thùm thụp, rồi
nắc nẻ cười, có lúc bá vai nhau, mời nhau chén trà, điếu thuốc, chú chú anh anh
ầm ĩ cả góc phố. Ấy vậy mà anh tên gì, bao nhiêu tuổi, nhà số bao nhiêu lão
cũng chịu. Không phải lão ra vành ra vẻ, vì lão chả có gì để lên mặt ta đây.
Lão không biết tên tuổi của anh, số nhà của anh chỉ vì bản tính của lão vốn
ngại giao tiếp, lại thêm trí nhớ có vấn đề, cứ nhớ nhớ quên quên nên càng ngại
quan tâm lý lịch của người hàng xóm. Lão sợ chuyện ông A “muốn yêu vợ” nhưng bị
vợ “cấm vận”, lâu ngày, quá bí bách nên đêm đến lẩn ra đường Giải Phóng tìm mấy
em có thói quen “tạo dáng bên gốc cây” để “tâm sự” cho “thoáng trên thông dưới”
nhầm thành chuyện ông A “cấm vận” vợ khiến bà vợ bứt rứt phải nhảy sang nhà
hàng xóm, thách ông hàng xóm “có giỏi thì đọ vòng eo” xem eo ai nhỏ hơn... Nếu thế
thì thành to chuyện. Loạn phố Nguyễn Văn Trỗi. Lão chỉ có mỗi một cái đầu, chả
dại.
Cũng có lần, lão nảy ra sáng
kiến, mua cuốn sổ nhỏ nhỏ, đút vừa túi quần rồi tiện gì ghi nấy, làm cuốn cẩm
nang tra cứu khi cần thiết nhưng rồi thấy như thế thì bất tiện nên thôi, phó
mặc cho bộ nhớ có vấn đề của lão. Với lại, biết ghi chú thế nào khi ví dụ, anh
(nhân vật chính, lão sẽ hầu chuyện mọi người) quá nhiều điểm giống mọi người
mặc dù anh cũng rất nhiều điểm chẳng thèm giống thiên hạ. Chẳng hạn, cao mét 65
thì phố Nguyễn Văn Trỗi đếm vội cũng vài nghìn nhân mạng. Khuôn mặt rúm ró, dài
thượt khi bị vợ quát, nét đặc trưng của khuôn mẫu đàn ông “biết điều với vợ”
thì phố Nguyễn Văn Trỗi không vài nghìn ông cũng tròm trèm trên dưới hai hay
ba, hoặc bốn nghìn nhân mạng. Nhưng nhất định, giữa vài nghìn đấng nam nhi
tưởng chừng có rất nhiều nét hao hao giống nhau ấy chẳng cần nhìn kỹ cũng biết
đấy là vài nghìn con người riêng biệt. Như thế, biết ghi thế nào để phân biệt
anh với người khác?! Thế nên, lão quyết định cứ căn cứ vào ấn tượng ban đầu về
người đó mà đặt tên, ví dụ như anh, đường ăn nết ở thuộc diện “lễ phép, biết
nghe lời vợ” nên gọi anh là chàng lùn nể vợ, cho khỏi lẫn với mọi người.
* *
*
Lão nhớ, hôm ấy, hình như là lão
về nhập cư ở phố Nguyễn Văn Trỗi được chừng hai hoặc ba tháng. Lão ra quán nước
đầu ngõ uống trà, để nghe ngóng tình hình khu phố mới giống và khác gì với khu
phố cũ lão ở nên săm soi mọi chuyện khá kỹ. Hôm ấy, lão thấy anh diện lắm. Đầu
vuốt keo láng bóng. Mặc quần sooc kẻ, áo phông màu mỡ gà, thắt cái nơ màu tím,
trông hơi ẻo ẻo nhưng cũng bắt mắt, khá bảnh. Mỗi tội, lẽ ra quần ấy, áo ấy,
đầu ấy... anh đừng thọc chân vào đôi giày đã toác mõm, thì hay. Đã thế, anh lại
đem đôi chân có phần cò hương, ống sậy, cắm vào hai chiếc tất sợi trắng đã ngả
màu, loang loang lổ lổ, roãng ra, tụt xuống tận cổ bàn chân... nên trông có
phần tức mắt.
Lúc đấy, khi thấy lão vào quán,
kéo ghế ngồi xuống, anh nheo nheo mắt nhìn, kiểu dân đàn anh đàn chị quen nhìn
người khác bằng nửa con mắt dưới, rồi anh hơi nghiêng nghiêng mặt, tạo dáng
kiểu “lửng lơ con cá cờ” của những chàng hotboy, trai đẹp đã quá tuổi được gọi
là trai trẻ nhưng cố tạo dáng cho ra vẻ còn trẻ đẹp để lòe đời... Tóm lại, anh
có cách tạo ấn tượng rất đặc biệt với thiên hạ. Mới về nhập cư, tuổi còn trẻ,
chưa vợ nên lão thấy cách anh “tạo hình” cũng hay hay, lạ lạ, cũng có chút gì
đó của chất nghệ nên tuy hơi buồn cười về gu thẩm mỹ có phần tạp nham, hổ lốn
của anh nhưng lão cũng khoai khoái, muốn được làm quen, kết bạn. Thế nên, lão
cố bắt chước anh để gây ấn tượng, ăn điểm. Lão cũng nghiêng nghiêng người, ngồi
chân co, chân duỗi, tay cầm điếu thuốc, miệng nhả khói chữ o, mắt lim dim chữ a
như đang mơ màng, lãng mạn kiểu chất chơi của trai thành thị. Lão cố làm cho
thật tự nhiên, thật điệu nghệ... nhưng có lẽ, trông chẳng giống ai, buồn cười
quá nên anh kéo ghế sát lão, vỗ vai, hỏi:
- Mới về sống ở đây hả? Chưa vợ
à? Dân ngoại tỉnh mới về Hà Nội đúng không? Biết ngay mà. Gu thẩm mỹ dở hơi,
cám hấp!
Lão hì hì cười, thật bả lả, cố tỏ
ra là thằng xu nịnh, biết thân biết phận:
- Dạ! Em chào anh. Em còn ngu ngơ
lắm. Rất mong nhận được sự chỉ giáo của anh!
Ngả đầu ra phía sau, rồi đưa tay
vuốt vuốt mái tóc xịt keo láng bóng, anh nheo mắt, phán:
- Trai quê xịn hả? Đần thối mặt
ra. Nhưng mà có vẻ thật thà. Chơi được.
Anh kéo dài tiếng “chơi được”,
nghe lanh lảnh mà lạnh làm lão sợ sợ. Tuy vậy, lão vẫn cố cười thật tươi, xoa
xoa tay, êm giọng:
- Anh giỏi thế. Mới gặp em lần
đầu đã biết em là trai quê xịn. Bái phục!
Anh mân mê chiếc cằm nhẵn thín,
bói cả ngày cũng không kiếm được cọng râu, mủm mỉm:
- Chuyện! Thế mới nói dân nhà quê
có đeo mác thành phố thì vẫn hiển hiện chất quê một cục, vì lố.
Rồi anh giảng tràng giang về tố
chất trai Hà Nội thế nào? Khác trai quê căn bản ở những điểm nào? Anh chốt,
trai quê có cố bắt chước cũng không thể giống được trai Hà Nội xịn... nên đừng
có học đòi mà thiên hạ chửi cho là “đã ngu lại còn cố tỏ ra nguy hiểm”. Tóm
lại, anh nói nhiều lắm. Lão chăm chú nghe nhưng không thể nhớ hơn được vì dù đã
rất cố gắng cũng không thể hiểu anh nói gì. Chỉ loáng thoáng câu anh phân trần
rằng, cũng lâu rồi anh không về thăm quê Thái Bình, làm lão suýt buột miệng
khoe: “Bà nội em cũng gốc gác, quê ở Thái Bình.” sẽ bị anh nghiêm mặt mắng là
nhiễm nặng thói dân quê, “thấy người sang bắt quàng làm họ” thì ngượng chết.
May. Lúc lão định khoe có tý chút đồng hương Thái Bình thì anh cao giọng khảng
khái, từ bữa cố kỳ chân thật sạch ở cầu ao đầu làng, quyết trả lại hết chất
Thái Bình cho đất quê để lên Hà Nội sống thì ngay từ hôm đó anh không còn là
thằng con trai nhà quê nữa, mà hiển nhiên anh đã là trai thành phố rồi nên lão
nín lặng, lảng nhanh sang chuyện khác.
Đang khoan khoái đổ người ngả vào
lão, kiểu rất thân mật của con trai thành thị với nhau, cách như anh nói: Một
tay quàng hờ qua eo lão, một tay vân vê điếu thuốc lá, một chân co lên, thúc
thúc vào đùi lão, còn chân kia choãi ra, xoay xoay gót chân theo “bản nhạc”
đang ư ử phát ra từ khoang miệng... anh đứng phắt dậy, khi nghe thấy giọng khàn
khàn kéo dài:
- Này... Lại ra quán đàn đúm nữa
cơ đấy.
Anh đứng hơi thẳng người, gần
giống kiểu học sinh chào cờ đầu tuần, rồi giẫm giẫm vào chân lão, trả lời rất
nhanh, hệt trẻ lớp 3 trả bài cô giáo:
- Đâu có. Chú này mới chuyển về
khu phố nhà mình, muốn kết bạn với anh nên mời anh chén nước, điếu thuốc, nhỉ?
Thấy lão ngơ ngác, chưa hiểu, anh
giẫm giẫm tiếp lên chân rõ đau, rồi gằn tiếng một:
- Chén nước, điếu thuốc... nãy là
chú mời anh để kết bạn, nhỉ?
“Ồ. Tưởng gì? Thì ra là vậy. Sợ
vợ đến suýt đái cả ra quần. Bố khỉ!”
Lão cố nhịn cười, cố thật thà lễ
phép:
- Vâng! Chén nước nãy. Và điếu
thuốc nãy là em mời anh đấy ạ.
Anh nhấm nhẳng, ra chiều ấm ức
lắm:
- Thấy chưa. Bảo mà. Có bao giờ
đàn đúm, hoang phí đâu. Sao chả chịu tin.
Thấy anh đứng co ro rúm ró, tội
quá, định đỡ lời nhưng nhìn sang bên kia đường, thấy chị đang rung đùi, vắt vẻo
ngồi trên xe máy, gật gù, gật gù cái đầu, rồi dài giọng: - “Có thật không?”,
thì lão choáng, cuống lên:
- Dạ!... Không ... Không ạ!
Biết là hớ, vội tìm cách chữa
cháy để cứu anh nhưng chưa kịp thì anh đã xô lão ngã, chỉ mặt, chửi:
- Mẹ mày! Thằng đểu! Hèn! Đéo
thèm chơi với mày nữa! Hãm!
* *
*
Thế rồi gặp nhau, chả thèm chào
lại, anh còn bĩu môi khi lão chủ động làm lành. Cứ mỗi bận thấy lão vào quán là
anh vội đứng dậy, phủi đít, nguây nguẩy bước đi, ra chừng khinh và ghét lão
lắm.
Một bận, hiếm hoi lắm mới thấy
anh có bạn ngồi cùng bàn rượu. Thực lòng, cũng muốn tránh mặt anh nhưng chị chủ
quán cứ ời ời gọi nên lão đành tặc lưỡi bước vào. Quán đông khách, còn mỗi ghế
trống cạnh bàn anh nên lão không thể không nhìn anh, không thể không gật đầu
chào xã giao với anh cho phải phép. Thế nhưng anh chỉ liếc xéo một cái, rồi
vênh mặt, hiếng mắt ra đường, bĩu môi rõ dài, chừng như muốn “chửi đổng” vào
mặt lão: - Eo ôi! Tởm!....
Kệ. Lão thủng thẳng ngồi xuống và
gọi đồ nhậu. Vừa nâng ly rượu lên môi, chưa kịp hít hà hơi rượu theo thói quen
thưởng rượu của lão thì anh ngó sang, bĩu môi, khinh khỉnh:
- Kệch cỡm! Chả giống ai! Tởm!
Lão buồn cười, làm rơi chén rượu
xuống bàn, bắn tung tóe rượu vào người bạn của anh. Chưa kịp nói câu xin lỗi
thì lão nghe tiếng reo:
- Ô anh Thi! Đang mong gặp anh
thì lại gặp ở đây. Anh thiêng thế!
Lão và Dân, bạn cùng bàn với anh,
hồ hởi bắt tay nhau. Anh rụt rè, nhìn Dân, hỏi:
- Quen à?
Dân cười:
- Không phải quen mà là thân, rất
thân của Dân đấy.
Anh ngoảnh mặt đi, vẻ không
thích:
- Thế à? Sao chả nói trước.
Thấy Dân và lão tay bắt mặt mừng,
hoan hoan hỉ hỉ, anh tỏ không vui. Rót chén rượu. Ực một hơi, hết luôn chén
rượu, rồi anh ngoảnh mặt ra đường, hai tay chống đầu gối, mắt nhìn xa xa, ý
chừng như muốn đuổi lão về bàn.
Không để ý thái độ của anh, Dân
kéo lão ngồi xuống, liến thoắng:
- Thấy Quân bảo anh đã mua được
nhà rồi, Dân mừng cho anh lắm. Chuyện anh với chị Phượng thế nào? Không thể
quay lại với nhau được à? Uầy... Khi còn nghèo khó, sao người ta dễ yêu nhau,
dễ thông cảm cho nhau? Vậy mà... khi đã có chút thành quả, người ta lại quay ra
dò xét nhau, nghi ngờ nhau, khó thông cảm cho nhau.... Lạ nhỉ?
Anh cau có, gắt:
- Dân! Sao mày cứ thích bao đồng
chuyện của người khác như thế! Có uống rượu nữa không, hay là về?
Dân nhìn lão, nháy mắt, cười:
- Về sao được anh Thi nhỉ! Lâu
rồi Dân mới gặp anh Thi. Phải say mới được về chứ, anh nhỉ?
Biết tính anh, lão bảo:
- Cứ thoải mái đi anh. Bữa nay để
em chi.
Anh gặng:
- Thật không? Hay lại như bữa
trước?
Lão cười:
- Thật. Anh cứ thoải mái đi. Bữa
này em chi.
Anh nhìn lão, nhìn Dân, rồi lại
nhìn lão, ánh mắt lạ lắm, cứ như cú mèo săm soi con mồi vậy. Chừng như hiểu
thắc mắc ở lão, Dân ghé tai, nói nhỏ:
- Anh ấy không thích ai quý mến
Dân, tử tế với Dân.. nên mới thế, anh ạ!
Lão thắc mắc:
- Sao oái oăm thế?
Dân thì thào:
- Tại mấy thằng bạn du thử du
thực và mụ vợ quái thai nửa đực nửa cái của anh ấy... Thôi. Để khi khác Dân kể.
Dài dòng lắm. Anh ấy nghe thấy là rách việc cho Dân lắm đấy.
Thấy Dân thì thào vào tai lão,
anh hất hàm hỏi: - “Này, thằng bạn của Dân! Có phải thằng Dân nói xấu
vợ chồng anh không?”. Rồi chẳng cần nghe lão trả lời, anh nhoài người
lấy thực đơn, gọi la liệt rượu và đồ nhắm.
Chừng tiếng sau. Anh vươn vai,
vuốt bụng, rồi hắng giọng:
- No rồi... Nhưng mà... Ê chủ
quán! Cho thêm chai rượu và vài món lạ lạ nữa đi. Chả mấy khi được nhậu với tâm
trạng thoải mái thế này.
Dân lẩm bẩm:
- Ông này lạ thật. Lúc đầu bảo
anh không uống được rượu, chỉ nhâm nhi với chú một hai chén cho vui anh vui em
thôi... Vậy mà giờ như lột xác, hùng hục ăn, hùng hục uống. Cứ như là đi ăn
khoán, uống khoán vậy.
Anh rướn mắt, nhìn Dân, rồi hất
hàm sang phía lão:
- Lúc đầu tưởng phải chi tiền nên
anh nói thế nhưng thằng kia nó vừa nhận trách nhiệm sẽ chi tiền bữa nhậu này,
dại gì anh không ăn không uống... Mẹ kiếp! Cho nó tốn tiền, hết sĩ!
Dân làu bàu:
- Ngồi giao lưu với nhau cho vui,
cho tình cảm. Sao phải khổ sở thế anh!
Cầm chén rượu, anh gạt Dân, bắt
lão cụng ly:
- Này! Thằng bạn của Dân kia! Mày
có dám 100% với anh chén nữa không? Sợ à? Nhìn anh mày mà học.
Anh ngửa cổ, ực cái hết chén
rượu.
Chưa kịp đặt chén xuống bàn, anh
ngã uỵch cái xuống đất, rồi nôn thốc nôn tháo, mặt mũi anh be bét “sản phẩm hổ
lốn” của bữa nhậu...
Dân cuống quýt lau chùi mặt mũi
cho anh, rồi quay sang phân trần với lão:
- Anh ấy là anh con bác ruột của
Dân dưới quê. Xưa tốt tính lắm nhưng từ ngày giao du với mấy thằng du thử du
thực, bị mê hoặc thế nào mà đổi tâm tính, về đòi từ cha mẹ tổ tông, rồi bỏ lên
thành phố ăn ở với mụ vợ quái thai nửa đực nửa cái nên mới ra nông nỗi này...
Xấu hổ quá! Anh thông cảm nhé.
Lão không nói gì. Cúi
xuống, cùng Dân vực anh đứng dậy, dìu anh về nhà. Thỉnh thoảng, lại thấy anh
cười khẩy, rồi nhếch miệng, lảm nhảm: - Chết chưa! Cho mày hết sĩ!Làm
lão giật mình: Không biết anh giả say hay say thật?
* *
*
Sau trận rượu ấy, anh và lão có
vẻ thân nhau hơn nhưng lạ là chưa bao giờ anh mời lão vào nhà. Lão cũng thế.
Chưa một lần có ý định để anh biết nhà biết cửa. Gặp nhau ngoài đường, gật đầu
chào nhau rồi đường ai nấy đi, hiếm hoi lắm mới dừng lại hỏi han nhau vài câu
xã giao này nọ.
Một bận, anh hỏi, lâu rồi sao
không thấy Dân đến chơi? Lão thật thà trả lời chắc Dân bận kiếm sống nên không
có thời gian thăm bạn bè. Ruộng không còn, nghề không có, mà tiền ăn tiền học
của con cái với trăm thứ “phí” ngày một tăng, thật khó xoay xở …. Anh lắc đầu,
nhún vai, rồi bĩu môi, không rõ biểu cảm đó là vui hay buồn, là vì chuyện của
Dân hay vì thói quen anh làm vậy.
Rồi anh chèo kéo bằng được lão
vào quán, gọi cút rượu, đĩa đậu luộc, khẩn khoản mời lão nâng chén. Nhấp chén
rượu, anh khề khà, thấp giọng:
- Thấy Dân bảo cậu xem bói tay
chuẩn lắm nên nhờ cậu xem giúp ngôi mộ nào hợp với tớ để tớ lo chuyện hương
khói, kêu cầu cho đúng quy trình, phép tắc. Dạo này nhà tớ nhiều chuyện quá.
Lão suýt phì cười vì thái độ
nghiêm túc, lạ lẫm với tính cách bặm trợn thường ngày của anh nên vội trả lời:
- Dân nói đùa đấy. Em biết gì đâu
mà xem.
Anh bĩu môi:
- Gớm. Dân bảo cậu chỉ xem mồ mả
đất cát khi đã có men rượu và xem khá chính xác nên tớ mới mời cậu uống rượu…
Nhà người ta gặp chuyện, mới nhờ. Hàng xóm láng giềng với nhau, cứ làm bộ làm
tịch... Chán.
Thấy điệu bộ giận dỗi của anh,
lão đành thật mà giãi bày:
- Nói thật là em chỉ xem được đất
cát mồ mả khi rượu đã phê phê và khi có hứng chứ rượu chưa phê, không có hứng
thì em chịu...
Anh vội cướp lời:
- Thế uống mấy chén nữa thì
cậu sẽ phê? Dân nó bảo cậu uống rượu ghê lắm, những gần nửa lít mới xỉn… mà đi
hết gần nửa lít rượu phải kèm thêm nhiều đồ nhậu lắm. - Rồi anh thấp giọng, nửa
như tự nói với mình, nửa như cằn nhằn đủ để lão nghe - Người đã béo, ăn đéo gì
lắm thế. Tốn mồi!
Như chợt nhớ ra điều gì, anh dồn
dập:
- Này! Thế làm thế nào để cậu có
hứng? Ở đây làm gì có em út? Mà ... Cậu có thể tưởng tượng ra chuyện gì đấy để
tạo cảm hứng được không? Chứ ... Tôi thế này mà đi tìm gái cho cậu... Ngại
chết!
Thấy lão cứ nhìn anh tủm tỉm
cười, anh đỏ mặt, cuống quýt:
- Sao cứ cười thế? Cậu nói đi,
làm thế nào để cậu có hứng? Tớ nghe các cụ bảo, trăm thằng đàn ông nói năng nhỏ
nhẻ, khuôn mặt lại mềm mại như con gái thì đến 99 thằng là loại dâm ngầm và đểu
giả... Nhưng cậu không giống thế. Nói chuyện cứ ông ổng ông ổng, mặt thì toàn
thịt là thịt thì chỉ có thể là đểu vì ngu chứ dâm làm sao được. Chẳng lẽ...?
Thảo nào... Dân nó bảo trông cậu thế thôi nhưng ghê lắm, không vừa đâu... Mà
này... Sao cậu không cạn chén đi? Từ nãy đến giờ, vẫn chưa hết chén rượu thì
đến bao giờ cậu mới phê? Hay vì mồi không đủ nhiều? Để tớ gọi thêm đĩa đậu lướt
ván nữa nhé? Thời buổi này, thịt cá nhiều sợ lắm, thuốc tăng trọng ăn vào chỉ
tổ rước bệnh. Dính ung thư như bỡn. Thôi, ta cứ rau với đậu cho nó lành, cậu
Thi nhỉ?!
Rồi anh rót rượu.
Rồi anh e hèm, hắng giọng, trịnh
trọng gọi thêm đĩa đậu lướt ván.
Rồi khi đĩa đậu lướt ván vừa được
đặt xuống bàn, anh nhổm người, gắp một miếng, chấm vào bát mắm tôm, bỏ tọt
miếng đậu vào miệng, lim dim mắt, nhai từ từ, từ từ...
Rồi anh duỗi duỗi đôi chân, căng
bộ mặt rất chi là khoan khoái, hất hàm giục lão:
- Nhâm nhi đi cậu. Món này vừa
mát vừa bổ, lại vừa an toàn, không lo bệnh tật... Kể cũng lạ! Người như cậu mà
lại chơi thân được với thằng Dân nhà tớ. Thằng ấy nghèo là bởi nó thật, thật
đến ngu tối. Mà cũng cả tin lắm. Người như nó rất dễ bị lừa. May nó là con trai
chứ là con gái thì tháng vài bận phải đến bệnh viện phá thai là cái chắc.… Đã
nghèo lại còn sĩ, còn cố cổ súy lối sống đạo đức, thanh cao. Tớ bảo nó bao lần
rồi, thời buổi này mà tử tế chỉ có nước chết đói. Ngu lắm! Tưởng học cao, nhiều
chữ đã là giỏi, là nhìn xa trông rộng. Tưởng đạo đức, tử tế là sẽ được trọng
vọng. Xàm! Hãm! Cậu thấy đấy, các quan bây giờ, ối quan có cần chữ đếch đâu,
cũng “giật gấu vá vai” từng chữ nhưng mặt quan nào quan nấy bóng nhẫy những chữ
là chữ, mở khẩu hình ra là nhả chữ xối xả. Mà các ngài đếch thèm chuộng chữ
latinh đâu, toàn là chữ tượng xế, tượng hộp... nghe méo mặt mà dân bố cu đếch
hiểu các ngài nói gì vì chữ nghĩa các ngài dùng đâu để bọn dân đen các cậu
hiểu, thế thì cá mè một lứa à? loạn xã hội mất?. Hôm nọ, tớ mới khai quật được
một quan anh cũng kha khá, mặt mũi cũng những thịt là thịt, cũng hao hao như
mặt cậu, nhưng mặt quan toàn thịt thớ ngang nên trông bự lắm, phốp pháp lắm.
Cái mặt mà dân có chữ các cậu gọi là loại mặt thịt, quen ngồi xổm lên văn hóa,
đạo đức ý... Quan gọi tớ đến, giao cho mấy việc cỏn con để thử thách, nếu làm
tốt sẽ được thu nạp dưới trướng. Dựa vào quan anh đấy, chắc tớ sẽ kiếm được kha
khá, sẽ bộn tiền, sẽ khiến khối kẻ rỏ dãi vì thèm... Mà cậu có biết những việc
thử thách ấy là việc gì không? Nói kiểu như cậu hay thằng Dân nhà tớ là mấy
việc mất dạy, thất đức, chỉ những thằng đầu trộm đuôi cướp mới dám làm...
Uầy... Các cậu chỉ giỏi nâng cao quan điểm này nọ rồi sĩ diện hão! Thế nào là
mất dạy? thế nào là thất đức? Xin thưa: Đấy cũng chỉ là những khái niệm, những
phạm trù đạo đức do con người đặt ra nên không có khái niệm nào, phạm trù nào
là tuyệt đối đúng với mọi người, là trường tồn, bất biến cả. Phàm những thứ gì
con người đặt ra cũng sẽ do con người thay đổi. Đúng hay sai là do con người,
do ý thức hệ của từng giai đoạn lịch sử. Ví dụ, hôm nay tớ làm sếp, tớ bảo con
lợn nó kêu gâu gâu, con trâu nó kêu cục tác, con vạc nó kêu ủn ỉn... thì cậu sẽ
gật đầu lia lịa, rồi vỗ tay rần rần, thề sống thề chết rằng, đúng là con lợn nó
kêu gâu gâu, con trâu nó kêu cục tác, con vạc nó kêu ủn ỉn và đó là chân lý bất
di bất dịch. Rồi cậu sẽ nhắng nhít tán nhăng tán cuội lên tận trời xanh đấy là
“lời vàng thước ngọc”, là “kim chỉ nam cho các thế hệ noi theo”. Thậm chí, cậu
còn hô hào vợ con, anh em, bè bạn sống và làm việc theo “thánh ca”: Lợn kêu gâu
gâu, trâu kêu cục tác, vạc kêu ủn ỉn... Thế nhưng ngày mai, ngày kia, thằng
khác làm sếp, tớ xuống làm thằng bố cu, cậu sẽ chửi tớ là thằng ăn quàng nói
bậy, còn hò cả tên củ tên cái của ông cha tớ ra mà chửi... Chắc cậu sẽ hỏi sao
văn hóa lùn mà tớ nói bài bản thế? Cứ như là báo cáo viên, tuyên truyền viên
chuyên nghiệp? Những chữ lừa đảo, kiểu “hiếp dâm văn hóa” như thế đều do quan
anh nhét vào mồm tớ chứ tớ biết đếch gì mà nói. Còn quan anh nghĩ ra hay quan
anh thuổng của thằng nào thì tớ đếch biết, cũng không có phận sự phải biết...
Hôm nay tớ mời cậu bữa rượu này để cậu giúp tớ xem ngôi mộ nào hợp với tớ, để
tớ còn kêu cầu xin lộc cho đúng bài bản, đúng quy trình... Nôm na là chạy chọt
cho đúng cửa, được việc mà đỡ tốn kém... Mà này. Dân bảo cậu cũng biết xem cả
tử vi. Cậu xem giúp tớ quan anh mà tớ đang cầu cạnh là loại người thế nào? Đểu
giả, bất nghĩa thì đương nhiên rồi. Thời buổi này, có quan nào tử tế, nhân
nghĩa mà leo cao, tiến nhanh như diều gặp gió đâu? Chỉ bọn cơ hội, đểu giả mới
leo nhanh, leo cao, mới cần bọn người như tớ hầu hạ, tung hô chứ mấy ông quan
chính trực, liêm khiết chả đá đít bọn tớ từ xa... Với lại, những quan chính
trực, liêm khiết giờ hiếm lắm, lạc lõng lắm, là của hiếm, của độc... Nói thật,
những quan thuộc diện quý hiếm ấy, cậu có các vàng, tớ cũng cóc thèm tung hô...
Sao cứ tròn mắt nhìn tớ thế? Cũng chỉ là để biết quan anh đểu cỡ nào mà đề
phòng, chơi lại khi cần đánh bài ngửa để thoát thân... “Quân tử phòng thân,
tiểu nhân phòng bị gậy” mà cậu... Nào. Cậu cầm chén lên. Cạn đi. Mãi không chịu
hết chén rượu thì đến bao giờ cậu mới phê. Tớ nói từ nãy cũng mỏi miệng rồi mà
cậu vẫn chưa chịu cầm tay tớ, mân mê tay tớ để “đọc” cho tớ biết ngôi mộ bà cô
tổ mấy đời hay ngôi mộ nào trong dòng họ nhà tớ hợp với tớ, sẽ phù hộ độ trì
cho tớ để tớ “biết đường mà lội, biết lối mà tránh”.... Đừng như thằng Dân, nói
chả đâu vào đâu, nào là thành kính với tổ tiên vì đạo hiếu, nào là đạo làm
người là phải đàng hoàng, chính trực... nghe mà nổi da gà, phát ớn. Tiền đâu mà
cúng kiếng hàng đống vong mà chả biết có vong nào chịu phù hộ cho tớ không? Tốn
tiền sắm lễ, mỏi mồm khấn vái, lại bị các vị ấy chổng mông vào mặt thì tớ đếch
dại. Cứ phải chắc ăn cái đã. Sắm lễ đã tốn kém, khấn vái đã mỏi mồm, thì công
quả phải có, phải được vong ấy phù hộ độ trì. Thế tớ mới cầu cạnh cậu. Mới tốn
bữa rượu để nhờ cậu tìm cho đúng cửa vong để tớ thắp hương, xin lộc. À mà phê
với hứng thì cái nào cần hơn? Chưa phê mà hứng rồi thì có xem được không? Cũng
chả biết làm thế nào để cậu hứng lên nữa. Khổ! Tớ đã uống mấy chén rượu. Cũng
năn nỉ ỉ ôi cậu đến mỏi mồm mà một chén rượu cậu cũng không chịu uống hết. Lại
cứ nheo mắt nhìn tớ rồi tủm tỉm cười như thằng dở người sắp lên cơn động cỡn.
Chán! Hôm nay ra ngõ dẫm phải cứt!
Nói xong. Lấy tay quyệt môi, chớp
mắt vài cái rồi cúi xuống trân trân nhìn vào chén rượu, anh thẫn mặt, trông
thật tội.
Không đành lòng, lão uống hết
chén rượu, rồi chậm rãi:
- Em chỉ phê rượu khi đang có tâm
trạng, là những lúc em đang vui hoặc lúc đang có tâm sự muốn được giãi bày, chứ
bình thường em chỉ nhâm nhi vài ly xã giao thì phê rượu làm sao được. Còn
chuyện hứng là hứng xem tướng tay chứ không phải hứng chuyện em út... Bệnh tật
đầy mình thế này, gái gú sao được, anh!
Anh nhăn mặt:
- Sao đéo bảo trước. Câu giờ như
thế, làm người ta cứ chờ đợi, hy vọng... Tốn tiền! Mất thời gian! Đúng là...
Đéo dẫm phải cứt mà thành dẫm phải cứt. Đen! Hãm!
Anh phủi đít, đứng dậy, rồi nghĩ
sao lại ngồi xuống, hất hàm hỏi:
- Dân nó bảo cậu chơi thân với
mấy ông thầy tử vi, tướng số, xem cũng chuẩn lắm. Cậu giới thiệu cho tớ vài ông
được không?
Lão chửi thầm: - “Mịa ông! Giới
thiệu để tôi dơ mặt với anh em bạn bè à?” nhưng cố ra vẻ khổ sở, nhăn nhó:
- Tiếc quá anh ạ! Mấy ông anh ấy
lại vừa giải nghệ, về quê hết cả rồi...
Anh chưng hửng, ra chừng thất
vọng:
- Sao phải giải nghệ? Nghề ấy dễ
sống lắm cơ mà? Dân tình đã ngu, lại cả tin, thời buổi thì nhố nhăng... các ông
ấy tha hồ chặt chém... Dở hơi à mà giải nghệ.
Thấy anh đứng dậy, lão vội kéo
anh ngồi xuống, cố ra vẻ khẩn khoản:
- Thì cũng do hoàn cảnh anh ạ...
Anh cứ ngồi xuống, để em từ từ kể anh nghe.
Anh vội gạt tay lão, cau có:
- Mình chuyện của cậu đã làm tớ
bực lắm rồi. Thêm chuyện mấy ông bạn dở hơi của cậu, chắc tớ điên mất. Thôi.
Chuyện của bạn cậu, tớ nghe không hợp. Tớ về.
Rồi anh bước xăm xăm ra khỏi
quán, như cố chạy thật nhanh để khỏi phải thanh toán tiền cút rượu và 2 đĩa
đậu.
Chị Lý, chủ quán, lắc đầu:
- Lại đẩy cho người khác thanh
toán. Bổn cũ soạn lại, dùng mãi mà không chán. May mà thằng này chỉ làm thằng
loong toong, điếu đóm. Nó mà làm quan, khối người sẽ bị hành cho sống dở chết
dở... Mà em giao lưu với hạng người ấy làm gì...
Lão cười, nói với chị mà như tự
trấn an mình:
- Là người hàng xóm láng giềng,
tránh cả đời được sao ...
* *
*
Mới học hết lớp 3 trường làng rồi
bỏ học, lêu lổng theo chúng bạn lên Hà Nội làm đủ trò, đủ nghề, thế mà anh cũng
vơ được mấy mảnh bằng Đại học, nghe đâu còn có cả bằng Thạc sĩ Tâm lý học và
bằng Triết học loại giỏi lận lưng làm vốn liếng để sau này chạy chọt vào cơ cấu
“lãnh đạo”. Hôm trước, lâu rồi, trước bữa anh mời rượu để nhờ lão coi số, anh
gạ lão “làm bằng” Thạc sỹ Triết học chỗ bạn của anh, giá bèo lắm. Lão cười, hỏi
để làm gì? Anh mắng sao hỏi ngu thế, để làm đồ trang sức cho ra dáng là người
học thức uyên bác, rồi làm mớ hành trang mà chạy chức chạy quyền, chứ cứ làm
thằng bố cu thì mãi nghèo mà nhục lắm. Anh còn hỏi trong nhóm bạn bất tài của
lão, có thằng nào “máu” làm quan không, anh có cửa chạy, rẻ lắm. Anh bảo:
- “Học nhiều chỉ tổ ngu! Chữ nhiều làm gì? Chữ có làm no bụng được đéo
đâu! Tiền! Chỉ có tiền mới giải quyết được tiếng òng ọc òng ọc của dạ dày.
Nhưng tiền nhiều mà không có quyền thì cũng nhục lắm, cũng suốt đời phải nâng
bi thằng có chức, phải khúm núm trước thằng có quyền dù thằng có quyền chức ấy
nói những câu ngu bỏ mẹ, còn khắm hơn cả cứt, nên bằng mọi giá phải chạy cho
bằng được một chức quan để “ăn trên ngồi chốc”, để “chỉ mới húng hắng ho một
tiếng cũng làm khối thằng phải tè vội ra quần…”. Anh hỏi lão có biết
Lã Bất Vi là thằng nào không? Lão thật thà bảo đấy là “con buôn”, người xứ Tàu.
Anh bĩu môi rõ dài: - “Thế cũng đòi là dân có ăn có học! Đấy là tổ sư
của nhiều quan “phụ mẫu” nhà ta đấy!”. Ghé vào tai lão, anh nói rất
nhỏ, ý như bí mật, hệ trọng lắm: - Này! Người đàng hoàng tử tế đéo ai
thích làm quan đâu. Tranh thù mà kiếm một ghế khơ khớ để dưỡng già, chú
ạ. Rồi như để thể hiện khí phách của quan phụ mẫu tương lai, anh rướn
mắt, xoa bụng, ư ử như hát: - Chỉ có đầu tư QUYỀN LỰC mới cực lãi, siêu
lãi. Quyền ơi quyền sao mà yêu đến thế!
Vâng! Cũng chính sau vụ mời rượu
nhờ xem bói không thành, anh tuyên bố chẳng thèm chơi với lão nữa, sẽ đoạn
tuyệt quan hệ. Anh còn đe, sau này nếu gặp chuyện gì thì đừng có vác mặt đến
nhờ vả, anh chẳng thèm giúp. Là dân thấp cổ bé họng, bản tính lại nhút nhát,
ngại va chạm, sợ đến chốn công quyền nên lâu nay lão đã rèn được cách sống
khiêm nhường, đúng hơn là kiếp sống an phận đến nhu nhược. Vì thế, lão tin sẽ
chẳng cần đến anh nương nhờ, cũng giống như niềm tin xưa nay lão đã lấy làm kim
chỉ nam: Mày lấn tới thì tao nhịn. Mày lấn tiếp. Tao nhịn tiếp. Hết chỗ để mày
lấn, chắc chắn tao sẽ được yên.
Sáng nay, gặp chị Lý ở đầu ngõ
chợ, chị hỏi: - Này, đã biết tin về thằng đấy chưa? Xộ khám cùng thằng Vĩ,
thằng Đại rồi. Tham lắm thì thâm nhiều. Đã theo thằng Đại lại cấu kết với thằng
Vĩ chơi xỏ thằng Đại, định lập công với thằng Vĩ để thằng Vĩ “cơ cấu” cho chút
quyền lực, không ngờ vào phút chót thằng Vĩ quay sang bắt tay với thằng Đại, để
hợp sức đấu lại phe cánh ông Tân, thế là con tốt đen được quẳng ra thí mạng...
Nhưng cũng còn may là thằng Vĩ, thằng Đại sau đó đều bị gãy cánh, chứ không
thì… Thấy cũng tội nghiệp! Nhà đấy bây giờ ủ rũ như có đại tang.
Chưa kịp hỏi thêm vài chuyện cho
rõ sự tình thì chị Lý đã te tái vào chợ.
Chuông điện thoại réo, lão bắt
máy. Giọng Dân buồn buồn phía đầu dây:
- Anh à. Ông đấy bị xộ khám rồi.
Em đang trên đường lên Hà Nội để đưa mấy thằng cháu về quê, sợ để chúng sống
trên đó rồi sẽ hỏng như đời bố chúng nó. Hôm qua, em vào trại, đã thuyết phục
được ông ấy viết đơn li dị bà vợ quái thai nửa đực nửa cái và cam kết tuyệt
giao với mấy thằng bạn du thử du thực để làm lại từ đầu. Ông ấy khóc nhiều lắm.
Ân hận đã cưới cô vợ quái thai, đã mù quáng tin tưởng mấy thằng du thử du thực,
đã ngu muội bám theo mấy thằng lưu manh Vĩ-Đại... Thôi. Muộn nhưng cũng còn
may, anh ạ....
Lão tặc lưỡi: - Ừ. Khổ thân chú!
Giờ lại phải gồng lên để thu dọn bãi chiến trường nặng mùi uế tạp.
Phía đầu dây, Dân thở dài, chua
xót:
- Vâng! Thì em là thằng Dân mà
anh!
*.
Viết xong ngày 13 tháng 06.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN