Nguồn: Theo Blog Nguyễn Xuan Diện
Sau khi rút giàn khoan về, hiện nay,
“P&DOWN”[1] được đề xuất như một giải pháp tổng thể cho tranh chấp trên Biển Đông. Bối cảnh “hậu giàn khoan” là lúc xét lại các nan đề trong từng thành tố của giải pháp, ngoài ý nghĩa thực tiễn còn mang hơi thở từ các sự kiện nóng. Giải pháp này gồm 5 biện pháp: (P) tái thẩm định chất lượng chiến lược trong hệ thống đối tác của Việt Nam; (D) thúc đẩy quá trình dân chủ hóa bên trong Việt Nam; (O) vượt qua rào cản để đi tới bộ Quy tắc COC. Ba mũi giáp công P—D—O càng phát huy tính vượt trội, nếu đặt trên căn bản cuộc “thoát Trung” như sự rũ bỏ “vòng kim cô” ý thức hệ (W). Tư duy minh triết – Wisdom – sẽ hội đủ nội lực để kiến tạo Việt Nam thành “khớp nối mềm” (N), một thực thể địa-chính trị mới sánh vai với các nước trong khu vực.
Sau khi rút giàn khoan về, hiện nay, Trung Qu ốc đang xua hàng vạn
tàu cá có tổ chức chặt chẽ tràn xuống Biển Đông. Đã có khá nhiều kiến nghị được
đưa ra nhằm ứng phó với họa xâm lăng cận kề[2] do sự hung hăng trên
hành động và sự bá quyền trong chính sách bành trướng của Bắc Kinh. Trên tinh
thần chủ nghĩa hiện thực trong nghiên cứu quốc tế, từ lợi ích quốc gia-dân tộc,
“P&DOWN” tìm hướng ra trong từng biện pháp nhằm hướng tới một giải pháp
chung. Đây là cách tích hợp sức mạnh “thông minh” để đối phó với hiểm họa khôn
lường. Nếu mô hình này được áp dụng, hy vọng sẽ góp phần đòi lại hòa bình và
công lý cho Biển Đông[3]. “Sóng gió” trên Biển
Đông đã từng/và sẽ còn gắn với bang giao Việt-Trung và gắn với quan hệ giữa Trung Qu ốc với phần còn lại của
thế giới. Vì vậy, bất cứ giải pháp nào muốn hóa giải rắc rối Việt-Trung, nhất
thiết phải là một bộ phận trong giải pháp của khu vực/thế giới đối với Trung Qu ốc.
Đối với nhiều chiến lược gia khu vực này, bên cạnh hồ sơ
tranh chấp/xung đột, chắc hẳn phải cầm trong tay cuốn “Vạc dầu châu Á: Biển
Đông và sự kết thúc của Thái Bình Dương yên tĩnh”[4]. Cuốn sách là một “hiện
tượng” không chỉ vì tên tuổi Robert Kaplan, mà con do nó được xuất bản đúng vào
thời điểm có sự cố giàn khoan. Phần Biển Đông của “vạc dầu” sẽ tiếp tục sôi, vì
trên thực tế, Trung Qu ốc
đã hoàn thành xong việc xây dựng “căn cứ nổi Gạc Ma” trong thời gian hạ đặt
giàn khoan HD-981 nhằm tạo thế chân vạc cho các căn cứ của họ và cũng là để
“dựng” bộ xương cho “đường lưỡi bò/đường chữ U”. Điều này ta nhận ra hơi muộn,
vì Trung Qu ốc
chơi trò “đánh lận con đen” rằng, đấy là vùng tranh chấp với Việt Nam.
“P&DOWN”, vì vậy, bắt đầu bằng việc thẩm định lại hệ thống đối tác chiến
lược và tiến trình dân chủ ở Việt Nam trong bối cảnh thực địa trên biển đảo đã
bị Trung Qu ốc
thay đổi rất nhanh, đặt mọi chuyện thành sự đã rồi (fait accompli).
1. Đối tác chiến lược và ưu tiên chiến lược
Đầu 2014, Việt Nam ghi nhận đã xác lập được hàng chục quan
hệ “đối tác chiến lược” và “đối tác toàn diện” với các quốc gia khác nhau[5], trong đó có 5 Ủy viên
Thường trực HĐBA/LHQ (P5). Nhưng qua vụ HD-981 có thể thấy khuôn khổ bang giao
với P5 được coi là thành tựu của đường hướng đa dạng/đa phương hóa, đang có vấn
đề. Kẻ trực tiếp vi phạm độc lập, chủ quyền của Việt Nam không ai khác, chính
là “ĐTCL toàn diện” Trung Qu ốc.
Nga là ĐTCL vốn được Việt Nam kỳ vọng, lại giữ lập trường trung lập “lạnh tanh”
và không chống trong trường hợp ấy nghĩa là “thuận” cho Bắc Kinh. Hai ĐTCL còn
lại, Pháp và Anh có ủng hộ đấy, nhưng “núp bóng” EU. Nghịch lý ở chỗ, đối tác
“chưa” chiến lược là Washington có lập trường thế nào thì mọi người đã rõ, dẫu
có nhiều cách lý giải khác nhau.
Tiến trình tiến tới ĐTCL Việt-Mỹ đang trải qua những diễn
biến đáng chú ý. Ngày 17/2/2010 vấn đề được nêu trên tờ “Tuần Việt Nam”[6] đã gây sóng gió trong dư
luận. Nhưng đến ngày 21/7 cùng năm, nhân chuyến thăm Hà Nội của của Ngoại
trưởng Hillary, từ học giả đến thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao Việt Nam
đều nhấn mạnh nhu cầu “nâng cấp” mối quan hệ này[7]. Tuy nhiên, trong tuyên
bố về chuyến thăm của bà Hillary một năm sau đó, ngày 31/8/2011, ĐTCL lại bị bỏ
qua[8] và bị “treo” cho tới
tháng 5/2013. Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng trong phát biểu ngày 31/5/2013 tại Đối thoại
Shangri-La ở Singapore đã trở lại chủ đề này khi tuyên bố Việt Nam muốn có
ĐTCL với tất cả các thành viên thường trực HĐBA/LHQ (tức là cả với Mỹ)[9]. Trước chuyến thăm Mỹ
của Chủ tịch Trương
Tấn Sang (7/2013), giới quan sát có dự đoán khả năng “nâng
cấp”. Nhưng kết quả là hai bên chỉ thỏa thuận xác lập quy chế “đối tác toàn
diện”. Tuy nhiên, gần đây nhất, ngày 25/5/2014, Tư lệnh Bộ Chỉ huy TBD của Mỹ,
Đô đốc Samuel Locklear lại xác nhận Mỹ muốn nâng cấp quan hệ ĐTCL với Việt Nam[10].
Có ba rào cản dẫn đến kết quả ngoài ý muốn chủ quan của mỗi
bên: hợp tác quân sự, dân chủ nhân quyền và vấn đề ý thức hệ[11]. Thế trận “hậu giàn
khoan” đặt ra một câu hỏi lớn là ưu tiên chiến lược của Việt Nam và Hoa K ỳ thời gian tới đây, nhìn cả
tầm trung lẫn dài hạn, liệu đã đủ cấp bách để các bên có thể vượt lên trên ba
rào cản này, tiến tới một quy chế mới, một “cuộc hôn nhân vì lợi” hay không.
Với những tiến trình gần đây, từ việc yêu cầu Mỹ sớm dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí
sát thương (ông Sang nhắc ông Clinton ngày 18/7) đến chủ động tránh tình trạng
một nước lớn có thể ức hiếp các nước trong khu vực (ông Clinton cảnh báo ông
Sang), các nhà hoạch định chính sách đang đứng trước ngã ba lịch sử. Tuy nhiên,
ĐTCL vẫn bị “lãng quên” trong những ngày Cố vấn Evan Medeiros (14/7), Bill
Clinton sang Hà Nội (18/7) và ĐBQH Phạm Quang Nghị thăm Washington (21/7).
Trong khi đó, việc “nâng cấp” từ nay không chỉ là một thành tố quan trọng của quan hệ song phương (Việt-Mỹ). Vấn đề này giờ đây trở thành bộ phận của một chiến lược đa phương (Việt-Mỹ- khu vực/thế giới), một đòi hỏi khách quan khó cưỡng lại của tiến trình hội nhập: i) Việt Nam cần sớm tham gia vào các phối trí ở khu vực châu Á-TBD và ii) phải hết sức cảnh giác, không rơi vào “bẫy” song phương với
Tuy nhiên, ý đồ của
Điểm yếu trong các đối tác đang vận hành là chưa có ĐTCL với
Mỹ và hệ thống ấy cũng chưa “hòa đồng bộ” với các mạng lưới liên minh đã và
đang hình thành trong khu vực châu Á - TBD. Không liên minh trong môi trường
chiến lược hiện nay là tự trói tay mình, giảm thiểu khả năng xoay trở trong
những tình huống khó khăn. Xây dựng đối tác (partnership) trong “gói” giải pháp
này không chỉ nhấn mạnh với Mỹ, nhưng khi khai triển hệ thống quan hệ ĐTCL với
các nước lớn, Việt Nam không thể không ưu tiên ĐTCL với Mỹ. Tuy nhiên, cũng
không nên để ĐTCL bị “lạm phát”. Một nan đề trong kiến tạo khuôn khổ ĐTCL là
khi có sự dư thừa các quan hệ dưới chuẩn dễ khiến cho các quốc gia thực sự cốt
yếu đối với Việt Nam không còn mặn mà với ý tưởng trở thành ĐTCL, hoặc nếu đã
trở thành thì sẽ giảm động lực trong việc thúc đẩy sự phát triển mối quan hệ
đó, bởi họ nhận ra rằng Việt Nam không thực sự coi trọng đối tác như họ từng
đón đợi[14].
2. Dân chủ hóa: giới hạn và tiềm năng
Một nhà ngoại giao ở Hà Nội nói với người viết bài này: “Mỹ không hẳn muốn ép Việt Nam dân chủ hóa. Quan hệ với các nhà toàn trị dễ chịu hơn nhiều”. Tác giả đã đáp lại, dân chủ hóa không thể tiến hành dưới sức ép, dân chủ hóa là nhu cầu nội tại của Việt Nam. Đây không phải là chuyện Mỹ hay Tàu muốn, đây là câu chuyện “về lẽ sống, lẽ phải, về chuyện trị nước, yên dân, chuyện hòa hợp hòa giải, chuyện tôn trọng sự khác biệt”[15]. “Dân chủ hóa” và “nâng cấp” quan hệ với Mỹ cũng là là câu chuyện “con gà và quả trứng”. Hai thành tố này nhất định sẽ sản sinh chất lượng mới cho hệ thống. Có điều, cần hiểu một cách thấu đáo hơn nhân tố dân chủ trong mối tương quan giữa nội trị và ngoại giao của Việt Nam. Từ BTA, sau đó là WTO và giờ đây TPP đang đến gần, tiến trình dân chủ hóa đang lừng lững đi tới. Tuy nhiên, nhìn tiến trình này diễn ra trên thế giới, từ sự sụp đổ ở Liên Xô-Đông Âu đến các cuộc cách mạng đủ sắc màu trên khắp các lục địa, phải thừa nhận một sự thật, dân chủ “không phải là bữa trưa miễn phí”.
Không có ngọn cờ và tổ chức, tiến trình dân chủ hóa dễ thành cạm bẫy trong một số cuộc chuyển đổi. Vì vậy, ngay cả những người đang đấu tranh cho dân chủ vẫn hi vọng vào sự đột phá bên trong từ bộ phận tiên tiến của đảng cầm quyền, biết tách ra, vượt lên, nhưng vẫn chế ngự được quyền lực; vừa khởi xướng, vừa tiết chế được quá trình thay đổi. Chính các đảng viên sẽ tự thay đổi đảng khi họ biết đặt quyền lợi dân tộc-quốc gia lên trên quyền lợi cá nhân/đảng phái, để từ bỏ toàn trị, tức khắc nền dân chủ đích thực sẽ hình thành trên toàn quốc[16]. Nhiếu ý kiến cho rằng khả năng này trong bối cảnh hiện nay là không lớn, nhưng xác suất bé của tiến trình tự chuyển hóa vẫn đáng thúc đẩy để ngăn chặn một sự đổ vỡ lớn. Sự ra đời của diễn đàn các tổ chức dân sự có thể là một dấu hiệu hứa hẹn. Diễn đàn tự nguyện hoạt động trong khuôn khổ pháp lý. Nó phối hợp với đảng/nhà nước để kiểm soát và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, thúc đẩy kinh tế thị trường để bảo đảm sự ổn định, cân bằng mối quan hệ giữa nhà nước với xã hội công dân[17].
ĐCS Việt Nam, hơn một lần, đã thể hiện khả năng tự thay đổi. Đó là quãng thời gian từ Cương lĩnh Trần Phú đến Mặt trận Bình dân, đó là giai đoạn từ Nghị quyết IX chống xét lại đến đường lối đoàn kết Trung-Xô sau này và gần đây nhất là cuộc “tự cởi trói” để đi vào Đổi mới và Hội nhập. Hẳn nhiên, cuộc dịch chuyển thời toàn cầu hóa sẽ khác và thách đố nhiều hơn, nói theo quan điểm chính thống, “hòa nhập nhưng không hòa tan”. Song chưa bao giờ vấn đề đặt ra lại cấp bách như lần này: chấp nhận thay đổi, vì lợi ích quốc gia-dân tộc, để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hay sẽ mất tất cả! Dân chủ hóa là một quá trình không thể cưỡng lại được. Để đón bắt xu thế ấy, những người có trách nhiệm trong đảng và nhà nước hiện nay cần “phải dựa hẳn vào nhân dân, vào dân tộc, dấy lên sức mạnh từ dân để giải quyết tất cả, bắt đầu từ phát triển xã hội dân sự để nuôi dưỡng tinh thần dân tộc và phát huy dân chủ – vì sự nghiệp cứu nước và chấn hưng đất nước”[18]
2. Dân chủ hóa: giới hạn và tiềm năng
Một nhà ngoại giao ở Hà Nội nói với người viết bài này: “Mỹ không hẳn muốn ép Việt Nam dân chủ hóa. Quan hệ với các nhà toàn trị dễ chịu hơn nhiều”. Tác giả đã đáp lại, dân chủ hóa không thể tiến hành dưới sức ép, dân chủ hóa là nhu cầu nội tại của Việt Nam. Đây không phải là chuyện Mỹ hay Tàu muốn, đây là câu chuyện “về lẽ sống, lẽ phải, về chuyện trị nước, yên dân, chuyện hòa hợp hòa giải, chuyện tôn trọng sự khác biệt”[15]. “Dân chủ hóa” và “nâng cấp” quan hệ với Mỹ cũng là là câu chuyện “con gà và quả trứng”. Hai thành tố này nhất định sẽ sản sinh chất lượng mới cho hệ thống. Có điều, cần hiểu một cách thấu đáo hơn nhân tố dân chủ trong mối tương quan giữa nội trị và ngoại giao của Việt Nam. Từ BTA, sau đó là WTO và giờ đây TPP đang đến gần, tiến trình dân chủ hóa đang lừng lững đi tới. Tuy nhiên, nhìn tiến trình này diễn ra trên thế giới, từ sự sụp đổ ở Liên Xô-Đông Âu đến các cuộc cách mạng đủ sắc màu trên khắp các lục địa, phải thừa nhận một sự thật, dân chủ “không phải là bữa trưa miễn phí”.
Không có ngọn cờ và tổ chức, tiến trình dân chủ hóa dễ thành cạm bẫy trong một số cuộc chuyển đổi. Vì vậy, ngay cả những người đang đấu tranh cho dân chủ vẫn hi vọng vào sự đột phá bên trong từ bộ phận tiên tiến của đảng cầm quyền, biết tách ra, vượt lên, nhưng vẫn chế ngự được quyền lực; vừa khởi xướng, vừa tiết chế được quá trình thay đổi. Chính các đảng viên sẽ tự thay đổi đảng khi họ biết đặt quyền lợi dân tộc-quốc gia lên trên quyền lợi cá nhân/đảng phái, để từ bỏ toàn trị, tức khắc nền dân chủ đích thực sẽ hình thành trên toàn quốc[16]. Nhiếu ý kiến cho rằng khả năng này trong bối cảnh hiện nay là không lớn, nhưng xác suất bé của tiến trình tự chuyển hóa vẫn đáng thúc đẩy để ngăn chặn một sự đổ vỡ lớn. Sự ra đời của diễn đàn các tổ chức dân sự có thể là một dấu hiệu hứa hẹn. Diễn đàn tự nguyện hoạt động trong khuôn khổ pháp lý. Nó phối hợp với đảng/nhà nước để kiểm soát và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, thúc đẩy kinh tế thị trường để bảo đảm sự ổn định, cân bằng mối quan hệ giữa nhà nước với xã hội công dân[17].
ĐCS Việt Nam, hơn một lần, đã thể hiện khả năng tự thay đổi. Đó là quãng thời gian từ Cương lĩnh Trần Phú đến Mặt trận Bình dân, đó là giai đoạn từ Nghị quyết IX chống xét lại đến đường lối đoàn kết Trung-Xô sau này và gần đây nhất là cuộc “tự cởi trói” để đi vào Đổi mới và Hội nhập. Hẳn nhiên, cuộc dịch chuyển thời toàn cầu hóa sẽ khác và thách đố nhiều hơn, nói theo quan điểm chính thống, “hòa nhập nhưng không hòa tan”. Song chưa bao giờ vấn đề đặt ra lại cấp bách như lần này: chấp nhận thay đổi, vì lợi ích quốc gia-dân tộc, để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hay sẽ mất tất cả! Dân chủ hóa là một quá trình không thể cưỡng lại được. Để đón bắt xu thế ấy, những người có trách nhiệm trong đảng và nhà nước hiện nay cần “phải dựa hẳn vào nhân dân, vào dân tộc, dấy lên sức mạnh từ dân để giải quyết tất cả, bắt đầu từ phát triển xã hội dân sự để nuôi dưỡng tinh thần dân tộc và phát huy dân chủ – vì sự nghiệp cứu nước và chấn hưng đất nước”[18]
Trong khi đó, một Việt Nam dân chủ không chỉ là lợi khí, mà còn là điều
Khi nói về Đại hội Đảng khóa XII sắp tới, nhà nghiên cứu Nguyễn Trung cũng có đề cập tới khả năng ĐCS Việt Nam lựa chọn con đường chủ hòa, không kiện
3. COC trong tương quan Việt-Trung-ASEAN
Việc Trung Qu ốc
buộc phải rút giàn khoan trước một tháng so với dự kiến ban đầu cho thấy, không
phải Trung Qu ốc
muốn làm mưa làm gió gì cũng được. Suốt hơn hai tháng “múa gậy vườn hoang”, dù
hung hãn trên thực địa, TQ vẫn phải “diễn” ván bài pháp lý. Trung Qu ốc cũng “cầu cứu”, cũng
“gửi đơn” lên LHQ. Vô hình trung, Trung
Qu ốc đã chấp nhận “quốc tế hóa” tranh chấp vùng biển đảo cướp
cách đây 40 năm nhưng không có luật quốc tế nào đi công nhận chủ quyển môt vùng
biển đảo chiếm đóng bằng vũ lực. Với “động tác giả” hiếm hoi trên sân, “quả
bóng” pháp lý vẫn là mục tiêu tranh giành giữa các bên đòi chủ quyền, mặc dầu ông Dương Khi ết Trì đã
sang tận Hà Nội ra “chỉ dụ” VN đừng kiện TQ ra quốc tế. Xem vậy để thấy Trung Qu ốc không thể hoàn toàn
xem thường nền văn hóa chính trị của thế kỷ 21, tập quán của thương lượng và
văn minh của luật pháp.
Cho đến nay, vẫn còn một số trở ngại khiến cho ASEAN và
Quá trình hiệp thương giữa
An ninh trên biển ở khu vực Đông Nam Á là quan trọng như nhau đối với tất cả các thành viên ASEAN, dù là nước có biển hay không có biển. Một COC như thế sẽ giúp cho tất cả các nước trong hiệp hội đều có vai trò như nhau. Điều này tránh tình trạng phân chia ASEAN thành hai nhóm có và không có tranh chấp trên Biển Đông. Mặt khác, luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS, áp dụng như nhau đối với tất cả các vùng biển chứ không riêng gì Biển Đông. Việc thông qua một bản Quy tắc ứng xử cho những vấn đề chung trên Biển Đông sẽ giúp củng cố tư cách pháp lý của ASEAN và tăng cường khả năng của họ đối phó với các cường quốc bên ngoài. Một văn bản mang tính ràng buộc về pháp lý này sẽ là quy tắc ứng xử cho những vấn đề chung trên biển của Đông Nam Á chứ không đơn thuần chỉ là COC cho Biển Đông[23].
Đối với một nước là thành viên của P5 như TQ mà không tôn trọng luật pháp quốc tế, Việt Nam càng phải nêu cao ngọn cờ pháp lý để đấu tranh. COC sẽ là công cụ quan trọng nếu nó được xây dựng trên căn cứ của Công ước LHQ về Luật biển (UNCLOS) và đảm bảo bởi quyết tâm của ASEAN. “Việc đấu tranh này phải bắt đầu ngay hôm nay chứ không thể đợi tới ngày mai”[24]. Có ba việc mà Việt Nam nên thực hiện song song: cuộc chiến pháp lý theo Luật biển quốc tế, cuộc chiến chính trị/ngoại giao (VN cần tận dụng mọi sự ủng hộ của quốc tế) và cuộc chiến vì một ASEAN đoàn kết, không để bị chia rẽ, bởi lẽ tất cả các nước đều có quyền lợi ở đây. Đương nhiên, sự chênh lệch trong tương quan lực lượng giữa
Vẫn biết các cuộc chiến pháp lý trên biển trong lịch sử ngoại giao và tiến trình xét xử bằng trọng tài quốc tế là một tiến trình chính trị phức tạp. Tuy cộng đồng quốc tế không có lực lượng cảnh sát toàn cầu có khả năng thực thi phán quyết của tòa, nhưng nếu một quốc gia lớn như
4. Thỏa thuận Thành Đô và bài học “thoát Trung”
Việc triển khai ba giải pháp P—D—O đã và đang vấp phải những
rào cản. Các lợi ích chiến lược của VN cho đến trước biến cố giàn khoan cho
thấy chưa đủ “độ” để xây dựng ĐTCL với Mỹ (P), hệ thống đối tác tuy đã có nhưng
cũng chưa “hòa đồng” vào mạng lưới lớn trong khu vực. Tiến trình dân chủ hóa
đến nay (D) vẫn đặt hy vọng vào sự đột phá bên trong của bộ máy quyền lực. Tiến
trình đi đến COC nhằm dùng “luật ứng xử” để giải quyết tranh chấp bị TQ cản phá
(O). Tuy nhiên, các rào cản này đều có thể vượt qua, nếu ĐCS Việt Nam đánh giá
lại và công khai mọi “được/mất” (W) của quá trình từ các thỏa thuận Thành Đô đến
nay, rút tỉa những bài học cần thiết. Một trong những bài học đó là phải thanh
toán di sản ý thức hệ, quyết không để cho Trung Qu ốc dùng “tình hữu nghị viển vông” trùm chăn
đánh mà không dám “kêu làng”. Tức là phải đặt tiến trình P—D—O trên một quyết
tâm “phi ý thức hệ”, “thoát Trung” mạnh mẽ/quyết liệt. Thành công của P—D—O tùy
thuộc trước nhất vào nội lực bên trong. Cả nhà cầm quyền lẫn người dân hãy nắm
lấy cơ hội hiếm hoi để bứt phá và thay đổi.
“Thoát Trung” cần được hiểu là thoát khỏi quỹ đạo của Trung Qu ốc về kinh tế, chính
trị, tư tưởng và những ảnh hưởng tiêu cực khác từ Trung Qu ốc. Về mặt chất lượng
quan hệ kinh tế giữa hai nước, vấn đề đầu tư của Trung Qu ốc ở Việt Nam và thâm
hụt mậu dịch là cả câu chuyện lớn, liên quan đến hàng loạt các vấn đề của nền
kinh tế, trong đó có câu chuyện chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam. Nếu thỏa
thuận Thành Đô được bạch hóa, chúng ta có thể kiểm chứng được hai tiến trình ít
được đề cập công khai: i) Trung
Qu ốc đã khống chế Việt Nam như thế nào thông qua cái gọi là
sự “cộng thông” ý thức hệ; ii) Trung
Qu ốc đã chuẩn bị các bước và triển khai kế hoạch độc chiếm
Biển Đông ra sao. Khủng hoảng giàn khoan vừa qua buộc VN/khu vực/thế giới phải
đối diện với một hiểm họa có tên là “tham vọng bá vương”. Chủ tịch Trương T ấn Sang đã khẳng định:
“Trừ khi nào họ nói họ từ bỏ đường chín đoạn hoặc chúng ta từ bỏ chủ quyền – mà
điều này chắc chắn không người dân Việt Nam nào chấp nhận”[26].
Theo ông
Chu Công Phùng , nguyên Đại sứ Việt Nam tại Myanmar, trong
lịch sử gần 3000 năm, Trung Qu ốc
đã xâm lược Việt Nam tất cả 20 lần (nhà Ân 1 lần, nhà Tần 1 lần, nhà Hán 4 lần,
nhà Lương 3 lần, nhà Tống 2 lần, nhà Nguyên 3 lần, nhà Minh 1 lần, nhà Thanh 1
lần, CHND Trung Hoa
4 lần/trong vòng 40 năm), tức với tần suất trung bình 150 năm một lần thời
phong kiến, còn thời “đồng chí” với nhau thì 10 năm một lần xâm lược[27]. Trên thế giới, chưa
từng có một quốc gia nào đem quân đi xâm lược láng giềng của mình với tần suất
dày đặc như vậy. Vỗ về là “lý tưởng tương đồng” mà tần suất xâm lược thời “16
chữ vàng” còn cao hơn bất cứ triều đại nào trong lịch sử phong kiến. Giữa Việt
Nam và Trung Qu ốc
không có truyền thống hữu nghị, cũng không có tương đồng về ý thức hệ. Những
nhận xét của cựu Đại sứ VN tại TQ Nguyễn Trọng Vĩnh và Thiếu tướng Công an Lê
Văn Cương[28]có lẽ là một trong những
kết luận sâu sát nhất về mối quan hệ Việt-Trung.
Mà đâu chỉ có phía Việt Nam, ngay các học giả Trung Qu ốc cũng thừa nhận một
thực tế về tổng thể quan hệ Trung-Việt. Trong một bài viết của mình, nhà nghiên
cứu Kha Tiểu Trại cho rằng không có cơ sở để tìm được “sự đột phá” trong quan
hệ với Việt Nam. Quan hệ Trung-Việt chỉ có thể xếp trên quan hệ của Trung Qu ốc với Philippines.
Theo tác giả, sự tương đồng ý thức hệ không phải là cơ sở cho “sự đột phá”.
Thực tiễn lịch sử bang giao hàng ngàn năm nay đã chứng minh xu thế không mấy
tích cực trong quan hệ giữa hai nước sau khi đã được bình thường hóa. Trong bối
cảnh phức tạp của tình hình hiện nay, điều cần làm là phải “cài đặt lại” bang
giao Trung-Việt[29]. Bởi vì, Trung Qu ốc sẽ không dừng ở vụ
giàn khoan mà sẽ tiếp tục hành vi khiêu khích khác, vào thời gian/địa điểm do Trung Qu ốc chọn.
5. Việt Nam như một khớp nối mềm
Quyền lợi địa-chiến lược của các bên liên quan ở Đông Á đứng trước nguy cơ va chạm quyết liệt. Nửa thế kỷ nay, lần đầu tiên Nhật, Phi được Mỹ bảo vệ trong khuôn khổ các hiệp ước an ninh chung ký từ lâu. Nhật sẽ sửa hiến pháp để có quyền “tự vệ tập thể” và hành động ngoài biên giới. Vòng xoáy các tranh chấp ấy vừa là thách thức nhưng cũng là cơ hội đối với các nước vừa và nhỏ, tùy theo cách lựa chọn. Biến cố giàn khoan HD-981 không chỉ làm thay đổi nền tảng tin cậy trong quan hệ Việt-Trung từ sau bình thường hóa, theo hướng “hợp tung” (Bắc – Nam). Biến cố ấy còn góp phần chuyển hóa môi trường chiến lược theo hướng “liên hoành” (Đông – Tây). Giờ là lúc Việt Nam cần chủ động chuyển sang thế cân bằng mới cho các chính sách của mình. Các nhà nghiên cứu đã có lý khi đưa ra các lập luận tăng “liên hoành” để ứng phó với “hợp tung”.
Các lập luận đó bao gồm: Thứ nhất, nền tảng của chính sách không liên minh trở nên không còn phù hợp hoặc phản tác dụng. Không liên minh để chống nước thứ ba nhưng khi cần, phải liên minh để tự bảo vệ mình. Khi “hợp tung” thay đổi thì cần phải có sự điều chỉnh “liên hoành” để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, giúp bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia. Thứ hai,
Thủ tướng
Trong lịch sử xa xưa, ngay cả khi tương quan lực lượng giữa Việt Nam và
Từ nay, “Giấc mơ Việt Nam”[33], một dự án đang tìm cách giải mã các ẩn số an ninh và phát triển cho Việt Nam, bằng cách xây dựng đất nước này trở thành một khớp nối mềm, nói theo ngôn ngữ tin học, một “khớp nối đường trục số” (DTI)[34]. Việt Nam là đất nước có chiều dài lịch sử đủ để xiển dương các giá trị của hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà những hành động bạo lực của
Kết luận:
Tác giả muốn nhấn mạnh lại một ý kiến trước đây[35]: tính hợp trội (emergence) của hệ thống toàn cầu chính là sự nổi lên của các cấu trúc và sự cố kết trong quá trình hình thành các giải pháp tầm quốc gia/khu vực như một hệ thống. Mô hình tổng quát “P&DOWN” là một nỗ lực như vậy. Các lợi thế do tính hợp trội của mô hình này mang lại có thể là: i) Hệ thống các đối tác chiến lược sẽ trở thành sức mạnh chế ngự mọi tham vọng quá khích, hiếu chiến, sẽ là quyền lực bao quát cái toàn thể, không hội đủ trong từng biện pháp hợp thành); ii) Dân chủ hóa sẽ đoàn kết bên trong và tạo ra sự cố kết giữa bên trong với bên ngoài, bảo đảm độ bền vững của tiến trình; iii) Luật quốc tế là cơ sở tạo thành bộ Quy tắc ứng xử COC, sau này có thể hội nhập sâu hơn với các cấu trúc khác đang định hình trong khu vực, như EAS, TPP, RCEP; iv) Tư duy và hành động minh triết sẽ hội tụ, liên kết và mở rộng mạng lưới như một quá trình tiến hóa, chứ không đột biến cách mạng (gây sốc/đổ vỡ) và v) Khớp nối mềm sẽ liên kết trong nước với bên ngoài, mang lại tính đại diện cao nên dễ được cộng đồng quốc tế và khu vực chấp thuận Việt Nam như một thực thể địa-chính trị mới.
Năm biện pháp từng phần để đi tới mô hình hợp nhất rất cần sự đồng thuận giữa lãnh đạo và người dân. Giàn khoan HD-981 là một phép thử về tính khả thi đối với mô hình tổng quát này. Một năm trước, chúng ta đã có “P&DOWN—1”. Câu chuyện “hậu giàn khoan” là “P&DOWN—2”. Từ nay, mỗi khi có biến cố lớn trong nước, khu vực hay trên thế giới liên quan đến Việt Nam, có thể dùng “P&DOWN—3…n” như một hệ quy chiếu để lượng định tình hình, để gia cố các giải pháp. Muốn “P&DOWN” thành công, điều kiện tiên quyết là phải vượt qua trở lực do các “ma-sát xấu” của nền ngoại giao ý thức hệ rơi rớt lại. Nếu mô hình này được thực thi bài bản, hy vọng sẽ có thêm những viên đá để góp phần xây dựng con đường cũng như cách thức bảo vệ hiệu quả phần thuộc về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vẫn biết, lý thuyết và mô hình thường là màu xám! Song xin đừng quên một loại quả lành trên đất Việt, đó là quả “BÍ ĐAO”, phát âm gần giống với “P&DOWN”. Cái “bí”, cái “khó” chắc chắn sẽ làm “ló” cái khôn sáng, cái minh triết để bảo vệ và gìn giữ Biển Đông cho đời này và muôn đời con cháu về sau./.
Hà Nội, ngày 1/7/2014
Đ.H.T
[1] http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/131888/giai-phap--cho-bien-dong-trong-hoan-canh-moi-.html
http://vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song27/cuoc-song-quanh-ta46/giai-phap-nao-cho-van-de-bien-dong?
http://www.hoangsa.danang.gov.vn/index.php/vn/2012-08-24-02-10-30/giao-duc-quoc-phong/364-sang-kien-5-chu-cai-cho-van-de-bien-dong
[2]http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/183772/vn-chua-bao-gio-tu-bo-chu-quyen-o-hoang-sa.html
http://luongkhaulao.wordpress.com/2014/07/15/co-mot-cach-lam-trung-quoc-phai-tu-bo-da-tam-banh-truong-http://www.boxitvn.net/bai/28117
[8] http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/hillary-clinton-my-tiep-tuc-la-ban-cua-viet-nam-2204378.html
[9]http://baodientu.chinhphu.vn/Home/Thu-tuong-Nguyen-Tan-Dung-phat-bieu-khai-mac-Doi-thoai-ShangriLa-2013/20135/169967.vgp
[11] Thật ra cả ba rào cản này
có cùng một gốc là ý thức hệ, từ đó dẫn đến cách đặt vấn đề “đi với Trung Qu ốc thì mất nước, đi với
Mỹ thì mất chế độ”. Nếu lấy lợi ích quốc gia làm hệ quy chiếu thì cách đặt vấn
đề như vậy là chệch hướng. Việt Nam, suy cho cùng, chẳng nên “đi” với ai (chưa
nói “ai đó” có đồng ý cho mình “đi” hay không) theo cái nghĩa làm một quốc gia
“trái độn” giữa các thế lực khác nhau. Việt Nam không thể là chư hầu, bàn đạp
của TQ, nhưng cũng không thể là “con đê” ngăn chặn TQ, VN chỉ có thể “ta là
ta”, sử dụng sức mạnh nội lực, vị thế quốc tế, thông qua các công cụ pháp lý,
phù hợp với lợi ích an ninh và phát triển của mình, góp phần duy trì an ninh và
trật tự trong một khu vực trọng yếu của thế giới. Bảo vệ được an ninh quốc gia,
độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ nhưng đồng thời phải tránh xa “vạc dầu
đang sôi” ở Đông Á và Đông Nam Á (Bài học thế kỷ 20).
[13] http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2014/07/140718_dinhhoangthang_981_dilemma.shtml
nhưng xin đọc bản gốc tại đây để rõ thêm ý này trong phần kết: http://www.viet-studies.info/kinhte/kinhte.htm
[16] http://anhbasam.wordpress.com/2014/07/28/2805-da%CC%89ng-pha%CC%89i-tu%CC%A3-gia%CC%89i-thoat-chinh-minh/-
[20] http://giaoduc.net.vn/Quoc-te/Quan-he-chien-luoc-VietMy-lon-hon-se-lam-dao-lon-tham-vong-Trung-Quoc-
[22] http://nghiencuubiendong.vn/tin-ncbd/4184-kho-hi-vong-ve-bo-quy-tac-ung-xu-o-bien-dong Mark Valencia trên báo South China
Morning Post (Hong Kong ) ngày 7/7/2014
[26] http://biendong.tuoitre.vn/bien-dong/614796/Chu-tich-nuoc-Truong-Tan-Sang-Phai-giu-bang-duoc-chu-quyen.html
[28] Tạp chí “Người cao tuổi”,
số THÁNG 7/2014, tr13 và http://boxitvn.blogspot.com/2013/04/giua-viet-nam-va-trung-quoc-khong-co.html
[29] http://vanhoanghean.com.vn/goc-nhin-van-hoa3/nh%E1%BB%AFng-g%C3%B3c-nh%C3%ACn-v%C4%83n-h%C3%B3a/nhan-tu-hoang-sa-dan-toc-%E2%80%93-quoc-gia-la-toi-thuong
[30]http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Phai-tim-cach-nhanh-chong-thoat-khoi-soi-day-thong-long-post147488.gd
[31] http://vanhoanghean.com.vn/goc-nhin-van-hoa3/dien-dan38/viet-nam-theo-duoi-lien-minh-doi-pho-trung-quoc-tai-sao-va-nen-nhu-the-nao
[32] http://ethongluan.org/index.php?option=com_content&view=article&id=9486:ban-v-thoat-trung-huynh-ng-c-tu-n&catid=66:binh-lu-n-th-i-s
[33]-34(Digital Trunk
Interface): “Giấc mơ VN”/“Khớp nối đường trục số” là dự án từ hai doanh nhân
Nguyễn Trí Dũng, NICD/Minh Trân &Nguyễn Hữu Thái Hòa, FPT nhằm đưa trí thức
như “những khớp nối mềm” vào công cuộc phát triển bằng cách liên kết 3 nhà: nhà
nước – nhà khoa học – nhà doanh nghiệp. GMVN còn nhằm giải mã những ẩn số phát
triển. Bắt đầu bằng tái định vị 5 lợi thế tiềm năng: (1) là trung tâm dòng tiền
Châu Á; (2) là ngã ba đường huyết mạch của chuỗi cung ứng toàn cầu; (3) là kho
nông nghiêp/lương thực có thể góp phần giải quyết khủng hoảng; (4) là đất nước
có chiều dài lịch sử đủ để xiển dương các giá trị của hòa bình; (5) là 3000 km bờ biển làm đầu lọc
CO2 cho hệ sinh thái, cho kinh tế/xã hội xanh (Non-Carbonic). Trên cơ sở này,
VN sẽ xây dựng các giải pháp thông minh, chuyển giao công nghệ tiên tiến để
phát huy sức dân, biến lợi thế thành các giá trị vật chất, tinh thần. Trước mắt
tập trung vào 3 mũi nhọn: CNTT và Viễn thông, Nông nghiệp, Du lịch, được “chống
lưng” bởi 3 trụ cột: Công nghiệp nhẹ, Công nghiệp dịch vụ và Giáo dục đào tạo,
để con người Việt Nam đủ sức gánh vác trọng trách trong giai đoạn đột phá tư
duy và đẩy mạnh các giá trị sáng tạo/tái tạo. GMVN là đào tạo tư duy mới, khác
biệt cho một thế hệ trí thức tương lai, xây dựng cá thể đẳng cấp cao
(best-in-class) có Nhân sinh quan – Thế giới quan – Giá trị quan trên nên tảng
kế thừa các giá trị Chân-Thiện-Mỹ của nhân loại.