Nguyễn Đình Cống
Đại
hội 13 của ĐCSVN cũng giống như các ĐH trước đây, có 2 việc quan trọng nhất là
Nhân sự và Báo cáo. Về 2 việc này tôi đã có bài đăng trên các Báo Tiếng Dân, Dân Quyền và
Boxitvn ( bài Góp ý về chuẩn bị ĐH 13, ngày 11/6 / 2019; bài Trao đổi về ĐH 13,
ngày 10/6/2019). Tôi cho rằng nếu không có những thay đổi cơ bản về nhận thức
và cách làm thì mặc dầu tốn rất nhiều công sức, thời gian và kinh phí, vẫn chỉ
có thể chọn ra đội ngũ cán bộ làng nhàng với nhiều kẻ cơ hội, chỉ có thể soạn
ra một báo cáo dài dòng với lời lẽ văn hoa nhưng nội dung thiếu chân thật, tạo
ra sự lãng phí lớn.
Bài
này tôi trình bày vài suy nghĩ theo hướng đánh giá tình hình
1-Các mức độ của sự thật
Hãy
nhìn thẳng vào sự thật. Đó là phương châm, là khẩu hiệu được nêu ra mạnh mẽ từ
ĐH VI của ĐCSVN.
Chuẩn
bị cho ĐH XIII, một số văn kiện nhắc lại khẩu hiệu trên. Quan trọng của nhìn vào
sự thật chủ yếu không phải để ca ngợi thành tích và vinh quang mà là để thấy được
những điều bất cập, những sai lầm. Nhưng nhìn mà có thấy không. Thấy rồi có dám
công nhận và công khai nói ra hay không. Nhìn và nhận là hai việc khác nhau.
Sai
lầm, có thứ lộ rõ, ai cũng thấy, có thứ ẩn giấu hoặc bị che đậy, mà thông thường
cái ẩn giấu mới là bản chất. Thấy được
cái sai lộ rõ là tương đối dễ. Thấy cái sai ẩn giấu, thuộc bản chất là khó, đặc
biệt là quá khó đối với những cái đã được nhận nhầm là chân lý, được nhồi sọ, đã
tốn công sức để nghĩ ra và thực hành, đã có được một số thành công nào đó, đã
mang lại lợi ích và tiếng tăm cho một số người, đã được bồi bút ca ngợi đến tận
mây xanh.
Để
thấy được những sai lầm bị ẩn giấu cần có trí tuệ cao, dũng cảm lớn, phương
pháp đúng. Khi thiếu những thứ đó thì rất cần giúp đỡ từ bên ngoài, của những
người phản biện, mà phải là những phản biện có trí tuệ cao, có phương pháp tốt. Được
nghe lời khen thì sướng lỗ tai, nhưng phần lớn là vô ích. Nghe chỉ trích, có thể
khó chịu, nhưng biết nghe sẽ sửa được sai lầm. Mà phản biện của những người
trung thực, đặc biệt là của đối lập thì không tránh khỏi những lời chỉ trích.
Sự
thật có thứ rõ ràng, trần trụi, nhưng đa số có ngóc ngách, có phần lộ ra, có phần
ẩn giấu. Xin ghi nhớ câu châm ngôn “Một nửa cái bánh mỳ vẫn là bánh mỳ, còn một
nửa của sự thật lắm khi là dối trá”
Đại hội XIII của ĐCSVN dự kiến
thảo luận những vấn đề về củng cố và làm trong sạch Đảng, về những kế hoạch phát
triển đất nước. Những việc làm đó chỉ có giá trị khi được dựa trên nhận thức
đúng, đánh giá đúng tình hình thực tế. Khi nhận thức sai, đánh giá sai, chỉ dựa
vào một phần sự thật sẽ dễ dàng tạo ra cách làm sai, vạch ra đường lối trái quy
luật. Nhìn lại nhiều ĐH trước đấy của ĐCSVN thấy rằng phần lớn đã phạm phải nhận
thức sai sự thật, chỉ dựa vào một phần sự thật, vì vậy đã tạo ra nhiều sai lầm
và thất bại.
2-Liệu Đảng
CS có tìm thấy sự thật
Có chứ, nhưng tiếc rằng chỉ tìm
thấy một phần. Đó là thành tích và một số sai lầm lộ rõ. Tiếc rằng phần tìm được
ấy chứa đựng rất ít bản chât. Phải tìm được phần sự thật bị giấu kín, chứa đựng
bản chất của sai lầm mới thực sự có giá trị. Thế nhưng theo cách làm của Đảng
hiện nay thì rất khó, hầu như không thể làm được.
Chuẩn bị cho ĐHH 13 lãnh đạo
Đảng vẫn kiên trì Mác Lê, vẫn theo tư tưởng và cách làm cũ, đã lỗi thời, vẫn dựa
vào đội ngũ cán bộ trung thành nhưng kém năng lực. Mặc dầu có Hội đồng lý luận,
có Ban Tuyên giáo, lập thêm nhiều Ban chuẩn bị văn kiện, tổ chức nhiều hội
nghi, hội thảo, tăng cường lãnh đạo của Bộ Chính trị, của Ban Bí thư, phát huy
đến tối đa trí tuệ và dân chủ v.v.…, nhưng rồi cũng không thể nào tìm được sự
thật ẩn giấu. Vì sao vậy ?. Vì những người tham gia vào việc tìm kiếm này,
ngoài kém trí tuệ, thiếu dũng cảm, không có phương pháp đúng, họ còn không được
tự do, bị vòng kim cô Mác Lê chụp lên đầu, bị nguyên tắc tập trung dân chủ
khống chế, bị 19 điều cấm trói buộc. Họ chỉ được phép tìm ra những sự thật mà
lãnh đạo muốn nghe và chấp nhận.
Có thế một số đảng viên, cán
bộ thấy được phần nào sự thật ẩn giấu, nhưng không dám phát biểu công khai khi
còn phải dựa dẫm vào Đảng để tồn tại. Còn những người được lọt vào diện quy
hoạch, được cơ cấu thì dù có thấy cũng tìm cách che đậy. Những đảng viên dũng
cảm, dám nói lên sự thật thì lập tức bị quy kết vào tội tự diễn biến, bị thi
hành kỷ luật, một số buộc phải từ bỏ Đảng để được làm người trung thực. Chu Hảo
là một trong số đó.
3-Làm sao để có được sự thật còn bị
giấu kín
Sự thật bị giấu kín có 2 loại :
che giấu và ẩn giấu.
Che giấu một mưu mô, một mục đích là khi chủ thế biết rõ, có chủ trương thực hiện,
nhưng giữ bí mật. Điều họ nói ra công khai về lý do và mục đích, luôn trong
sáng, tốt đẹp, nhưng chỉ nhằm lừa dối. Đó là lý do phụ, mục đích phụ, là một phần
của sự thật, nhưng họ biến phụ thành chính. Họ kết hợp một phần sự thật đó với
thuật ngụy biện. Thí dụ ông chủ tịch tỉnh nọ, làm dự án xây tượng đài hết trên
ngàn tỷ. Điều chủ yếu ông nhắm tới là qua việc này có thể tham nhũng được vài trăm
tỷ để chia nhau. Nhưng ông giấu kín mưu mô. Ông tuyên bố làm tượng đài là để phục
vụ nhu cầu văn hóa của nhân dân. Có phục vụ không?. Có phục vụ, nhưng mục đích
chính đối với ông chủ tịch nằm ở chỗ khác, được che giấu.
Sự thật bị ẩn giấu là khi chủ thể
cũng không biết đến nó, không lường trước được nó sẽ xuất hiện trong tương lai.
Chủ thể không biết vì kém trí tuệ, thiếu kinh nghiệm hoặc bị lừa. Thí dụ
1- Khi nông dân Đà Lạt làm nhiều nhà
kính để trồng cây không lường trước mưa sẽ làm ngập lụt. Thí dụ 2- Năm 1983 Quốc
hội thông qua luật “Đất đai sở hữu toàn dân”. Nhiều đại biểu bỏ phiếu vì chỉ
nghe được những mặt hay, mặt tốt của luật mà không lường trước được rằng luật
đó là nguồn gốc của tham nhũng và thảm họa của dân oan.
Khi sự thật bị che giấu, người
ngoài muốn biết được, việc đầu tiên là nghi ngờ, rồi tiến hành điều tra, nghiên
cứu hoặc nhờ một dịp may nào đó. Không biết nghi ngờ một cách khoa học khó mà
biết được sự thật ẩn giấu. Biết rồi, muốn cho người khác cùng biết thì cần có tự
do ngôn luận, tự do báo chí. Nếu không có tự do mà biết sự thật nhiều khi nguy
hiểm. Trong lịch sử nhiều người đã bị giết chết chỉ vì biết được sự thật mà người
ta cần giấu kín.
Muốn biết được sự thật bị che giấu
hoặc ẩn giấu, trước hết cần có những con người tự do, có trình độ và dũng cảm.
Họ không bị trói buộc bởi và không cần
trung thành với bất kỳ học thuyết nào, không bị khống chế bởi bất kỳ thế lực
nào. Họ dám nghi ngờ điều mà nhiều người khác đã và đang tin là đúng.
Trong
tình hình của xã hội Việt Nam hiện nay, khi mà ĐCSVN bị một số hạn chế để tự
mình không thể nào tìm ra được sự thật bị ẩn giấu thì một trong những biện pháp
để tiếp cận chúng là tổ chức đối thoại giữa các trường phái, mà chủ yếu là bên
A và B
Bên A đại diện cho Đảng.
Bên B đại diện cho những người có cách nhìn khác về
một số đường lối và hoạt động của Đảng.
Cần đối thoại vì mỗi bên tự cho mình là hay, là
đúng, là thật sự yêu nước thương dân và lên án bên kia. A cho rằng B thuộc loại
thù địch, phải đấu tranh để loại bỏ chứ không thể hợp tác. B cho rằng A giáo điều,
bảo thủ, đi sai đường, cản trở sự phát triển của dân tộc.
Đối thoại tạo cho mỗi bên trình bày, bảo vệ quan điểm,
tiếp nhận những lập luận và phê phán của bên kia, để hợp tác, tìm ra đâu là sự
thật. Tốt nhất là tổ chức đối thoại công khai để có sự tham gia, chứng kiến của
nhân dân. Nhưng trước mắt có thể tổ chức đối thoại trong phạm vi hẹp.
Chính ông Võ Văn Thưởng, trưởng Ban Tuyên giáo của
ĐCS đã phát biểu : “Không sợ đối thoại,
không sợ tranh luận, bởi vì sự phát triển của mỗi lý luận và của học thuyết
cách mạng nào rồi cũng phải dựa trên sự cọ xát và tranh luận”.
Cần có tự do ngôn luận hoặc tổ chức đối thoại,
nhưng mấy lúc nay cách làm của A nhằm triệt hạ B chỉ gây chia rẽ dân tộc, làm hủy
hoại tinh hoa, làm yếu đi sức mạnh của phát triển.
Đối thoại giữa A và B có thể làm cho vài người lãnh
đạo khó chịu vì bị B công khai chỉ ra những sai lầm được che giấu. Sai lầm như
khối u ác tính ở bên trong. Nếu khôn ngoan, chịu phẩu thuật cắt đi thì có hy vọng
phục hồi sức khỏe. Nếu cố tình che giấu thì sẽ đến lúc phải chấp nhận hậu quả
thảm hại.
4-Một vài điều là thật hay giả dối
ở đâu
Xin nêu ra vài điều mà
quan điểm của A và B khác nhau để mọi người tham gia bàn luận.
Về Chính quyền.
A : Đảng đã lập nên chính quyền của dân, do
dân, vì dân, gồm 3 tầng, Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, dân làm chủ (
thông qua Mặt trận TQ). Chính quyền là thống nhất gồm 3 quyền theo phân công (
lập pháp, hành pháp, tư pháp).
B : Chính quyền, đúng ra phải là của Dân, nhưng đã
bị biến thành của Đảng. Ba tầng lớp Đảng-Chính quyền- Mặt trận dẫm đạp lên nhau, nặng nề, kém hiệu lực. Cần
xây dựng thể chế Dân chủ với Tam quyền phân lập.
Về ổn định.
A : Việt Nam đang rất ổn
định về chính trị và xã hội, được nhiều nước và tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Có ổn định là nhờ tài lãnh đạo của Đảng và lòng tin của dân
B- Giữa ổn định chính trị và ổn định xã hội thì ổn
định xã hội quan trọng hơn. Ổn định chính trị là một trong những điều cần cho ổn
định xã hội. Ổn định chính trị của VN là không bền vững ( không được như ổn định
của con búp bê lật đật, dưới nặng trên nhẹ). Ổn định chính trị của VN phải được
chống đỡ, dựa vào thế lực của công an trị làm cho dân sợ và tuyên truyền dối trá
để đánh lừa. Ổn định chính trị tạm thời của VN đang bị thử thách vì lòng tin của
dân vào Đảng đang giảm sút nghiêm trọng. Còn về xã hội thì VN chưa có được sự ổn
định cần thiết. Không thể xem ổn định vững chắc khi xã hội có nhiều rối loạn
như hiện nay.
Về nguyên nhân của tham nhũng và nhiều tai họa.
A : Nguyên nhân chủ yếu
là do một số đảng viên, cán bộ thoái hóa, biến chất, tự diễn biến, tự chuyển
hoá, do các cấp ủy Đảng lơ là, không kịp thời trong lãnh đạo, kiểm tra, xử lý.
B : Số thoái hóa về phẩm chất và số tự diễn biến về
tư tưởng là hoàn toàn khác nhau. Chính sự độc quyền toàn trị của Đảng làm sinh
ra và nuôi dưỡng bọn thoái hóa, chúng là sản phẩm của chuyên chính vô sản. Vậy
nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân chủ yếu của nhiều tai họa là xuất phát từ sự độc
quyền đảng trị của chuyên chính vô sản.
Về Chủ nghĩa Mác Lê
A : Mác Lê là chân lý,
là ánh sáng, là kim chỉ nam, kiên trì thực hiện nó sẽ đưa dân tộc đến tương lai
tươi sáng.
B : Mác Lê phạm những sai lầm ngay từ gốc, đem lại
cho nhân loại lợi ít hại nhiều. Liên xô và phe XHCN đã sụp đổ. Cần từ bỏ Mác
Lê, kiên trì nó chỉ dẫn dân tộc đi sai đường.
Về Quy hoạch cán bộ
A : Quy hoạch cán bộ
nhằm chọn được những người đủ đức đủ tài, ngăn cản những kẻ chạy chức chạy quyền
và bọn hậu duệ kém năng lực, nó là kết tinh trí tuệ của lãnh đạo.
B : Quy hoạch cán bộ tuy có một số điểm tích cực,
nhưng chứa đựng không ít nội dung phản dân chủ, phản tiến bộ, phản khoa học.
Theo quy hoạch ấy khó tìm được tinh hoa thực chất mà chỉ chủ yếu tìm được bọn
cơ hội lắm mưu mô.
Tạm kể ra vài điều như trên, chủ yếu liên quan
đến thể chế chính trị. Xin trích một ý kiến của học giả nước ngoài về kinh tế.
Đó là ý kiến của
Michael Spence, người đã từng đoạt giải thưởng Nobel về kinh tế và là
Giáo sư Kinh tế học tại Đại học New York, thành viên cao cấp tại Viện Hoover,
Chủ tịch Ủy ban nghiên cứu độc lập về Tăng trưởng và Phát triển… viết về VN trong bài :The Inequality of Nations
(Sự bất bình đẳng của các quốc gia).
Ông viết : “Nhà nước Việt Nam độc tài lo củng cố quyền lực chính
trị, tạo một sân chơi kinh tế thu hẹp tối thiểu lo phục vụ cho lãnh đạo và thân
tộc. Những bất công và nghịch lý làm phí phạm tài nguyên và hiệu năng kinh tế,
chưa tạo điều kiện thịnh vượng cho đất nước, không thoả mãn nhu cầu cho mọi
tầng lớp dân chúng trong đời sống hàng ngày và sinh hoạt xã hội, nhà nước biến
Việt Nam thành một xã hội thị trường. Thay vì dùng tiền để thanh toán cho các
trao đổi trong thị trường, họ dùng tiền để mua bán cho toàn bộ hoạt động xã
hội, những phạm vi không thuộc về thị trường. Hậu quả là uy lực đồng tiền chế
ngự mọi quan hệ không có đặc tính thị trường, tất cả được định bằng một trị giá
trao đổi. Đời sống gia đình, quan hệ thân thiết, bảo vệ sức khoẻ, cơ hội giáo
dục, định mức tội phạm, xác định trình độ văn hoá và cơ
hội tuyển dụng là chuyện mua bán, mà tiền đâu là đầu tiên. Cuối cùng, tham
nhũng lên ngôi thành quốc nạn và đạo đức suy vi tận đáy. Trầm trọng nhất mà
Adam Smith không thể nhận thức được đề cập tới là hiểm hoạ diệt vong cho đất nước, khi giới lãnh đạo Việt
Nam công khai biến lãnh thổ, tài nguyên và độc lập dân tộc thành
một món hàng mua bán”
Về chính trị, điều đáng
quan tâm là tổng kết của Zbigniew Brzezinski (1928-2017), trong
sách THẤT BẠI LỚN- Sự ra đời và cái chết của chủ nghĩa cộng sản…( THE
GRAND FAILURE- The Birth and Death of Communism ….). Brzezinski, cố vấn an ninh của mấy đời Tổng
thống Mỹ khẳng định rằng Chủ nghĩa cộng sản thế nào cũng sụp đổ do thiếu trí tuệ.
5- Trí tuệ- nguồn gốc
và sự thể hiện
Trí tuệ khác với kiến thức. Nó gần với trí
thông minh. Trí tuệ được hình thành từ 2 nguồn : Tiên thiên và Hậu thiên.
Tiên thiên là phần có trước, do bào thai
tiếp nhận từ di truyền, từ năng lượng tâm linh. Hậu thiên là phần có sau, do tiếp
nhận từ học tập và hoạt động.Tiên thiên là
cơ bản, là hạt giống, hậu thiên là môi trường, là bổ sung. Người có trí
tuệ cao thường được xem là thiên tài, nhân tài, tinh hoa.
Khi
tiên thiên không tốt, không đủ thì dù có đào tạo bao nhiêu, may lắm cũng chỉ thành
được người có trí thức, có bằng cấp chứ
không có trí tuệ cao được. Trí tuệ thuộc lĩnh vực vô hình, nó thể hiện ra thành những câu nói, những hành
động, những cách giải quyết sự việc. Với nhiều hình, nhiều vẻ trong cuộc sống,
mà chủ yếu là chọn lựa phản ứng khi chịu một tác động nào đó . Cùng một tác
động, dù tốt hay xấu đến đối tượng A thì tùy theo mức độ của trí tuệ mà A có
những phản ứng khác nhau, cho những kết quả khác nhau.Thí dụ một A nào đó bị B mắng hoặc đánh. Tùy theo trí tuệ ( hoặc phẩm chất
) mà các A sẽ có phản ứng khác nhau:
6-Một số thể hiện kém trí tuệ của CS
6.1- Các ông tổ của CS
6.2–Cộng sản quốc tế
6.3 – Đảng Cộng sản VN
7-Vài gợi ý
Đảng CSVN vốn xuất phát là đảng của những người yêu nước, tranh đấu cho Độc lập dân tộc. Vì lẽ đó mà thời gian đầu Đảng thu hút được nhiều người tốt gia nhập và được nhân dân ủng hộ. Về sau càng ngày Đảng càng lệ thuộc vào chủ thuyết, mắc phải nhiều sai lầm. Chắc rằng Hồ Chí Minh đã nhận ra những sai lầm của chủ thuyết cộng sản nên đã bỏ tên ĐCS mà lấy tên Đảng Lao Động. Phải chăng việc Lê Duẩn đổi tên Đảng từ Lao Động thành Cộng sản là một sự thụt lùi, một sai lầm do thiếu trí tuệ.
A1- Chửi lại,
đánh lại hung hăng hơn.
A2- Ghi nhận thù hận vào lòng, lập mưu để trả thù vào
dịp khác.
A3- Xem như không nghe lời chửi, tránh bị đánh hoặc chỉ
đỡ đòn.
A4- Bình tĩnh,
tạm tránh, tìm hiểu xem B có hành động
như vậy vì lý do gì. Nếu B bị nhầm thì hãy tha thứ. Nếu mình có lỗi thì nhận lỗi
và nếu cần thì phải đền bù thiệt hại.
Việc phản ứng như thế nào có thể xẩy ra tức thời hoặc
sau một thời gian. Phản ứng tức thời vì không kịp phân tích và suy nghĩ, thường
theo bản năng, mà bản năng này là kết quả tích lũy của tiên thiên và hậu thiên.
Phản ứng về sau là có sự can thiệp của lý trí.
Một trong những phản ứng của con người là khi thấy được,
ngửi được cái lợi về vật chất. Lúc này sẽ thể hiện khá rõ mức độ của trí tuệ.
Người tầm thường tìm cách kiếm lợi, không nghĩ sâu xa đến mưu mô và rủi ro ( vì
thế nhiều người bị mắc lừa ), kẻ ích kỷ cố đoạt được lợi mặc cho nó mang tai họa
đến cho người khác, bọn đểu cáng tìm cách lừa dối, hãm hại, tiêu diệt đồng loại.
Với người có trí tuệ thì phải “kiến lợi tư nghĩa” ( thấy lợi phải nghĩ đến đạo
nghĩa) hoặc thấy lợi phải nghĩ ra, tìm ra cho hết những điều hại có thể kèm
theo.
Mác và những đồ đệ của Mác, dù là lãnh tụ của đảng này
đảng kia vẫn mắc vào lỗi kém trí tuệ vì họ quá tin vào học thuyết duy vật. Học
thuyết cho rằng bản chất của vũ trụ là vật chất mà thuộc tính của nó là vận động,
rằng vật chất có trước ý thức, rằng ý thức là sản phẩm bậc cao của vận động vật
chất. Học thuyết duy vật của Mác, cũng như thuyết tiến hóa của Darwin một thời
khuất phục những người cộng sản, nhưng rồi nó đã bị đánh đổ ở nhiều nơi trên thế
giới. Chỉ còn những người kém trí tuệ vẫn tin theo, tạo thành vòng luẩn quẩn,
càng tin theo càng làm cho trí tuệ kém hơn.
Cộng sản không công nhận Tâm linh, là phần quan trọng
của Vũ Trụ và Con Người, là nguồn tiên thiên của trí tuệ. Họ chỉ chú trọng vào
vật chất, làm cách mạng vô sản chỉ nhằm chiếm đoạt vật chất. Ngay như khi cai
trị đất nước cũng ưu tiên phát triển kinh tế để thỏa mãn nhu cầu vật chất.
Một số người tuy có tiên thiên tốt (giống tốt),
nhưng bị hãm vào môi trường khắc nghiệt
thì cũng không phát triển được để có thể
phát huy toàn bộ tài năng, may lắm chỉ thể hiện được trong một số phạm vi hạn
chế. .
6-Một số thể hiện kém trí tuệ của CS
6.1- Các ông tổ của CS
Mác được những người CS tôn thành Thiên tài vì những luận
giải về duy vật, về đấu tranh giai cấp, về bóc lột của tư bản, về chủ nghĩa cộng
sản v.v…Tuy vậy khi tìm hiểu kỹ về thân thế và sự nghiệp của ông tôi phát hiện
ông đã bị nhầm lẫn nhiều chỗ, chứng tỏ ông có trí tuệ tầm thường chứ chẳng là thiên tài hay nhân
tài gì cả. Những người tôn ông thành thiên tài càng bị nhầm hơn, có trí tuệ kém
hơn. Trước đây tôi đã công bố một loạt bài phân tích một số nhầm lẫn của Mác, ở đây chỉ xin nêu ý chính
+ Cực đoan theo học thuyết duy vật ( như đã trình bày ở trên)
+ Đánh giá sai bản chất con người, cho rằng nó là tổng hòa các mối quan
hệ xã hội, đánh giá sai về bản chất và vai trò của quần chúng vô sản ( tôi
không gọi giai cấp vô sản) .
+ Nhầm khi khẳng định : Đấu tranh giai cấp là động lực phát triên xã hội
loài người.
+ Bỏ sót vài yếu tố quan trọng khi phân tích tư bản bóc lột bằng giá trị
thặng dư, đã nhầm khi cho rằng sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất là một quy luât.
+ Bộ Tư bản luận tuy được một số người đánh giá cao, nhưng nhiều nhà khoa
học và triết học cho rằng đó chỉ là một mớ hổ lốn.
Lê Nin, người được xem là lãnh tụ kiệt xuất của cách mạng, cũng đã phạm
nhiều sai lầm, trong đó thể hiện thiếu trí tuệ nhất là quan niệm về chính quyền
nhà nước. Ông chủ trương nhà nước là của giai cấp này dùng để thống trị giai cấp
khác. Từ đó ông xây dựng nên nhà nước chuyên chính vô sản, một thảm họa trong lịch
sử nhân loại.
6.2–Cộng sản quốc tế
Những người lãnh đạo của phong trào cộng sản trong thế kỷ 20 cũng đã có
nhiều nhầm lẫn vì kém trí tuệ như đã quá tin vào những điều sau :.
+ Mác, Lê Nin là những lãnh tụ thiên tài, đã mù quáng răm rắp tin theo họ,
phạm phải những sai lầm do họ tạo ra, đề cao tệ sùng bái cá nhân. Ai nghi ngờ
các lãnh tụ liền bị quy kết là bọn xét lại, bọn thù địch.
+ Có thể và cần xây dựng CNXH trên nền tảng liên minh công nông.
+ Thời đại của 3 giòng thác cách mạng, thời đại thắng lợi của CNXH trên
toàn thế giới.
+ Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản, đế quốc
Mỹ là kẻ thù số một của nhân loại.
+ Giai cấp công nhân đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản, là giai cấp lãnh đạo..
+Tình cảm quốc tế vô sản là không gì phá vở.
Khi tin như thế họ cũng dựa vào sự thật, nhưng tiếc thay, đó mới chỉ là
một phần sự thật. Họ cũng dựa vào các chứng minh rất chặt chẽ, nhưng chứng minh
dựa vào một phần không bản chất của sự thật dẽ rút ra kết luận dối trá.
6.3 – Đảng Cộng sản VN
Ngoài những phần chung của Mác và phong trào CS,( ở 6.1 và 6.2), lãnh đạo ĐCSVN còn
thể hiện kém trí tuệ trong :
+ Cải cách ruộng đất, hợp tác hóa nông nghiệp, cải tạo tư sản (sau 1954 ở
miền Bắc và sau 1975 ở Miền Nam), quốc hữu hóa ruộng đất.
+ Kiêu ngạo về cách mạng tháng 8, về thắng cuộc trong chiến tranh
+ Quá bị ám ảnh về kẻ thù giai cấp dẫn đến huynh đệ tương tàn, rất khó hòa
hợp dân tộc.
+ Lập ra hệ thống Đảng, Chính quyền, Mặt trận, chồng chéo, dẫm đạp lên
nhau, kém hiệu quả, nặng nề, lãng phí, bất lực.
+ Quy hoạch cán bộ có những điều phản dân chủ, phản khoa học, phản tiến
bộ. Chỉ một Đảng kém trí tuệ mới để cho người như Nông Đức Mạnh làm TBT hai nhiệm
kỳ.
+ Không thấy được tai họa từ Trung Cộng.
+ Rõ ràng nhất ( nhưng ít người thấy) là trong việc soạn thảo các báo
cáo, các nghị quyết dài tràng giang đại hải
với nhiều sáo rỗng và mâu thuẩn.
+ Rất thich phô trương hình thức, phạm phải giả dối trong tuyên truyền.
Tạm nêu mỗi mục (6.1; 6.2; 6.3) vài
việc, kể ra còn nhiều lắm.
7-Vài gợi ý
Đảng CSVN vốn xuất phát là đảng của những người yêu nước, tranh đấu cho Độc lập dân tộc. Vì lẽ đó mà thời gian đầu Đảng thu hút được nhiều người tốt gia nhập và được nhân dân ủng hộ. Về sau càng ngày Đảng càng lệ thuộc vào chủ thuyết, mắc phải nhiều sai lầm. Chắc rằng Hồ Chí Minh đã nhận ra những sai lầm của chủ thuyết cộng sản nên đã bỏ tên ĐCS mà lấy tên Đảng Lao Động. Phải chăng việc Lê Duẩn đổi tên Đảng từ Lao Động thành Cộng sản là một sự thụt lùi, một sai lầm do thiếu trí tuệ.
Có người thấy Đảng trước đây và ngày nay khác nhau. Tôi nhận xét rằng khác
cơ bản ở chất lượng đảng viên, còn chủ thuyết, chính cương, điều lệ thì thấy
trước và sau không khác nhau mấy.
Nhân dân nhìn vào Đảng chủ yếu nhìn vào các đảng viên và việc làm của họ.
Trước đây thấy nhiều đảng viên tốt nên tưởng là Đảng tốt. Mà cái tốt của các đảng
viên đó là thuộc bản chất con người họ trước khi vào đảng. Bây giờ thấy quá nhiều đảng viên xấu nên cho là Đáng xấu. Có nhiều đảng viên xấu vì đã nhận
vào Đảng quá nhiều phần tử cơ hội. Nhưng tôi tin rằng vẫn còn nhiều đảng viên có
lương tri, nhận ra được những nhầm lẫn của lãnh đạo.
Một hy vọng mong manh là trông chờ vào các đảng viên có lương tri, đặc
biệt là các cán bộ cấp cao. Có lương tri mới nhận ra những sai lầm để thay đổi.
Để nhận ra sự thật trong đó có sai lầm thì tốt nhất là tổ chức đối thoại
như đã viết ở trên. Nếu Đảng ngại đối thoại thì có thể tổ chức các buổi thuyết
trình kín, mời một số trí thức phản biện, đến trình bày nhận thức của họ để
tham khảo, họ nói đúng thì nghe, họ nói bậy, phạm pháp, phạm luật thì đọc lệnh
bắt, đưa ngay ra tòa xét xử, chẳng cần điều tra gì thêm.
Những trí thức được mời không phải do tổ chức Đảng chọn lựa, cũng không
thuộc diện cán bộ đang tại chức. Đảng cần thông báo công khai rằng muốn nghe ý
kiến phản biện, ai có thể đến trình bày thì đăng ký. Nếu số đăng ký quá đông
thì hãy để cho những người đó bình chọn với nhau. Buổi thuyết trình có thể kín,
nội dung có thể tạm chưa công bố, nhưng tên người thuyết trình cần được cho mọi
người biết để xem người đó có đủ tín nhiệm của đông đảo hay không.
ĐCSVN hiện đang vướng mắc trong một đống bùng nhùng. Nếu cứ theo cách
làm do cán bộ kém trí tuệ của Đảng nghĩ ra thì không sao thoát được. Cần tìm
cách làm mới. Một trong những cách làm có hiệu quả cao là theo phương pháp “Não công” ( Brainstorming
method - GS Phan Dũng ) với những thành viên có nhiều khả năng sáng tạo.