Nguyễn Thế Anh
Nhìn sâu vào lịch sử, đối với người Việt, những trải nghiệm với người Trung Quốc dường như nằm trong phức cảm yêu-ghét, hay đúng hơn là một sự pha trộn của thu hút và thù hận, mà tiêu đề bài hát của nhạc sĩ Serge Gainsbourg, “Je t'aime, moi non plus” [tôi yêu em, nhưng tôi không còn như thế nữa] gần như khắc hoạ đúng trường hợp này. Trạng thái này tác động đến tất cả các vấn đề đối ngoại của Việt Nam, và trong hàng ngàn năm qua, quan hệ với Trung Quốc đặc trưng bởi một sự phức tạp có thể nói là gai góc ở tầm chính thức, xuề xoà và thân thiện ở trong lề thói thông thường. Trên thực tế, mối quan hệ hiện nay là sự hoán chuyển giữa một bên là những xung đột nảy lửa với một bên là những tuyên ngôn chính thức về tình hữu nghị không thể lay chuyển. Chúng phần nào gợi nhớ lại những kiểu giao kết Việt-Trung cổ xưa, đặc trưng bởi những rối rắm trong chính sách ngoại giao của một quốc gia nhỏ hơn luôn luôn phải dè chừng ý đồ bành trướng của ông hàng xóm to lớn trong quan hệ khu vực.
Nằm ngay sát cạnh Trung Quốc, dân tộc Việt Nam, có lẽ khác người Miến Điện và Thái Lan, luôn phải dè chừng ông bạn to lớn này trong các mối quan hệ khu vực. Trong suốt nghìn năm kể từ khi Việt Nam giành được độc lập cho đến giai đoạn thực dân kiểu Pháp, ghi dấu bốn cuộc xâm lược lớn của Trung Quốc, cộng thêm giai đoạn nhà Minh chiếm đóng khá dài, người Việt đã tích luỹ được bề dày kinh nghiệm trong việc giải quyết những mối quan hệ này. Trong khi đó, suốt quá trình đô hộ của Trung Quốc, từ thế kỷ II trước CN đến thế kỷ X sau CN, Việt Nam đã hấp thu từ Trung Quốc các lý thuyết chính trị, cơ cấu xã hội, thực hành chế độ quan liêu, tín ngưỡng tôn giáo và các thuộc tính văn hoá khác. Sự tiếp xúc lâu dài với ngôn ngữ và văn hoá Trung Hoa có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hoá xã hội Việt Nam, tiếp tục cho tới cuối thế kỷ XIX. Thật vậy, các nhà cai trị của Việt Nam không ngừng lấy nguồn cảm hứng văn hoá từ Trung Quốc, ngay cả khi họ củng cố quốc gia độc lập và thống nhất. Chữ Hán được lấy làm ngôn ngữ chính thức và là phương tiện giảng dạy, phương tiện để biểu đạt tri thức. Người Việt được học các chủ đề văn chương Trung Quốc cũng như giáo lý đạo đức được trích dẫn từ Nho giáo cổ điển. Đóng góp của Trung Quốc cho Việt Nam bao gồm tất cả các khía cạnh của văn hoá và xã hội. Đặc biệt, ảnh hưởng của Trung Quốc được cảm nhận mạnh mẽ nhất ở cấp cao nhất của nhà nước và chính trị: khái niệm luật pháp và quản trị của Trung Quốc đã trở thành yếu tố quan trọng của chính thể Việt Nam trong thời kỳ độc lập, bởi vì nó giúp nhà cầm quyền củng cố quyền lực và chống lại các đe doạ từ bên ngoài, đặc biệt đe doạ từ Trung Quốc. Nền học thuật và văn học của Việt Nam không thể tránh khỏi việc thẩm thấu di sản cổ điển của Trung Quốc; chữ Hán là ngôn ngữ của hành chính và giáo dục, như tiếng la-tinh ở châu Âu tiền hiện đại. Khả năng thể hiện sự thông thạo về ngôn ngữ và văn hoá Trung Quốc của các sứ giả Việt Nam ngay tại triều đình Hoa Hạ là cách quan trọng để chứng minh Việt Nam là một đất nước “văn minh” và không cần đến chính quyền Trung Quốc quan tâm chỉ bảo “khai hóa văn minh”.
Do tác động mạnh mẽ của nền văn minh Trung Quốc đối với Việt Nam, năng lực của Việt Nam được nâng cao để tiếp nhận một cách có lựa chọn các yếu tố văn minh Hoa Hạ, hoặc chí ít cũng quan trọng ở các thành tựu được hấp thu. Kể từ khi Việt Nam giành được quyền tự trị, ảnh hưởng của Trung Quốc đến xã hội Việt Nam vẫn tiếp tục mạnh mẽ như khi trực thuộc chính quyền tỉnh của Trung Quốc. Các vị vua Việt Nam có thể thúc đẩy đường lối làm việc theo kiểu Trung Quốc với nhiều thành công hơn các thái thú Trung Quốc, vì họ thường biết dân của họ sẽ chịu đựng được đến mức nào [Taylor, 1983: 298]. Hơn nữa, với kinh nghiệm thu được từ sự cai trị của Trung Quốc, người Việt Nam hiểu một cách sâu sắc những ý đồ của người Trung Quốc. Sống trong cái bóng của một đế chế lớn, người Việt nhất thiết trở thành chuyên gia về nghệ thuật sống còn, và họ nắm bắt được lề lối của Trung Quốc như một cách thức để tồn tại. Sự cần thiết phải vô hiệu hóa nguy cơ đô hộ từ phương Bắc bằng cách chiếm hữu nguồn gốc của tính hợp pháp phương Bắc khiến họ nỗ lực đầu tư để đạt được và duy trì các kỹ năng công nghệ, hành chính và văn hoá. Do đó, trong giai đoạn độc lập, tầng lớp thống trị ở Việt Nam đã học cách áp đặt các nguyên tắc của nền văn minh cổ truyền, nhờ đó vượt qua "chủ nghĩa man rợ" và loại bỏ mọi nguyên cớ khiến Trung Quốc có thể thực hiện sứ mệnh "khai hoá văn minh" trên đất đai của họ [Woodside, 1971].
Người Việt Nam vẫn duy trì ngôn ngữ riêng, và cùng với đó là những ký ức của họ về một nền văn minh tiền Hán. Việc bảo tồn tiếng Việt hết sức đáng chú ý: có nghĩa là bất cứ điều gì người Trung Quốc làm ở Việt Nam đều được điều hoà bởi thực tiễn văn hoá sao cho nó riêng biệt và tách rời khỏi ảnh hưởng tư tưởng của Trung Quốc. Mọi thứ người Việt Nam vay mượn từ Trung Quốc đều được bẻ cong qua lăng kính ngôn ngữ và văn hóa Việt. Do đó, bất chấp di sản Khổng giáo thông thường, sẽ là sai khi nghĩ rằng tâm thức thống trị đời sống trí thức ở Trung Quốc và Việt Nam luôn giống nhau. Đôi khi chúng khác nhau cũng như điều kiện địa lý khác nhau, và sự khác biệt đã giúp hạn chế quá trình Hán hoá Việt Nam.
Liệu có sự khác biệt đáng kể giữa các thiết chế Việt Nam và Trung Quốc, và liệu những khác biệt đó ít nhất thể hiện dù chỉ một phần trong quan điểm riêng mà các nhà tư tưởng Việt Nam tạo lập và theo đuổi? Câu hỏi lớn là làm thế nào người dân Việt Nam có thể hưởng lợi từ văn hoá Trung Quốc mà không trở thành người Trung Quốc? Trong hàng thế kỷ, rõ ràng Việt Nam chịu sức hút từ tư tưởng chính trị, thực tiễn xã hội, xu hướng văn học và công nghệ của Trung Quốc và tự điều chỉnh bằng cách nào đó với quyết tâm bảo vệ độc lập của Việt Nam. Việt Nam chưa bao giờ ngừng vay mượn văn hoá từ Trung Quốc; trái lại, các triều đại khác nhau của một nước Việt Nam độc lập, vào khoảng giữa năm 1010 và 1885, còn tăng mạnh hơn nữa. Trên thực tế, nhận thức được sự vượt trội về kinh tế và khoa học của Trung Quốc, nhà cầm quyền Việt Nam không muốn từ bỏ việc tiếp cận các sáng kiến của Trung Quốc, và sử dụng những cây cầu văn hoá đã được xây dựng giữa hai nước để tham gia vào thế giới Hán văn.
Tầng lớp nho sĩ được sinh ra từ cơ cấu giáo dục chính thống đã định hình, họ là những người kiên định ủng hộ một nền văn học chính thống gắn với quan niệm đạo đức Khổng giáo của xã hội, thống trị nền văn học và sử học của Việt Nam. Với tinh thần nhân văn dồi dào và tình yêu tri thức sách vở, Khổng giáo đã giúp đem lại cho Việt Nam một giai tầng học giả có ý thức lịch sử, những người có niềm tin sâu sắc rằng những nguyên tắc tiên thiên của đạo đức con người cần phải được thấu hiểu qua đọc và viết sử ký.
Việc vay mượn văn hoá này thậm chí còn quá toàn diện để có thể truy nguyên toàn bộ tính toán chiến lược một cách có ý thức. Nó đôi khi là sự thuần phục một cách không cần thiết. Chẳng hạn, Hoàng đế nhà Nguyễn thế kỷ XIX tự nhận là “Thiên tử" ( 天子), ngụ ý bình đẳng với hoàng đế Trung Quốc. Họ đã đặt tên đất nước của mình là Đại Nam (大 南) [Woodside, 1971: 9]. Lại nữa, sau năm 1802, họ đã xây dựng Kinh đô mới tại Huế ở miền Trung Việt Nam, vốn đã được lên kế hoạch là một bản sao của Kinh đô Yên Kinh của Trung Quốc. Việc bắt chước còn thể hiện trong luật nước Nam, một bản sao rõ ràng của luật pháp của Trung Quốc. Sự bắt chước đi cùng với tình trạng công khai khi Việt Nam được công nhận là "chư hầu" của Trung Quốc trong hệ thống ngoại giao Trung Quốc truyền thống cũng như việc triều cống. Và thẩm quyền của Trung Quốc đối với các tiêu chuẩn văn hoá là chuyện không phải bàn cãi khi triều đình Việt Nam luôn luôn lựa chọn sứ giả sang Trung Quốc là những học giả đồng thời là nhà thơ hoặc triết gia xuất sắc nhất Việt Nam, để chứng minh cho người Trung Quốc rằng người Việt Nam cũng có thể làm chủ được văn hoá Khổng giáo.
Các thể chế truyền thống của Việt Nam - chế độ quân chủ, cơ chế quan liêu, hệ thống luật pháp, và ngay cả dòng dõi gia tộc - tất cả đều giống Trung Quốc. Tuy nhiên, tại sao một nước Việt Nam tiền hiện đại không chỉ đơn thuần là một “Trung Quốc thu nhỏ”? Dường như câu trả lời là chủ nghĩa nhân văn Nho giáo thực dụng đã lan rộng đến Việt Nam như một phần của nền cổ điển Trung Quốc, biến tầng lớp thượng lưu Việt Nam thành một tầng lớp ý thức được việc phải có sứ mệnh độc lập đối với các nhà cai trị Trung quốc [Woodside, 1988: 29]. Trên thực tế, nghiên cứu lịch sử, vốn được các giá trị cổ điển Trung Quốc khuyến khích, chắc chắn sẽ hướng sự quan tâm của Việt Nam đến những sai lầm mà họ nghĩ họ đã phải chịu đựng trong tay Trung Quốc. Trí thức Việt Nam sống với những băn khoăn về sự tiếp nối của một nền văn hoá giàu có hình như đã mai một hoặc bị tàn phá. Lê Quý Ðôn, một nhà triết học và sử gia lỗi lạc của thế kỷ XVIII, đã đưa ra một bản kiểm kê về thư tịch và lưu trữ của Việt Nam, nhiều trong số đó đã bị phá hủy hoặc bị người Trung Quốc xâm lược cướp về nước họ. Đây là quá trình “tập hợp bất công” trên một quy mô đáng kinh ngạc: giới quan lại yêu chuộng thư tịch của Việt Nam có một bộ nhớ được bảo quản tỉ mỉ nhất về di sản văn hóa bị mất mát hoặc bị đánh cắp [Woodside, 1982].
Quá trình tương tác với Trung Quốc và việc nằm trong tầm ảnh hưởng của đế chế văn hoá Trung Hoa, trớ trêu thay lại có tầm quan trọng với việc hình thành bản sắc dân tộc Việt Nam. Những người Việt Nam có học thức thông thạo các tài liệu văn học Trung Quốc thậm chí còn cung cấp vũ khí ngoại giao chống lại Trung Quốc [Wolters, 1999: 63]. Triều đình Việt Nam đã nhiều dịp nhắc nhở triều đình phương Bắc về giáo lý của người Trung Quốc rằng một vị minh quân phải thể hiện thái độ khoan hoà với viễn khách. Các thông điệp của người Việt gửi Trung Quốc thường bóng gió những lý lẽ để can ngăn các hoàng đế Trung Hoa xâm phạm chủ quyền của Việt Nam. Mặt khác, một trong những nhiệm vụ cơ bản được giao cho ngành chép sử truyền thống Việt Nam là phải xác định được bản sắc hoàn toàn khác biệt của quốc gia này, xét về biên giới thực cũng như huyền thoại, nhằm vĩnh viễn gạt bỏ ý đồ của Trung Quốc muốn hồi sinh một giả thuyết hợp thức hoá nào đó để có cớ can thiệp. Được Vua Trần Thánh Tông ban Dụ biên soạn lịch sử Ðại Việt (được hoàn thành năm 1272), nhà sử học Lê Văn Hưu đã lắp ráp một số mảnh triết lý và lịch sử Trung Quốc, trong đó một vài mảnh được ông tách ra khỏi bối cảnh nguyên thuỷ, để thể hiện tính cổ điển của thiết chế phong kiến Việt Nam mà Trần Thái Tông và người kế vị của ông đã đấu tranh bảo vệ và chống lại Kubilai Khan [Hốt Tất Liệt].
Các mảnh ghép Trung Quốc được sử dụng để bảo vệ vị thế độc lập của các nguyên thủ Việt Nam khi đối mặt với các mưu đồ của phong kiến Trung Quốc. Chúng được thiết kế riêng cho phù hợp với lịch sử Việt Nam và cho thấy rằng mối quan hệ chư hầu giữa Việt Nam với Trung Quốc chỉ là tưởng tượng [Wolters, 1999: 86]. Lê Văn Hưu bắt đầu khảo cứu các sự kiện lịch sử kể từ năm 207 trước CN và thành tựu của người sáng lập quốc gia Nam Việt [Nanyue], Triệu Ðà [Zhao Tuo], theo sử gia, đó là người đầu tiên lập một đế chế ở phương Nam có thể tồn tại song song bên cạnh đế chế phươngBắc: «Triệu Vũ Đế [Zhao Wudi], khai thác đất Việt ta mà tự xưng Đế trong nước, ngang hàng với nhà Hán, .. mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta, công ấy có thể nói là to lớn lắm vậy. Người làm vua nước Việt sau này nếu biết bắt chước Vũ Đế mà giữ vững bờ cõi, thiết lập việc quân quốc, giao thiệp phải đạo với láng giềng, lấy lòng khoan dung để duy trì ngôi báu thì gìn giữ bờ cõi được lâu dài, người phương Bắc không thể lại ngấp nghé được” [Đại Việt sử ký, 1983: 134].
Bằng cách này, Lê Văn Hưu nhấn mạnh cơ sở pháp lý và lịch sử của nền độc lập Việt Nam. Triệu Đà, vị vua phương Nam phản kháng xâm lược phương Bắc, trở thành quốc vương hợp pháp bởi các biểu tượng văn hoá địa phương trước khi chính quyền tỉnh của Trung Quốc được biết đến. Vì vậy, Triệu Đà đại diện cho sự kết thúc của vương triều bản địa tiền Hán; ông cũng đại diện cho sự khởi đầu của thời kỳ khi khái niệm về vương quyền gắn chặt với khả năng chống lại sự hiếu chiến của Trung Quốc. Nhìn ra thực tế thì Triệu Đà không phải là người Việt Nam lúc sinh thời, song các nhà sử học Việt Nam đã nhìn thấy trong con người này tinh thần chính trị bất khuất của chính họ và dựa vào đó mà coi ông là người Việt [Taylor, 1983: 293]. Lê Văn Hưu lựa chọn Nam Việt của Triệu Ðà làm điểm bắt đầu cho lịch sử Việt Nam và điều đó trực tiếp nhấn mạnh tinh thần “bình đẳng của Việt Nam” với Trung Quốc.
Tương tự như vậy, một tác phẩm khác được sáng tác vào cuối thời Trần, Việt sử lược, đã không xếp Việt Nam vào khu vực kiểm soát bởi các vị hoàng đế khôn ngoan của Trung Quốc, cũng là nằm ngoài ảnh hưởng của văn minh Hán trong thời hoàng kim của Trung Quốc. Ý đồ của hành động này nhằm chứng minh tổ tiên của đất nước Việt Nam, những người sáng tạo ra vương quốc Văn Lang hưng thịnh với 'các phong tục thuần khiết, giản dị' tồn tại từ rất lâu trước thời kỳ có thể chịu ảnh hưởng của Trung Quốc, có tư cách bình đẳng với các vị vua sáng lập ra Trung Quốc. Trong khi Lạc Long Quân, vua đầu tiên của Văn Lang là người Việt Nam, tương đương với Hoàng đế Trung Quốc, những đổi mới văn hoá của ông có thể sánh với những cải tiến văn hoá phương Bắc. Nói rằng văn minh cổ đại của Văn Lang có sự tương đồng với thời cổ đại xa xôi của Trung Quốc trên thực tế có nghĩa là khẳng định sự bình đẳng giữa Bắc và Nam, thông qua tiêu chí chính trị và văn hoá mà người Trung Quốc đưa ra để tuyên bố ưu thế của họ hơn tất cả tộc người khác.
Việc khắc hoạ Việt Nam như một quốc gia văn hoá [văn hiến chi bang 文獻之邦] tương tự Trung Quốc sẽ được Nguyễn Trãi lặp lại vào cuối thế kỷ XV, khi ông viết Bình Ngô đại cáo, tuyên bố thất bại của nhà Minh khiến quân đội Minh triều bị đánh đuổi ra khỏi Việt Nam:
Đất đai bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Trong tuyên ngôn của mình, Nguyễn Trãi đã sử dụng các yếu tố truyền thống Trung Quốc để chỉ ra phương thức đúng đắn nhằm ngăn chặn âm mưu của nhà Minh - Trung Quốc. Đối với ông, các thể chế Hán (Sinic) không phải là “Trung Quốc” và Việt Nam không phải là một thực thể bên ngoài chỉ biết bắt chước họ [O'Harrow, 1979: 174]. Tuyên ngôn của Nguyễn Trãi là một nỗ lực chứng minh nền độc lập và bình đẳng của Việt Nam. Giống như các nho sĩ Việt Nam khác, ông tin rằng văn học cổ đại Trung Quốc có đặc trưng phổ quát chứ không chỉ đơn giản là các mô hình kinh nghiệm của Trung Quốc. Trong một số trường hợp, các học giả này đánh đồng các phương châm của Khổng giáo với một kiểu công nghệ, một công nghệ tiên tiến nhất để kiểm soát và quản lý xã hội. Do đó, họ không ngần ngại khơi gợi các đoản văn Hán ngữ như những tinh hoa về phép tu từ để minh họa vị trí cao quý của họ trên thế giới và coi bất cứ điều gì mà họ nói ra đều là chuẩn mực. Nói cách khác, các mô hình văn hoá Trung Quốc vẫn đồng nghĩa với “nền văn minh”, và bởi vậy giới nho sĩ Việt Nam không ngừng xác lập văn hoá Việt Nam tách biệt khỏi các nước láng giềng Đông Nam Á, kiên trì nâng cao nhận thức phổ biến về các chuẩn mực Nho giáo nhằm làm sâu sắc thêm mối liên kết giữa dân tộc Việt Nam và Khổng giáo. Do sự liên kết văn hóa này, trong quá khứ, các học giả Việt Nam luôn có xu hướng nhấn mạnh vai trò quan trọng của đất nước họ như một trung gian chuyển giao công nghệ giữa Trung Quốc và Đông Nam Á. Lê Quý Ðôn đã có lần tuyên bố một cách dứt khoát rằng sản vật của Việt Nam hơn hẳn Trung Quốc ở tất cả mọi thứ từ hoa trái đến rau quả. Trên tất cả, ông chỉ ra rằng các loại gạo chín sớm đa dạng đều có nguồn gốc từ Champa, sau đó đến Việt Nam trước hết, rồi mới tới Trung Quốc. Như Alexander Woodside đã gợi ý, sự lan rộng toàn thế giới của gạo Chăm vào thế kỷ XI trở thành chủ đề chính cho độc giả Việt Nam vào bảy thế kỷ sau đó, "Lê Quý Đôn đã mời họ hình dung lại toàn bộ lĩnh vực kinh tế của biển Nam Trung Quốc trong cái nhìn tách khỏi Trung Quốc và ủng hộ Đông Dương "[Woodside, 1997: 256257]. Rõ ràng mục tiêu của Lê Quý Đôn không chỉ làm giảm tầm quan trọng của Trung Quốc, mà còn lấy dữ liệu từ sự phát triển nông nghiệp khu vực để mang lại chiều sâu ý thức về bản sắc Việt Nam.
Đối với tầng lớp thượng lưu của Việt Nam những năm 1700 và đầu những năm 1800, đế quốc Trung Hoa đã không thể hoàn thiện cộng đồng lý tưởng của các triết gia Khổng học. Trong mắt người Việt Nam, Trung Quốc thực sự là một đế quốc của các đô thị thương mại khổng lồ nơi các nhà cai trị giả dối nói bằng nhiều thứ tiếng. Ngược lại, ở Việt Nam, thương mại nhỏ hơn, gần gũi hơn với quy mô của các thành phố - tiểu bang thời đại Khổng Tử, và có môi trường tiềm năng thích hợp hơn cho các giá trị Nho giáo [Woodside, 1997: 248]. Do đó, niềm tin của bậc đế vương Việt Nam là họ không cần phải là người 'Trung Quốc' để tạo ra một quốc gia có các phẩm chất như các quốc gia mà Khổng Tử ngưỡng mộ. Điều này giải thích lý do tại sao biên niên của nhà Nguyễn mô tả bậc đế vương Việt Nam trong thế kỷ XIX như là người thực sự bảo tồn Khổng học chính thống, với văn hoá vượt trội so với nhà Thanh là giống “man di” vì có nguồn gốc từ Mãn Châu.
Những tuyên bố bá quyền của Trung Quốc và cuộc kháng chiến dai dẳng của người Việt Nam chống lại tuyên bố này, minh chứng cho sự tin tưởng ngoan cường của người Việt rằng Việt Nam và Trung Quốc, trái ngược với tín điều Trung Quốc, có chủ quyền ngang nhau. Sự xác tín này rõ ràng được xác lập như là phủ nhận các tham vọng của Trung Quốc muốn chiếm lĩnh vai trò là trung tâm duy nhất trên thế giới [Wolters, 1979]. Trong lời mở đầu cho các biên niên sử Việt Nam, nhà sử học thế kỷ XV Ngô Sĩ Liên lập luận rằng người Việt có nguồn gốc từ Thần Nông, một trong những bậc minh quân huyền thoại của Trung Quốc, nhưng thuộc nhánh khác với Trung Quốc [Đại Việt sử ký, 1983: 99]. Điều này góp phần làm nên hình ảnh lý tưởng của mối quan hệ giữa người Việt Nam với Trung Quốc: có cùng nguồn gốc, nhưng với một lịch sử độc lập, ngầm phủ nhận bá quyền chính trị của Trung Quốc. Như một hệ quả, các nguyên thủ Việt Nam hình dung về thế giới từ quan điểm 'Bắc' và 'Nam', khẳng định rằng kể từ khi được độc lập khỏi ách đô hộ Trung Quốc, họ đã liên tục duy trì một truyền thống đế quốc phía Nam vốn bắt nguồn từ thời cổ đại, và do đó bác bỏ vị trí trung tâm của Trung Quốc trong vũ trụ [Nguyễn Thế Anh, 1990: iii]. Do đó, tới lượt mình, họ nỗ lực buộc các nước láng giềng Đông Nam Á nhìn nhận phiên bản của họ về một thế giới nơi họ cũng phải chiếm vị trí vượt trội [Woodside, 1971: 234-246].
Trong khi người Việt duy trì được độc lập qua nhiều thế kỷ mặc dù các hoàng đế Trung Quốc liên tục đòi áp đặt quyền lực của họ đối với Việt Nam, phần lớn là do Trung Quốc cho rằng bất cứ điều gì mà họ thèm muốn ở Việt Nam, những gì họ nhận được không xứng với thứ mà họ yêu cầu. Do đó, mối quan hệ phiên thuộc vẫn được duy trì, từ quan điểm của Trung Quốc có nghĩa là mối quan hệ của bá chủ và chư hầu, từ quan điểm của người Việt Nam là mối quan hệ của hai nước độc lập, có “chủ quyền” (dù không bình đẳng về mặt quyền lực). Tuân thủ nghiêm túc các quy tắc và diễn giải về mối quan hệ này theo như quan niệm của Việt Nam góp phần vào chung sống hòa bình. Tuy nhiên, mối quan hệ phiên thuộc không phải là quan hệ giữa hai quốc gia bình đẳng, mà là do sự sắp xếp phức tạp, theo đó, mặc dù không được thể hiện cụ thể bởi bất kỳ điều ước nào, chúng vẫn dựa trên các quan hệ cá nhân giữa hai bậc đế vương của hai nước. Điều đó ngầm hiểu là Trung Quốc thoả thuận hiện diện với tư cách cường quốc đồng ý hỗ trợ cho chư hầu của mình trong trường hợp cần thiết, và bên chư hầu ngầm chấp nhận các nghĩa vụ theo nghi lễ nhất định, nhất là các nghĩa vụ cống nộp định kỳ cho triều đình Trung Quốc. Vị thế phiên thuộc không áp đặt cho quốc gia Việt Nam, mà giành cho hoàng đế, người về nguyên tắc có tính hợp pháp vì được Hoàng đế Trung Quốc phê chuẩn. Qua nghi lễ tấn phong này, Thiên tử của Trung Quốc long trọng tuyên bố người mà ông ban cho danh hiệu “An Nam Quốc vương” là xứng đáng vì lòng trung thành và tận tuỵ. Như vậy, việc phong tặng tạo ra sự phụ thuộc, nhưng đồng thời góp phần thiết lập tính hợp thức cho nền quân chủ Việt Nam với sự giúp đỡ của nước láng giềng to lớn.
Bắt nguồn từ các cuộc chinh phạt từ thời Hán, quyền bá chủ của Trung Quốc, đến tận thế kỷ XIX được khẳng định liên quan đến lãnh thổ Việt Nam hơn là đối với dân tộc Việt Nam. Nó không chỉ gắn liền với quan điểm truyền thống về trọng luân lý và đạo đức của Trung Quốc như là bá chủ thiên hạ (天下), mà còn phân định khá rõ ở miền bắc Việt Nam, một phần của lãnh thổ 領土 hoặc “đất tiếp giáp” với Hán và Đường[2].
Sau khi Việt Nam giành độc lập, sự can thiệp của Trung Quốc tập trung chủ yếu vào việc khôi phục các vị trí hoàng thân Việt Nam bị phế truất. Vấn đề tính hợp pháp vẫn luôn là mối quan tâm của Trung Quốc cho đến thời kỳ hiện đại. Hành động của Minh Thành Tổ năm 1407 chủ đích là trị an chư hầu gặp sự biến, khi vua thuộc quốc kêu gọi giúp đỡ, và sau đó trả lại trật tự. Trong triều đại nhà Thanh, Việt Nam là một trong ba hoặc bốn chư hầu trung thành nhất trong việc cống nạp cho triều đình Bắc Kinh. Và trong nhiều trường hợp, quân đội của hoàng đế [Trung Quốc] được cử đến lãnh thổ Việt Nam, theo yêu cầu của hoàng đế Việt Nam, để đàn áp nổi loạn địa phương. Cho đến thế kỷ XIX, những sự kiện đó, cùng với mối quan hệ văn hoá và chủng tộc lâu đời, đã được người Trung Quốc xem là bằng chứng đầy đủ về quyền bá chủ không thể xoá bỏ của Trung Quốc đối với Việt Nam.
Tuy nhiên, hệ thống phiên thuộc thỏa mãn các lợi ích cơ bản của hai bên. Đối với Trung Quốc, đó là một phương tiện hành động thông minh và tiết kiệm để giữ lại trong quỹ đạo ảnh hưởng của nó một quốc gia lân cận mà vì lý do thực tiễn họ không thể kiểm soát trực tiếp. Điều này cho phép Trung Quốc có trong tầm tay một chư hầu thuần phục có thể giúp họ giữ yên xã hội phương Nam. Về phần mình, các vị hoàng đế Việt Nam ý thức rõ ràng về sự cần thiết phải chấp nhận tư cách phiên thuộc của họ, để ngăn chặn sự can thiệp trực tiếp của Trung Quốc vào công việc nội bộ. Hơn nữa, vì lợi ích, triều đình Việt Nam thà mất một phần chủ quyền để đổi lấy sự đảm bảo rằng nếu có biến trong nước, vua Việt Nam sẽ được Trung Quốc trợ giúp, Trung Quốc sẽ chịu trách nhiệm về mặt đạo đức phải bảo vệ triều đại hợp pháp mà họ đã công nhận-, và trong thời bình, sẽ không có nguy cơ bị Trung Quốc can thiệp, chinh phục và trực tiếp cai trị đất nước. Bên cạnh đó, giới cai trị ưu tú của Việt Nam dễ dàng chấp thuận chế độ chư hầu này chừng nào nó cho phép họ hưởng lợi từ lợi ích vật chất và văn hoá: các sứ thần được cử đến triều đình Trung Quốc có dịp được mang về nước mình những cuốn sách văn học và khoa học, chưa kể đến lợi nhuận từ kinh doanh phụ trong thời gian đi sứ.
Tuy nhiên, các Hoàng đế Việt Nam đã thận trọng thực hiện các hoạt động nhằm vô hiệu hóa những hạn chế của hệ thống phiên thuộc mà họ không thể công khai xoá bỏ. Bắt đầu với nhà Trần (1226-1400), những người đứng đầu Việt Nam đã sử dụng tên giả [Giả húy, 假 諱] trong thư tín ngoại giao của họ với triều đình Trung Quốc [Hoàng Xuân Hãn 1967: 143-144]. Người đi thế Quang Trung khi sang Bắc Kinh năm 1790 để nhận tấn phong nhằm mục đích tương tự [Trương Bửu Lâm 1968: 174-177]. Trong những trường hợp này, đối với các nhà cai trị Việt Nam việc lừa dối triều đình Trung Quốc không ý nghĩa bằng việc tìm ra một thủ thuật ngầm để làm mất hiệu lực việc tấn phong của Hoàng đế Trung Quốc: khi việc tấn phong dành cho một thực thể giả, nó sẽ là vô nghĩa. Bằng cách đó, tính độc lập của nền quân chủ Việt Nam ít nhất được bảo đảm.
Dù sao, người Việt Nam đã nhận thức đầy đủ về việc họ vay mượn văn hoá của một nền văn minh, thay vì nhiều nền văn minh khác nhau. Họ vẫn nghĩ như vậy cho đến khi chế độ thuộc địa của Pháp đến buộc Việt Nam phải quay lưng lại với truyền thống Trung Quốc và hướng tới văn hoá phương Tây. Sự hiện diện của Pháp cũng làm gián đoạn xu hướng địa phương hóa xã hội Việt Nam của những người Trung Quốc là thương nhân và người tị nạn đến Việt Nam. Cho đến lúc đó, những người Trung Quốc đến định cư ở Việt Nam đã thích nghi với trật tự chính trị bản địa và thường được coi là đã vượt qua “bài kiểm tra văn hoá”[3]
Sau khi bị áp đặt bởi những nguyên tắc của người Pháp, mối quan hệ lâu dài giữa Hoa kiều với môi trường văn hoá thay đổi do sự kết hợp của chính sách thực dân Pháp và sự tập trung cao độ các lao động nhập cư: không chỉ các Hoa kiều không đồng hoá được môi trường bản địa, mà còn làm cho những người nhập cư sau họ trở nên khó khăn hơn trong thích nghi. Với thành công của cuộc cách mạng cộng sản ở Trung Quốc năm 1949, tình hình biến đổi hoàn toàn. Không chỉ có mối quan hệ chặt chẽ giữa lãnh đạo và cán bộ ở cả hai Đảng Cộng sản Trung Quốc và Việt Nam,[4] mà còn cả triết lý đã nuôi dưỡng Đảng Cộng sản Đông Dương đặc biệt nhấn mạnh vào nguyên tắc "chủ nghĩa quốc tế vô sản" và ý tưởng về 'sự hiệp nhất của các đảng anh em', được so sánh ẩn dụ với “môi và răng”. Các ấn phẩm gần đây đặc biệt nhấn mạnh vai trò của người Trung Quốc trong việc lập kế hoạch và thậm chí chỉ huy các chiến dịch quân sự trong các cuộc chiến do Việt nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành chống Pháp và Hoa Kỳ[5]. Thực tế, với quan hệ chặt chẽ Việt-Trung thời đó và kinh nghiệm quân sự của Trung Quốc, các nhà lãnh đạo dường như đã cho phép Trung Quốc có quyền tham gia rộng rãi và ảnh hưởng đến quyết định được đưa ra trong chiến tranh. Chất lượng mới của mối quan hệ Trung-Việt thể hiện trong việc sử dụng thuật ngữ "bọn phong kiến phương Bắc" để chỉ người Trung Quốc khi họ xâm chiếm Việt Nam. Do đó, sự nổi lên của cuộc xung đột Trung-Xô vào cuối những năm 1950 và bùng nổ năm 1960 dường như là một sự xáo trộn khủng khiếp của trật tự tự nhiên. Tương tự, trong vòng 15 năm tiếp theo, trong khi cuộc chiến tranh chống Mỹ phát triển và tiếp tục qua các giai đoạn khác nhau, người Việt Nam đã kiên nhẫn quản lý được mối quan hệ kép, một mặt nhận được sự trợ giúp thiết yếu từ Liên Xô và khối XHCN Châu Âu và mặt kia, từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Chuyển đổi một cách hiệu quả mối quan hệ truyền thống được thể hiện dưới hình thức phiên thuộc thành một mối quan hệ mới trên cơ sở bình đẳng về lý thuyết đòi hỏi phải có sự điều chỉnh lớn trong quan điểm của mỗi quốc gia đối với phía bên kia. Đối với vấn đề đó, áp lực của Trung Quốc dưới bất kỳ hình thức nào cũng được người Việt Nam cảm nhận bằng trực giác như một mối đe dọa đối với sự sống còn của dân tộc. Mặt khác, sự khẳng định của Việt Nam về các lợi ích quốc gia chứ không phải chiều theo chính sách của Trung Quốc cũng được người Trung Quốc cảm nhận theo bản năng như một sự xấc xược gần với bất phục tùng. Như một hệ quả không thể tránh khỏi của sự khác biệt về quy mô giữa hai nước, những cảm xúc này vẫn còn nằm ở gốc rễ của quan hệ Trung-Việt ngày nay như đã từng xảy ra một hoặc hai ngàn năm trước đây. Những nguyên nhân khác nhau của sự đổ vỡ mối quan hệ hòa bình giữa hai nước năm 1978 (khôi phục lại những căng thẳng cũ dọc theo biên giới, sự can thiệp của người Việt để giúp lật đổ chế độ Pol Pot ở Cambodge) có lẽ ít quan trọng hơn so với việc Trung Quốc không thích ý tưởng về một nước Việt Nam thật sự độc lập. Quan hệ Việt-Trung xấu đi kể từ khi Trung Quốc cắt viện trợ vào giữa năm 1978 và kể từ khi Hiệp ước Liên Xô-Việt Nam được ký kết tháng 11 năm đó đã gần đạt đến điểm châm ngòi cho cuộc xâm lăng của Trung Quốc, một sự đảo ngược chính sách cũ của «giới phong kiến phương Bắc»[6]. Cuộc tấn công kéo dài 28 ngày này và việc quân đội Trung Quốc rút khỏi Việt Nam kéo theo những diễn biến liên quan, chẳng hạn việc trục xuất người Hoa ra khỏi Việt Nam, thay đổi cán cân lực lượng ở biên giới phía Nam Trung Quốc. Chiến tranh với Việt Nam là một cú tát vào mặt những người theo chủ nghĩa lý tưởng ở Trung Quốc vẫn còn tin vào tính đúng đắn của “chủ nghĩa quốc tế vô sản”[7].
Tuy nhiên, quan hệ ngoại giao Việt-Trung không bị phá vỡ. Bên cạnh đó, khi Liên Xô sụp đổ, Hà Nội không còn cách nào khác ngoài việc sớm nối lại quan hệ với Bắc Kinh. Chắc chắn, sự e ngại và sự không đồng thuận vẫn dồn về những ý đồ của Trung Quốc. Những ngờ vực sâu sắc trong lịch sử giữa hai nước sẽ không dễ tiêu tan. Trong khi những người bảo thủ Việt Nam, đặc biệt là quân đội, đánh giá Trung Quốc như là đồng minh cộng sản cuối cùng quan trọng nhất, các nhà cải cách chỉ ra mối đe dọa mà Trung Quốc có thể gây ra trong một hoặc hai thập kỷ khi họ củng cố sức mạnh quân đội, đặc biệt là hải quân. Tuy nhiên, người Việt Nam đã tích cực tìm cách cải thiện và hoàn toàn bình thường hóa quan hệ thông qua một loạt các chuyến thăm cấp cao và các hiệp định. Quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc ấm hơn vào năm 1989, một thập kỷ sau khi quân đội Trung Quốc tấn công miền Bắc Việt Nam để "dạy cho Việt Nam một bài học" vì đã xâm lược Cambodge. Thương mại biên giới hưng thịnh được khôi phục lại. Khách hàng từ khắp Việt Nam đến thị trấn biên giới Ðồng Ðăng để giao thiệp với các thương gia tư nhân để mua quạt, phích nước, xe đạp, băng ghi âm, đồ gốm sứ, bia và hàng tiêu dùng khác do Trung Quốc sản xuất. Thương nhân Trung Quốc tìm mua hải sản, động vật hiếm để làm thuốc, đồng, vải, rau, thịt và gạo. Về phần mình, Việt Nam đã từ bỏ các chính sách phân biệt đối xử với Hoa kiều vốn đã khiến cho Bắc Kinh định tố cáo vào năm 1978. Quan chức Việt Nam đã sẵn sàng thừa nhận rằng họ đã mắc sai lầm trong cuộc vận động chuyển đổi xã hội chủ nghĩa tháng 3 năm 1978 để cải tạo công thương nghiệp, bắt các hãng công thương nghiệp tư nhân theo tư bản ở miền Nam - khoảng một nửa trong số đó là người Hoa.
Rõ ràng, Trung Quốc đã trở thành một cường quốc khu vực duy nhất, làm bất cứ việc gì cũng phải xem xét mọi ý đồ và chính sách của họ. Vị trí của Trung Quốc trong sự cân bằng quyền lực của châu Á có thể là của một nước Trung Hoa mới, một phiên bản hiện đại bắt đầu hình thành rõ ràng khi Bắc Kinh tìm cách khôi phục lại vị trí lịch sử của Trung Quốc như là cường quốc của châu Á. Trong quan hệ quốc tế, sức mạnh quân sự, chính trị nội bộ, tiến bộ kinh tế và chủ nghĩa dân tộc lên cao, Trung Quốc nổi lên như một cường quốc châu Á mà mọi quốc gia phải tính đến. Khái niệm Trung Quốc như là cường quốc vượt trội ở châu Á đã quay trở lại, vì vậy mà không một quyết định nào đưa ra mà thiếu sự phê chuẩn của Bắc Kinh[8]. Nhưng, khi Bắc Kinh tuyên bố bắt buộc phải có "mối quan hệ tốt đẹp với các nước xung quanh", Giang Trạch Dân đã trích dẫn Tân Hoa Xã, cơ quan thông tấn quốc gia Trung Quốc, nói về xung đột Trung-Việt năm 1979 rằng “một số vấn đề lịch sử còn lại” có thể được giải quyết hợp lý, miễn là hai bên biết nhìn xa trông rộng, hiểu nhau và tham khảo ý kiến một cách công bằng và hợp lý. Trong những trường hợp này, sức mạnh chính định hình chính sách đối ngoại của Việt Nam phải là Trung Quốc. Trong những năm gần đây, quay trở lại với Trung Quốc như là một nguồn hỗ trợ tư tưởng và chính thống, các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam liên tục thực hiện các chuyến hành hương của họ đến Bắc Kinh, nơi họ cam kết các mối quan hệ về ý thức hệ với các đối tác Trung Quốc của họ, viện dẫn các ngôn từ hoa mỹ của chủ nghĩa marxisme-léninisme và cam kết đưa quan hệ Việt-Trung lên “một tầm cao mới”.
Ngày 8 tháng 12 năm 1997, Lý Thụy Hoàn李瑞環, Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc và là Chủ tịch Hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc [Mặt trận tổ quốc], tuyên bố trong chuyến thăm Việt Nam: «Trung Quốc và Việt Nam núi liền núi sông liền sông, nhân dân hai nước chia sẻ tình hữu nghị truyền thống qua bao đời nay. Trong cuộc đấu tranh cách mạng dài lâu, nhân dân Trung Quốc và Việt Nam đã ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau, chia ngọt sẻ bùi, chiến đấu bên cạnh nhau và tạo ra một sự đồng cảm cách mạng sâu sắc. Trong những năm qua, Trung Quốc và Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng kể trong mối quan hệ láng giềng và hữu nghị tốt đẹp. Trung Quốc và Việt Nam chia sẻ các mục tiêu và nhiệm vụ cũng như những khó khăn chung ... ». Đáp lại, Chủ tịch nước Trần Ðức Lương bày tỏ: "Việt Nam coi trọng mối quan hệ hữu nghị truyền thống với Trung Quốc, và sẽ làm việc hết mình để thực hiện các mối quan hệ hợp tác với Trung Quốc một cách toàn diện, trên tinh thần hữu nghị vào thế kỷ XXI”[9]. Kể từ đó, các diễn ngôn chính thức đều nhấn mạnh mối quan tâm chung rất quan trọng mà cả Trung Quốc và Việt Nam đều chia sẻ là phát triển thành công "nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa". Trung Quốc đứng một mình trong số 5 quốc gia xã hội chủ nghĩa còn lại và được coi là thành công trong nỗ lực thực hiện tư tưởng này. Hành trình tới Trung Quốc để nghiên cứu khả năng áp dụng các cải cách thị trường xã hội chủ nghĩa kiểu Trung Quốc đối với Việt Nam, do đó là thiết yếu. Bốn tương đồng cơ bản giữa các cuộc cải cách ở Trung Quốc và Việt Nam được kể ra là: theo đuổi chủ nghĩa xã hội có tính đến điều kiện của từng quốc gia; đổi mới và cải cách làm cơ sở thúc đẩy phát triển kinh tế và ổn định tình hình chính trị; huy động nguồn lực trong nước đồng thời tận dụng hợp tác quốc tế; tất yếu phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.[10]
Phát biểu trước Quốc hội Việt Nam ngày 28 tháng 11 năm 1998, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm tuyên bố: " Nhận thức rõ ràng tầm quan trọng của quan hệ Việt-Trung, chúng ta đã tích cực và chủ động đẩy mạnh tình hữu nghị và quan hệ hợp tác với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong nhiều lĩnh vực. Chúng ta cũng đã duy trì tất cả các cuộc họp cấp cao hàng năm. Sự kiện nổi bật nhất trong năm nay là chuyến thăm hữu nghị chính thức tới Trung Quốc của Thủ tướng Phan Văn Khải vào tháng 10. Việc trao đổi các chuyến thăm giữa các ngành và địa phương ở hai nước tiếp tục phát triển tích cực. Chỉ riêng trong 9 tháng đầu năm nay, 80 chuyến viếng thăm trao đổi đã được thực hiện bởi các phái đoàn từ cả hai phía ở tất cả các cấp. Chúng ta đã tích cực đưa ra các biện pháp thiết thực để tăng cường hiệu quả của hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư và tăng khối lượng thương mại. Chúng ta đang phấn đấu đưa khối lượng thương mại song phương lên 2 tỷ đô la vào năm 2000. Gần đây, các hiệp định thương mại biên giới, trợ giúp pháp lý và các dịch vụ lãnh sự sẽ giúp khôi phục lại trật tự quản lý khu vực biên giới. Chúng ta đã cố gắng đẩy nhanh quá trình đàm phán cho việc ký kết thoả thuận về biên giới đất liền và thoả thuận về việc phân định Vịnh Bắc Bộ vào năm 2000 phù hợp với sự đồng thuận của các nhà lãnh đạo cấp cao của hai nước. Nói tóm lại, chúng ta đã thực hiện được những tiến bộ đáng kể trong mọi cuộc đàm phán”[11].
Về vấn đề biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc, các cuộc đàm phán tẻ nhạt và không mang tính chiến lược, liên quan đến hàng trăm điểm còn gây bất đồng trong đo lường liên quan đến những sai số dưới vài trăm mét có nguồn gốc từ một bản đồ thế kỷ trước. Tuy nhiên, tranh cãi về đất đai biên giới được giải quyết nhanh chóng. Tháng 12 năm 1999, Việt Nam và Trung Quốc đã đạt được một thỏa thuận lịch sử về phân định ranh giới đất liền. Một năm sau, một thỏa thuận khác giải quyết vấn đề Vịnh Bắc Bộ bằng cách vẽ đường chia đều giữa Việt Nam và đảo Hải Nam. Tuy nhiên, hai bên vẫn còn xa nhau khi đề cập đến hai quần đảo trên biển Đông nơi họ có những tuyên bố tranh chấp về Trường Sa và Hoàng Sa[12]. Hai nhóm đảo tranh chấp ngoài khơi bờ biển Việt Nam vẫn là những điểm nóng tiềm ẩn trong quan hệ Việt-Trung. Trường Sa (Nam Sa theo tiếng Trung Quốc), "hòn đảo của những nơi nguy hiểm”, như cách gọi của các thủy thủ thế kỷ XIV, có tầm quan trọng vì các mỏ dầu tiềm năng, các vùng đánh cá phong phú và vị trí chiến lược cùng với các tuyến vận tải chính thông qua biển [Đông của Việt Nam]. Trung Quốc nhắc lại những gì họ gọi là “Chủ quyền không thể tranh cãi” kể từ triều đại nhà Đường đối với Trường Sa. Việt Nam tuyên bố chủ quyền dựa vào các bản đồ thời Pháp thuộc và bằng chứng khảo cổ học (đặc biệt là gốm Việt Nam có niên đại thế kỷ XIII). Một số nội dung tranh cãi liên quan đến vấn đề định nghĩa. Điều thực sự quan trọng là hình ảnh mà những hòn đảo này đại diện, biểu tượng. Nếu mối quan hệ với Trung Quốc đã được cải thiện liên tục trong thập kỷ vừa qua kể từ khi bình thường hoá quan hệ, tất cả không có gì ngoài việc hoà giải liên quan đến Trường Sa.
Những tranh chấp lãnh thổ này vẫn còn âm ỉ, dù vào tháng 6 năm 2000, 21 năm sau khi hàng nghìn binh lính Trung Quốc đổ vào Việt Nam để dạy cho Việt Nam một bài học vì đã xâm lược Cambogde vào Giáng sinh năm 1978, 16 trong số các quan chức cấp cao nhất của Việt Nam đã tới Trung Quốc để thảo luận một bài học khác, không được tuyên bố công khai: làm thế nào để cải cách một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mà không mất đi sự kiểm soát của Đảng. Sự phát triển là một điều phi thường. Với nền kinh tế ảm đạm và Đảng Cộng sản Việt Nam bị ám ảnh phải duy trì vai trò lãnh đạo, Hà Nội dường như tìm kiếm chỗ cứu hộ trong mối quan hệ gần gũi với kẻ thù lâu đời nhất [Chanda, 2000]. Được điều hành bởi Uỷ viên Bộ Chính trị Trung Quốc Lý Đình Giới 李廷介, các đại biểu Việt Nam đã tham gia “Toạ đàm lý luận” kéo dài 2 ngày, bắt đầu từ 13 tháng 6, sau đó đến Tây Nam Trung Quốc để tiến hành khảo sát thực địa về cải cách kinh tế. Khi cuộc họp bắt đầu, Bắc Kinh tuyên bố đã cho Việt Nam 55 triệu đô la để nâng cấp hai nhà máy thép và phân bón do Trung Quốc xây dựng. Cuộc họp là một trong nhiều dấu hiệu của nối lại tình hữu nghị, nếu không thì là việc Việt Nam quay trở về với một trong những vai trò lịch sử của nó, trong đó Việt Nam là học sinh và Trung Quốc là thày giáo. Đây được gọi là thuật ngữ chính thức như là tình bạn dựa trên “16 chữ vàng”, mà báo Nhân Dân của Đảng Cộng Sản Việt Nam kể ra: "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" [13].
Tờ báo nhấn mạnh rằng việc trao đổi quan điểm và kinh nghiệm, đặc biệt trong giáo dục chính trị, giữa hai bên là rất cần thiết cho việc xây dựng và đổi mới đảng trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, sự hiểu biết lẫn nhau và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ được phát triển theo nguyện vọng và lợi ích của mỗi quốc gia.
Rõ ràng, các động thái chiến thuật nằm dưới sự ấm dần lên sau một thời kỳ xung đột giữa hai nước. "Hãy nhớ rằng, sau khi đánh bại Trung Quốc, chúng tôi luôn gửi lời tri ân”, một quan chức của Việt Nam nói về sự bực bội gần đây của Hà Nội. Tuy nhiên, một số ở Việt Nam nghi ngờ về sự khôn khéo đằng sau. Trần Bạch Ðằng, một nhà lãnh đạo cộng sản kỳ cựu ở thành phố Hồ Chí Minh, tuyên bố thẳng thừng rằng Trung Quốc đang tiến hành chiến tranh kinh tế chống lại Việt Nam bằng cách làm tràn ngập thị trường của Việt bằng hàng hóa giá rẻ [Chanda, 2000]. Nói về tranh chấp lãnh thổ của Việt Nam với Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa, ông nói: "Trung Quốc là mối đe dọa không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với thế giới. Trung Quốc đã tấn công tất cả các nước láng giềng: Ấn Độ, Việt Nam và Nga". Mặc dù họ chia sẻ các quan niệm chung về xã hội chủ nghĩa, sự gần gũi về mặt địa lý, và các mối quan hệ đã bình thường hoá, cả hai quốc gia vẫn còn cảnh giác với nhau.
Tư tưởng và mối quan tâm quốc gia chi phối việc bình thường hóa và phát triển quan hệ Việt-Trung. Trung Quốc và Việt Nam đang chứng kiến một tình huống mới khi cơ hội và thách thức cùng tồn tại. Vì cả hai quốc gia đang chia sẻ một gắn kết chung - tư tưởng cộng sản, cải cách kinh tế, và hội nhập trong nền kinh tế toàn cầu – họ thể hiện những tương đồng tuyệt đối. Các nhà lãnh đạo Việt Nam đặc biệt muốn biết Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cân nhắc ra sao những rủi ro đối với chế độ độc đảng khi tham gia WTO, và nó tác động như thế nào đến người dân Trung Quốc. Họ muốn tìm hiểu làm thế nào để bảo đảm rằng nguyên tắc cộng sản không bị phá vỡ khi mở cửa ra với kinh tế thế giới[14]. Cũng giống như ở Trung Quốc, chống tham nhũng nhằm mục đích nhằm củng cố nền tảng chính trị của một nhóm nắm quyền. Các nhà tư tưởng Trung Quốc và Việt Nam đồng thuận trong việc đạo đức hóa hình ảnh Đảng Cộng sản của họ để chống lại các cú sốc từ bên ngoài. Và cũng giống như Trung Quốc, các nhà lãnh đạo Việt Nam tìm thấy một kẻ thù nước ngoài thích hợp, và nếu như không có, họ phải tạo ra: cáo buộc lâu dài về “gián điệp nước ngoài” không phải là điều có thể được chứng minh, nhưng phục vụ một mục đích tốt, vì vậy chính quyền Hà Nội vẫn tiếp tục chiến dịch chống lại kẻ thù này. Đối với vấn đề đó, sự đàn áp của Trung Quốc giành cho Pháp Luân Công không nghi ngờ gì đã được các lãnh đạo Việt Nam khen ngợi và coi là nhằm tăng cường các xu hướng đàn áp đối với bất kỳ nhóm nào cố gắng hoạt động độc lập với quyền lực nhà nước. Quan điểm của Trung Quốc về nhân quyền và tự do tôn giáo là đối trọng chống lại áp lực của phương Tây và củng cố mạnh thái độ chính thức của Việt Nam.
Mặc dù vậy, mục tiêu cơ bản của Việt Nam vẫn là tránh phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc. Cuộc khủng hoảng châu Á đã làm thay đổi vị thế của Việt Nam trong không gian của khu vực. Tìm kiếm sự cân bằng giữa Đông Nam Á và Trung Quốc, chính phủ Việt Nam thực hiện một cách tiếp cận chiến lược và chính trị trong lĩnh vực quan hệ đối ngoại, ngược lại với hành động có xu hướng nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia của mình. Trên thực tế, việc Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995 chủ yếu là từ các động cơ chính trị: niềm tin rằng những xích mích xưa cũ giữa Việt Nam và Trung Quốc ít có khả năng bùng phát thành xung đột công khai khi Việt Nam thuộc về ASEAN, một nhóm có tầm quan trọng lớn đối với Trung Quốc. Trong khi đó, trong lĩnh vực kinh tế, Việt Nam cạnh tranh với Trung Quốc trong một loạt các mặt hàng xuất khẩu từ giày dép đến dệt may, và các doanh nhân địa phương đã kinh ngạc trước triển vọng đối mặt với một người khổng lồ cạnh tranh như vậy ở phía Bắc khi các cam kết cải cách của Trung Quốc với WTO được kích hoạt. Mối quan ngại là hàng hoá Trung Quốc, đã được bán rộng rãi ở Việt Nam, có thể tiếp tục tràn ngập khi nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục tăng tốc. Hiện nay, mặc dù Hà Nội rõ ràng trải nghiệm những cảm xúc phức tạp về đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam, họ muốn thấy việc buôn lậu hàng Trung Quốc phải chấm dứt ở biên giới.
Như vậy, Việt Nam dựa vào hệ tư tưởng để đạt được các mối quan hệ song phương có khả năng ngăn ngừa xung đột còn bỏ ngỏ, trong khi thừa nhận vị thế quốc tế vượt trội hiện tại của Trung Quốc, đáp lại các cam kết của họ đối với an ninh và thương mại quân bình. Tất cả mọi thứ đều được xem xét, tuy nhiên, những tương đồng về ý thức hệ dường như vẫn chưa đủ để chiếm ưu thế trong suốt lịch sử thù hận và nghi kị mà cả Trung Quốc và Việt Nam đều có điểm chung[15].
T.P.H dịch
Tài liệu tham khảo:
Bùi Xuân Quang (2000), La troisième guerre d’Indochine, 1975-1999. Sécurité et géopolitique en Asie du Sud-Est. Paris, L’Harmattan.
Chanda, Nayan (2000), “Friend or Foe? Hanoi has embarked on a controversial policy of closer ties with its oldest enemy – China”. Far Eastern Economic Review, June 22.
Chemillier-Gendreau, Monique (1996) La souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys. Paris, L’Harmattan.
Đại-Việt sử ký toàn thư. Bản dịch:1983. Hanoi, Nxb. Khoa học Xã hội, vol. 1.
Eastman, Lloyd E. (1967), Throne and mandarins. China’s search for a policy during the Sino-French controversy, 1880-1885. Cambridge, Harvard U.P.
Goscha, Christopher E. (1999), “Entremêlements sino-vietnamiens: Réflexions sur le sud de la Chine et la révolution vietnamienne entre les deux guerres”. Approches-Asie 16:81-108.
Hoàng Xuân Hãn (1967) “Vụ Bắc-Sứ năm Canh thìn đời Cảnh Hưng”. Sử Ðịa [History-Geography, Saigon] 6: 3-5, 142-155.
Nguyễn Thế Anh (1989) “La frontière sino-vietnamienne du xie au xviie siècle”. In Les frontiers du Vietnam. Paris, L’Harmattan: 65-69.
Nguyễn Thế Anh (1990), Le Đại-Việt et ses voisins. Paris, L’Harmattan.
Nguyễn Thế Anh (1996), “L’immigration chinoise et la colonisation du delta du Mékong”. The Vietnam Forum, 1: 154-177.
Nguyễn Việt, Vũ Minh Giang, Nguyễn Mạnh Hùng (1983), Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm. Hà Nội: Quân đội nhân dân.
O’Harrow, Stephen (1979), “Nguyễn Trãi’s Bình ngô đại cáo 平吳大誥 of 1428: The Development of a Vietnamese National Identity”, Journal of Southeast Asian Studies,10-1.
Qiang Zhai (2000) China and the Vietnam wars, 1950-1975. Chapel Hill, University of North Carolina Press.
Stuart-Fox, Martin (2002) China and Southeast Asia. St Leonards, Allen and Unwin, 2002.
Taylor, Keith W. (1983) The Birth of Vietnam. Berkeley, University of California Press.
Trocki, Carl A. (1997) “Chinese Pioneering in Eighteenth-Century Southeast Asia”, The Last Stand of Asian Autonomies, A. Reid ed. Houndmills, Macmillan Press: 83-101.
Trương Bửu Lâm(1968). “Intervention versus tribute in Sino-Vietnamese relations”. In The Chinese World Order, John K. Fairbank ed. Cambridge, Harvard U.P.: tr.165-179.
Văn học Việt Nam trên những chặng đường chống phong kiến Trung Quốc xâm lược(1981), Hanoi, Nxb. Khoa học Xã hội.
Việt sử lược. Trần Quốc Vượng dịch: 1960. Hà Nội: Văn Sử Địa, 1960.
Wolters, O. W. (1979), “Historians and emperors in Vietnam and China: Comments arising out of Lê Văn Hưu’s History, presented to the Trần court in 1272”. In Perceptions of the Past in Southeast Asia, A. Reid & D. Marr ed. Singapore, Heinemann.
Wolters, O. W. (1999), History, Culture and Region in Southeast Asian Perspectives. Ithaca, seap.
Woodside, Alexander (1971), Vietnam and the Chinese Model . Cambridge, Harvard University Press.
Woodside, Alexander (1982), “Conceptions of Change and of Human Responsibility for Change in Late Traditional Vietnam”. In Moral Order and the Question of Change:Essays on Southeast Asian Thought , David K. Wyatt & Alexander Woodside ed. New Haven, Yale Univ. Southeast Asian Studies: tr.104-150.
Woodside, Alexander (1988) “Vietnamese History: Confucianism, Colonialism, and the Struggle for Independence”, The Vietnam Forum 11: 21-48.
Woodside, Alexander (1997). “The Relationship between Political Theory and Economic Growth in Vietnam, 1750-1840”. In The Last Stand of Asian Autonomies. Responses to Modernity in the Diverse States of Southeast Asia and Korea, 1750-1900 , A. Reid ed.Houndmills, Macmillan Press: tr. 245-268.
[1] Nguyên văn Anh ngữ “Attraction and Repulsion as the Two Contrasting Aspects of the Relations between China and Vietnam”, được trình bày trong Hội thảo China and Southeast Asia: Historical Interactions. An International Symposium, University of Hong Kong, 19-21/07/2001 và được xuất bản trong Tonan Ajia Kenkyu (Southeast Asian Studies) [Kyoto Univ.], vol.40, n°4 (03/2003), tr.444-458; East Asian Science, Technology, and Medicine(Tübingen), n°21 (2003), tr.94-113
[2] Ở nửa sau thế kỷ XIX, người phát ngôn Trung Quốc là Tăng Kỷ Trạch vẫn còn tuyên bố rằng “Việt Nam thuộc Trung Hoa”, do đó “Trung Hoa có trách nhiệm bảo hộ toàn bộ lãnh thổ của Việt Nam” (dẫn theo Eastman, 1967: 39).
[3] Xem Nguyễn Thế Anh, 1996 và Trocki, 1997.
[4] Về những tranh luận của mối quan hệ qua lại trước 1945 giữa ĐCS Trung Quốc và Việt Nam, xem Goscha, 1999.
[5] Quang Zhai 2000.
[6] Về vấn đề này, xem Bùi Xuân Quang: 2000.
[7] Trong ghi chép cá nhân, Martin Stuart-Fox cho rằng cú tát này lớn hơn đối với những người theo chủ nghĩa lý tưởng ở Việt Nam vốn hy vọng “chủ nghĩa quốc tế vô sản” có thể thay thế cho “chủ nghĩa bành trướng” truyền thống.
[8] Xem Stuart-Fox 2002, tác giả chứng minh rằng, khi sức mạnh của Trung Quốc gia tăng và chủ nghĩa Marx được thay thế bằng chủ nghĩa dân tộc, không chỉ Trung Quốc quay trở lại các mối quan hệ truyền thống với Đông Nam Á, mà các quốc gia Đông Nam Á cũng đang đáp lại theo cùng một hướng.
[9] Xinhua Domestic Service [Phát thanh quốc nội của Tân Hoa xã], 8/12/1997.
[10] Nhân Dân, 16/10/1998.
[11] Bài phát biểu của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm tại phiên khai mạc thứ 4, kỳ họp thứ 10 Quốc hội Việt Nam, 28/11/1998.
[12] Xem Chemillier-Gendreau: 1996.
[13] Kể từ khi bình thường hoá quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam năm 1991, việc trao đổi chuyến thăm và tư vấn thường xuyên về các vấn đề lớn giữa lãnh đạo hai nước được coi là đóng một vai trò không thể thay thế trong việc thúc đẩy quan hệ song phương. Gần đây, trong một bài xã luận ngày 7 tháng 9 năm 2001, báo Nhân Dân mô tả chuyến thăm Hà Nội của Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Trung Quốc Lý Bằng như một nguồn động viên cho nhân dân Việt Nam và một biểu hiện sống động của hai nước mong muốn phát triển mối quan hệ trên nguyên tắc ": "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai"”. Tờ báo này cũng ca ngợi những thành công lớn của nhân dân Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đạt được thành tựu trong xây dựng quốc gia, phát triển kinh tế đều đặn trong hơn hai thập kỷ cải cách và mở cửa. Tờ báo nhắc lại rằng, kể từ đầu những năm 1990, hai nước đã phấn đấu để thúc đẩy kinh tế chính trị, trao đổi văn hoá nhằm nâng cao hợp tác toàn diện song phương trong các khía cạnh mới.
[14] Cụ thể, quyết định đưa ra vào giữa năm 2001 để hoàn thiện sửa đổi hiến pháp năm 1992, với chủ trương tôn vinh quyền của khu vực tư nhân, khuyến khích Việt Nam bám sát kế hoạch của Trung Quốc trong việc cho phép các doanh nhân tham gia Đảng Cộng sản cầm quyền.
[15] Việc thay thế Lê Khả Phiêu trong chức vụ người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 2001 là do quá gần gũi với Trung Quốc và những cáo buộc ông đã nhân nhượng quá nhiều trong đàm phán đường biên giới với Bắc Kinh, luôn được coi là đối thủ truyền thống của Việt Nam mặc dù có hệ tư tưởng chung.
Nguồn : viet-studies.net