Nguyễn Đình Cống
I- Giới thiệu
Ngày 17 tháng 5/ 2021, các báo ở Việt Nam đồng loạt đăng bài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" (gọi tắt là Bài báo). Bài báo ký tên Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam,
Bài báo dài 8180 chữ, trình bày liền một mạch, có thể phân thành 10 đoạn với tiêu đề do tôi đặt như sau:
Đoạn 1- Đặt vấn đề với 4 câu hỏi về CNXH và xây dựng CNXH ở VN. 610 chữ
Đoạn 2- Nhận xét chủ nghĩa tư bản. 1080 chữ.
Đoạn 3- Việt Nam cần xây dựng XHCN. 1149 chữ.
Đoạn 4- Điểm qua những việc cần làm. 437 chữ.
Đoạn 5 - Kinh tế thị trường định hướng XHCN. 703 chữ.
Đoạn 6- Phát triển văn hóa. 304 chữ.
Đoạn 7- Nhà nước pháp quyền XHCN. 537 chữ.
Đoạn 8 - Xây dựng Đảng. 400 chữ.
Đoạn 9- Thành tích và tồn tai của thời kỳ 35 năm đổi mới. 1929 chữ.
Đoạn 10- Thời kỳ quá độ. 984 chữ.
Bài báo đã được quan tâm của báo chí cả hai phía, lề Đảng và lề Dân, của người trong nước và ở nước ngoài.
Nhiều báo lề Đảng không những đăng toàn văn mà còn rất nhiều bài hưởng ứng, ca ngợi lên tận mây xanh, cho rằng bài báo có tính khoa học và tính thực tiễn rất cao. Rất nhiều bài, không thể kể hết.
Báo lề Dân cũng khá kịp thời đăng một số bài phản biện. Chỉ trong vài ba ngày từ 18 tháng 5 đã có các bài của Phạm Trần, Lưu Trọng Văn, Đào Tiến Thi, Âu Dương Thệ, Nguyễn Mạnh Hùng, Tô Văn Trường. Nguyễn Tô Hiệu, Hoàng Dũng, Nguyễn Ngọc Chu, Hải Triều. Đài RFA và BBC cũng đã có vài bài bình luận. Ngoài ra một số trí thức quan tâm thời cuộc cũng có những trao đổi liên quan đến BV như Nguyễn Khắc Mai, Mạc Văn Trang, Nguyễn Ngọc Lanh, Chu Hảo, Nguyễn Quang A, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Trung, Phạm Xuân Đại.
Viết bài này, tôi trình bày những suy nghĩ của cá nhân, trong đó có một số ý kiến trùng với các tác giả kể trong đoạn trên. Xin cám ơn các vị đã kịp thời viết ra những nhận xét đúng, sắc sảo và xin thông cảm với những ý trùng nhau. Để tránh bài quá dài tôi không trích dẫn bài của các vị, tôi không cố tình đạo văn của các vị.
II-Nhận xét chung về Bài báo
Ký tên Bài báo bắt đầu bằng Giáo sư, Tiến sĩ. Ghi như thế phải chăng có ý nhấn mạnh rằng đây là một “Bài báo khoa học” của một nhà khoa học. Trên tinh thần xem là Bài báo khoa học mà tôi viết những lời trao đổi, có tính phản biện, với một giáo sư, tiến sĩ.
Tuy cho rằng đây là một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong phú và phức tạp, nhưng nhìn chung, Bài báo không có gì mới mà nhiều chỗ còn bị nhầm lẫn hoặc ngụy biện. Trừ đoạn 1 và đoạn 2, nội dung chủ yếu của các đoạn còn lại là những điều đã có trong văn kiện Đại hội 13 ĐCSNN. Văn kiện này được xem là công trình của một tập thể.
Nếu như tác giả công bố Bài báo trước khi có văn kiện thì ý nghĩa bản quyền tác giả của nó được công nhận vì có thể cho rằng đó là cơ sở để lập văn kiện. Nhưng khi Bài báo được công bố sau văn kiện thì bản quyền của tác giả đã bị mất gần như hoàn toàn. Ở đây chỉ đề cập bản quyền mà chưa bàn đến nội dung.
Viết bài này tôi không bàn đến các văn kiện ĐH Đảng, mà chỉ bàn đến những khía cạnh khoa học của một bài báo, có chỗ nào đụng chạm đến ông Trọng thì đó là đụng đến ông Giáo sư Tiến sĩ, không liên quan gì đến ông Tổng Bí thư.
III- Bốn câu hỏi
Bài báo nêu ra bốn câu hỏi rồi lần lượt trả lời. Sẽ xin phân tích, bình luận, phản biện từng ý trong nội dung của các trả lời và của vài câu hỏi.
Câu 1- Chủ nghĩa xã hội là gì?
GS Trọng đưa ra mấy ý sau: “Chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: chủ nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ…. Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác - Lênin trong thời đại ngày nay”. Thé rồi Bài viết trình bày:
“Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Phải chăng đoạn vừa nêu là một định nghĩa để trả lời câu hỏi Chủ nghĩa xã hội là gì? Không phải! Định nghĩa phải ngắn gọn, súc tích, không dài lê thê như thế. Bài viết ghi rằng đó là nhận thức tổng quát. Thực ra đoạn trên là mô tả một số tính chất. Cũng có thể dùng mô tả để định nghĩa bằng cách chỉ ra những dấu hiệu bản chất, nhưng mô tả như trên là ngụy biện chứ không phải định nghĩa. Vì sao?
Vì định nghĩa, nhận thức hay mô tả thì cũng phải dựa vào cái có thật. Mà CNXH theo học thuyết Mác Lê là chưa có thật, chưa tồn tại. Liên xô và Đông Âu đang xây giữa chừng thì sụp đổ. Nó mới chỉ có trong tưởng tượng của một số người. Với những thứ như thế người ta chỉ có thể dự đoán chứ không thể đưa ra một định nghĩa hoặc mô tả có tính khẳng định.
Đây là việc đánh tráo khái niệm ở chỗ đem những phán đoán, những mong ước về một xã hội chưa hiện hữu thành điều khẳng định, có thật, biến một dự báo thành định nghĩa. Đó là cách làm không phải dựa vào khoa học mà dựa vào cảm tính. Trong những nguyên tắc định nghĩa khái niệm không hề có nguyên tắc dựa vào dự đoán.
Giả dụ như mọi người đã công nhận rằng Liên xô hay một nước nào đó đã xây dựng thành công CNXH (trước khi sụp đổ) rồi mô tả thực trạng của nước đó thì mô tả là được chấp nhận.
Bài báo lưu ý CNXH khoa học theo học thuyết Mác Lê và là một chế độ, phải chăng để phân biệt rạch ròi với một phong trào có tên Quốc tế XHCN. Phong trào này bao gồm trên một trăm đảng chính trị tại nhiều nước, phần lớn là các đảng xã hội theo Quốc tế đệ nhị. Ngoài ra cũng để phân biệt với danh xưng XHCN mà một số người gán cho các nước Bắc Âu, nơi có cuộc sống tự do hạnh phúc cho mọi người. Thực ra Bắc Âu gồm một số nước theo Xã Hội Dân Chủ.
Cũng cần nói rằng học thuyết của Mác nhằm xây dựng Chủ nghĩa cộng sản với việc công hữu hóa toàn bộ nền sản xuất và mọi người “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Theo Mác Lê thì CNXH là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản.
Câu 2- Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường XHCN?
Bài viết ghi rõ: Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử".
Từ Việt Nam trong câu hỏi chứa ẩn sự khái quát thiếu rõ ràng. Nếu đó là câu nói hoặc của bài báo bình thường thì cũng chấp nhận được, nhưng viết trong bài báo khoa học thì không có được sự chính xác cần thiết.
Việc lựa chọn không thể do một Việt Nam chung chung. Tổ quốc VN, đất nước VN không lựa chọn gì hết. Việc lựa chọn là do con người, bắt đầu bởi một số ít những người lãnh đạo ĐCS, từ Đảng truyền cho Chính quyền do họ lập ra. Từ Đảng và Chính quyền áp đặt cho dân chứ dân làm gì có điều kiện để lựa chọn. Ngay trong Đảng, đa số đảng viên cũng chẳng biết gì mà lựa chọn, họ chủ yếu nói theo, làm theo các cấp lãnh đạo.
Viết Việt Nam lựa chọn là cách đồng nhất một vài người (thậm chí một người) với Đất nước.
Thử xem Dân Việt Nam đã lựa chọn hay bị áp đặt CNXH như thế nào, họ đã khát vọng như thế nào hay điều đó chỉ là sự bịa đặt và gán ghép. Muốn biết ý của dân thì tốt nhất là tổ chức điều tra hoặc trưng cầu dân ý một cách thật sự khoa học. Điều này chưa ai làm.
Nếu ở VN có cuộc điều tra xã hội học hoặc trưng cầu dân ý do Mặt trận Tổ quốc tổ chức, với câu hỏi: “Bạn có đồng ý chọn CNXH hay không” thì sẽ có một số người trả lời có, và khi có gian lận trong điều tra thì có thể đạt đến con số gần 100% người được hỏi trả lời có. Thế rồi nói rằng dân VN có khát vọng CNXH là không đúng. Tại sao vậy? Tại vì “đồng ý chọn” và “khát vọng” là khác nhau khá xa về mức độ, hơn nữa kết quả nhận được là không đáng tin vì người làm điều tra của Mặt trận, do sự chỉ đạo của Đảng sẽ không tránh khỏi thiên vị.
Dân có nhiều tầng lớp với những quyền lợi và nhu cầu khác nhau. Có thể chia thành ba: Tầng lớp được ưu đãi, tầng lớp bình dân và tầng lớp bậc trung.
Tầng lớp được ưu đãi có quyền lợi gắn chặt với chế độ và Đảng, họ theo Đảng một cách không suy xét. Hỏi tại sao chon CNXH, đa số trả lời rằng họ có chọn đâu mà Đảng chọn, còn họ chỉ biết theo Đảng. Tầng lớp này chỉ chiếm số ít trong toàn dân.
Tầng lớp bình dân gồm số đông, nhu cầu của họ là được yên ổn làm ăn và sinh sống, họ sợ và phục tùng chính quyền, họ chủ yếu nói theo những điều do chính quyền dạy bảo, họ rất coi trọng quyền lợi vật chất nên rất mừng rỡ, sung sướng khi đời sống vật chất được cải thiện, dù chỉ chút ít, họ ít có nhu cầu về tự do dân chủ, họ làm việc và đóng thuế cho bất kỳ chính quyền nào đang quản lý xã hội. Nói rằng họ có khát vọng xây dựng CNXH là suy luận có tính gán ghép. Tuyên truyền cho họ rằng sẽ có một xã hội, gọi là XHCN, rất tốt đẹp về mọi mặt, nào là vật chất không những đầy đủ mà dư thừa, muốn gì có nấy, hưởng theo nhu cầu, mọi người tự do, muốn làm gì thì làm theo năng lực v.v… Tuyên truyền thế rồi hỏi họ thích không. Họ trả lời rất thích, nhưng đó là rất thích sự tốt đẹp chứ không phải thích cái chưa có là XHCN. Sự lập lờ đánh lận là ở chỗ này.
Tầng lớp bậc trung (trung lưu) có nhu cầu cao về tự do, dân chủ, trong đó quan trọng nhất là tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do phản biện. Họ nhạy cảm với những áp đặt tư tưởng. Trong họ có những người phản biện, bất đồng chính kiến bị quy là thế lực thù đich, bị đàn áp. Tầng lớp bậc trung là một trong những động lực phát triển xã hội, trước đây bị quy thành phần tư sản, địa chủ, tiểu tư sản. Địa chủ và tư sản là đối tương bị cách mạng vô sản đánh đổ, tiểu tư sản cần được cải tạo. Khi hỏi tầng lớp này có thích CNXH không thì đa số sẽ trả lời không.
Nhân dân VN gồm cả ba tầng lớp trên, có một khát vọng chung là được sống trong hòa bình, có được tự do, hạnh phúc. Khi nhân dân theo Việt Minh làm Cách mạng tháng Tám thì đã có ai nói gì, biết gì về CNXH đâu. Như vậy, nếu dựa vào kết quả cuộc điều tra giả định như mô tả ở trên mà viết rằng CNXH là khát vọng của nhân dân đã là một điều không thực, còn thực tế, không điều tra, không khảo sát gì cả, chỉ nghe theo lời của một số kẻ xu nịnh mà đưa ra kết luận chắc nịch là một sự tưởng tượng mang tính bịa đặt.
Lúc còn sống Hồ Chí Minh thỉnh thoảng có nói đến CNXH, nhưng cho rằng ông lựa chọn CNXH là một suy đoán. Tìm trong bộ sách Hồ Chí Minh toàn tập không thấy được ông lập luận về xây dựng XHCN như thế nào. Tuyên ngôn độc lập và Di chúc không đả động đến việc lựa chọn CNXH. Mặc dù trong Di chúc có viết “Đi thǎm và cảm ơn các nước anh em trong phe XHCN”, và “ Đảng cần đào tạo họ (thanh niên) thành những người thừa kế xây dựng CNXH…", nhưng Di chúc kết thúc bởi câu : “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới".
Câu nói nổi tiếng của Hồ Chí Minh là "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Trong ham muốn tột bậc của ông không thấy bóng dáng của CNXH.
Có thể nói rằng Hồ Chí Minh buộc phải chấp nhận CNXH chứ không vui sướng lựa chọn nó như người ta cố tình gán ghép. Khi được hỏi về CNXH ông nói : “CNXH là làm sao cho dân giàu, nước mạnh, đồng bào sung sướng, là một xã hội quyền lực thuộc về nhân dân”. CNXH theo cách của Hồ Chí Minh khác xa với CNXH mà toàn bộ quyền lực nằm trong tay Đảng CS.
Bài báo dẫn câu: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc”.
Phải chăng câu đó là chân lý? Không, không thể. Nếu thế thì giải thích thế nào về sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của hàng trăm nước trên thế giới không XHCN, về cuộc sống tự do hạnh phúc của nhiều nước không theo chế độ cộng sản (như các nước Bắc Âu, Singapore, Bhutan v.v…). Với các nước trong Liên xô cũ và khối Đông Âu, khi còn phe XHCN thì họ ít nhiều phụ thuộc vào Mạc Tư Khoa, nhưng khi phe XHCN tan rã thì tất cả các nước giữ trọn vẹn độc lập của mình.
Không phải cứ được tôn sùng là lãnh tụ thì nói câu gì cũng đúng. Riêng câu trên là phạm lỗi về logic.
Như vậy với câu hỏi: Vì sạo Việt Nam lựa chọn con đường XHCN? Câu trả lời đúng phải là phủ định. Nhân dân VN không có khát vọng, không lựa chọn XHCN, Hồ Chí Minh không chủ động lựa chọn, toàn Đảng không lựa chọn mà chỉ có một vài người lựa chọn rồi tuyên truyền, rồi áp đặt cho toàn Đảng toàn dân. Sự lựa chọn này là có thể chấp nhận khi Liên xô tồn tại, vạch đường, ta chủ yếu đi theo. Sau khi Liên xô sụp đổ, lãnh đạo ĐCSVN vì mắc vào âm mưu của Trung cộng, cố giương cao ngọn cờ tiên phong của cách mạng vô sản để vạch đường chỉ lối cho các dân tộc khác.
Với những đất nước hùng cường như Mỹ, Nga, Trung quốc mà lãnh đạo của họ có ý tưởng vạch đường chỉ lối thì còn có thể chấp nhận. Với đất nước VN mà một số người vẫn muốn đi tiên phong giương cao cờ cách mạng, muốn vạch đường chỉ lối cho các nước khác thì đó là việc quá sức.
Xin nhắc lại, không phải ĐCSVN, càng không phải dân tộc VN lựa chọn mà chỉ một vài người lựa chọn CNXH. Lựa chọn như vậy đúng hay sai? Những người lựa chọn và áp đặt cho người khác thì bảo là đúng. Những người bất đồng, phản biện cho là sai, quá sai, họ phê phán những người đem CNXH áp đặt vào VN là đã xem cả dân tộc như chuột bạch để làm thí nghiệm tìm đường đi cho lịch sử. Cuộc đại thí nghiệm này đã đẩy đất nước VN vốn có Thiên thời, Địa lợi lâm vào cảnh gian nan, phải trả giá rất đắt cho việc giành độc lâp, thống nhất, xây dựng kinh tế. Thực ra CNXH ở VN chủ yếu đem lại niềm tự hào cho lãnh đạo ĐCS, đem lại giàu có lớn cho một số ít người trong các nhóm lợi ích trong khi khá đông những phần tử tinh hoa của dân tộc bị kìm hãm chỉ vì có tư tưởng tự do và tính cách trung thực, dám nói ra vài sự thật mà những người khác muốn giấu diếm.
Trên đây lập luận với giả định rằng CNXH là cái đích cần đến để lựa chọn hay không. Nhưng theo Mác Lê thì CNXH chỉ là giai đoạn đầu của Chủ nghĩa cộng sản (CNCS). Như vậy thì không phải là lựa chọn CNXH mà phải là lựa chọn CNCS. Khi đã lựa chọn CNCS thì bắt buộc phải thực hiện CNXH là giai đoạn đầu của nó. Nhưng tại sao lãnh đạo ĐCS không nói thẳng ra là họ lựa chọn CNCS mà nói tránh thành lựa chọn CNXH. Phải chăng đây là một mưu lược tạm thời, vì đại đa số người dân, trong khi buộc phải chấp nhận sự tồn tại của ĐCS thì không tin vào CNCS.
Câu 3- Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được CNXH ở VN?
Đây là vấn đề mấu chốt. Bài báo cho rằng, để xây dựng CNXH ở VN cần thực hành kinh tế thị trường đjnh hướng XHCH, xây dựng nền văn hóa XHCN, nhà nước pháp quyền XHCN, phải trải qua thời kỳ quá độ và dưới sự lãnh đạo của ĐCS.
Về kinh tế thị trường định hướng XHCN
Thực chất là kinh tế thị trường có sự chỉ huy, điều tiết của nhà nước. Xin trình bày qua về nền kinh tế này
Các nhà lý luận của Cộng sản VN khẳng định rằng Kinh tế thị trường định hướng XHCN là một sáng tạo đột phá của họ mà không nêu ra được ai là người đầu tiên phát hiện ra nó. Thực ra đó là sự nhận nhầm.
Kinh tế thị trường có quản lý của nhà nước là học thuyết kinh tế của John Maynard Keynes, ngưới Anh (1883-1946), nhằm khắc phục các nhược điểm của thị trường tự do (Adam Smith) và thị trường do nhà nước điều hành theo kế hoạch (Karl Marx). Người ta cho rằng Smith, Marx và Keynes là ba nhà kinh tế lớn nhất của thế giới. Hiện nay mọi nền kinh tế đều chịu sự chỉ đạo của nhà nước, không nơi nào còn có thị trường hoàn toàn tự do. Trung quốc đã theo học thuyết của Keynes trước VN, mở nền kinh tế thị trường với sự điều tiết của nhà nước cộng sản. Một người VN nào đó không phát hiện ra bản chất nền kinh tế mà chỉ nghĩ ra mấy chữ định hướng XHCN để gọi. Thế mà dám cho rằng đó là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, Có nói quá không nhỉ.
Bây giờ xem sự chỉ huy của nhà nước cộng sản như thế nào.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN của VN, ngoài những điều thông thường như các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, sự cạnh tranh, quan hệ phân phối, hội nhập quốc tế, gắn kinh tế với xã hội v.v…thì có những điều được nhấn mạnh như: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; sự lãnh đạo của ĐCS, không vì tăng trưởng kinh tế mà "hy sinh" tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Hãy xét từng điều xem sao.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò gì khi nhiều cơ sở làm ăn thua lỗ hàng nhiều trăm ngàn tỷ, là nơi phát sinh những vụ tham nhũng lớn, rất lớn, là nhiều công ty, nhà máy phải hóa giá để bán. Lãnh đạo Đảng biết rõ tình trạng, nhưng tại sao vẫn cứ phải ghi vào các nghị quyết rằng kinh tế nhà nước là chủ đạo. Tại vì Đảng vẫn kiên trì đường lối Mác Lê. Nếu kinh tế nhà nước không chủ đạo thì còn gì là Mác Lê nữa. Đây là một sự luồn lách về ngôn từ.
Sự lãnh đạo của Đảng về kinh tế rõ nhất là bắt nông dân vào các hợp tác xã nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp tư nhân, làm ra luật đất đai, tạo điều kiện cho nhiều vụ tham nhũng khắp các địa phương, tạo ra nhiều dân oan bị cướp đất. Một hệ quả của việc lãnh đạo của Đảng là sự kết hợp giữa các thế lực có quyền và có tiền, tạo ra các nhóm lợi ích để thao túng và phá nát nền kinh tế.
Bà Ba Sương là người con ưu tú của dân tộc, ông Trịnh Vĩnh Bình là kiều bảo yêu nước, thế mà bà Sương, ông Bình bị lãnh đạo Đảng địa phương lừa đảo, cướp đoạt tài sản, phải chịu tù tội. Riêng chuyện ông Bình chính phủ còn phải bỏ ra nhiều trăm triệu đô la nộp phạt để bao che việc cướp đoạt của quan chức đảng. Sân bay Tân Sơn Nhất rộng trên ba ngàn hecta, thế mà bị các lãnh đạo đảng ở Bộ Quốc phòng chiếm phần lớn để làm sân golf và chia lô đem cấp cho tướng tá làm nhà và bán, để rồi nhà nước phải đi vay nợ làm sân bay Long Thành. Phải chăng mấy việc vừa kể, trong hàng ngàn, hàng vạn việc tương tự có xuất xứ từ sự lãnh đạo của Đảng.
Về việc chạy theo tăng trưởng kinh tế. Trong khoảng trên chục năm sau 1986 mà đặt mục tiêu hàng đầu là tăng trưởng kinh tế để thoát khỏi cảnh kiệt quệ, đói kém là cần, là đúng. Nhưng rồi đến bây giờ, khi việc tăng trưởng nóng nền kinh tế gây ra rất nhiều tai họa về xuống cấp đạo đức, lãng phí tài nguyên, hủy hoại môi trường mà vẫn say sưa, đặt tăng trưởng kinh tế lên hàng đầu lại là chệch hướng. Người ta nói nhiều về tăng trưởng bền vững, rằng không hy sinh môi trường, nhưng nói được mà không làm được. Tại sao vậy? Chỉ vì tham và ngu của nhiều người trong các nhóm lợi ích. Mà còn lâu mới thoát được sự thống trị của tham và ngu này.
Nhìn kỹ vào thực chất nền kinh tế của VN trong thời gian qua với sự thao túng của các nhóm lợi ích, nhiều nhà nghiên cứu kinh tế và xã hội chỉ ra rằng nó rất giống sự phát triển hoang dã vào thời kỳ đầu của chế độ tư bản. Không biết GS Trọng đã bao giờ biết đến ý này chưa.
Về văn hóa XHCN
Bài báo viết: “Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, …., dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Tạm chỉ xét vai trò của chủ nghĩa Mác – Lê trong phát triển văn hóa, nó có nhiều điều phản lại các giá trị tiến bộ, nhân văn.
Văn hóa, trước hết là về phẩm chất và hoạt động của con người trong tự nhiên và xã hội, mà sự thương yêu, lòng tôn trọng lẫn nhau, đức khiêm tốn, lòng bao dung và biết ơn được đặt lên hàng đầu.
Con người có phần vật chất và phần tâm linh. Hai phần đó được hình thành từ Tiên thiên (có trước khi sinh ra do di truyền) và từ Hậu thiên (do nuôi dưỡng, học tập, hoạt động). Thế mà Mác cho rằng “Con người là tổng hòa các mối quan hệ của xã hội”. Nhận thức đó đã bỏ qua phần rất quan trọng là Tiên thiên và thời gian đầu đời của con người đã taọ ra những tính cách cơ bản.
Vì cái nhìn lệch lạc đó về con người mà Mác và Lênin đi đến một số kết luận sai về kẻ thù giai cấp, đấu tranh và tiêu diệt giai cấp, chuyên chính vô sản, nhà nước của giai cấp, vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân v.v…Những sai lầm đó tạo nên những nét văn hóa cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê, kích thích, đề cao lòng thù hận, khuyến khích đấu tranh bạo lực, tạo ra sự kiêu ngạo cộng sản.
Những nghiên cứu đáng tin cậy về sự sụp đổ của Liên xô và các nước Đông Âu chỉ ra rằng văn hóa Mác – Lê góp phần không nhỏ trong sự sụp đổ đó, mà điều mấu chốt là người dân đã chán ngấy sự tuyên truyền đầy dối trá của hệ thống tuyên giáo.
Chủ nghĩa Mác-Lê dựa vào học thuyết duy vật, đề cao vai trò của vật chất. Những người theo Mác-Lê quá chạy theo quyền lợi vật chất. Họ quá tôn sùng đồng tiền, vơ vét tiền bạc bằng mọi thủ đoạn đê hèn, đến khi bị quả báo lại vội vàng chạy theo mê tín dị đoan. Những việc như vậy phá nát truyền thống văn hóa dân tộc.
Về Nhà nước pháp quyền XHCN
Đó là nhà nước pháp quyền do ĐCS lãnh đạo theo chủ nghĩa Mác-Lê.
Bài báo viết: “Trong chế độ chính trị XHCN, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất ….vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mô hình chính trị là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ….Pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân.
Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị”,
Viết ra như thế nhưng hãy đối chiếu vào thực tế xem có đúng như vậy không. Cái mô hình ba tầng Đảng, Chính quyền, Mặt trận chồng chéo, dẫm đạp lên nhau, kém hiệu quả, lãng phí lớn. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ là một quan điểm tưởng rằng rất rõ ràng, nhưng thực tế chứa đựng sự mập mờ. Người ta nói nhiều về quyền làm chủ của dân, thực chất chính quyền là của Đảng, do Đảng đoạt được từ chính quyền cũ và không chịu trả lại cho dân. Nói nhiều về mục tiêu lợi ích, hạnh phúc của dân, thực tế mục tiêu chính của Đảng là thiết lập, duy trì, củng cố, mở rộng sự thống trị. Trong những mâu thuẩn giữa lời tuyên bố và việc làm của ĐCS thì những vấn đề về nhà nước, về dân chủ là rõ nhất.
Về thời kỳ quá độ
Ông Trọng viết “Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng”.
Theo Bài báo thì : “Trong thời kỳ quá độ cần phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; phát triển nguồn nhân lực, trước hết là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội, giảm nghèo bền vững, nâng cao chất lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ công ích khác, nâng cao hơn nữa đời sống văn hoá cho nhân dân, học tập và làm theo Hồ Chí Minh, giữ vững bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại. chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Và điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin”.
Tác giả Bài báo quên mất hoặc cố tình che giấu điều kiện tiên quyết là giữ chắc được sự toàn trị của Đảng dựa trên hai lực lượng là Công an và Tuyên giáo. Dùng Công an để theo dõi, trấn áp, làm cho dân sợ. Dùng Tuyên giáo để tuyên truyền, nhồi sọ, tẩy não, làm cho dân, đặc biệt là tầng lớp được ưu đãi và tầng lớp bình dân chỉ biết nghe theo tuyên truyền một chiều, hạ thấp dân trí. Không có hai lực lượng này thì Đảng khó lòng kéo dài sự thống trị.
Về lý tưởng xây dựng CNXH, GS Trọng viết ra giấy như mọi người đã biết. Liệu trong sâu thẳm của tâm thức ông có nghĩ như vậy không, hay là ông biết CNCS chỉ là ảo tưởng mà vì một lý do nào đó ông không dám nói thật lòng mình. Điều này chỉ có ông biết và các Bậc Bề Trên về tâm linh biết, còn người ngoài chỉ có thể đoán.
Bài báo đã nói đúng về tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Nói thế nhưng làm có phần ngược lại là Nhà nước VN chủ yếu tham khảo và hội nhấp với Trung cộng, với kẻ có nhiều dã tâm bành trướng. Hội nhập quốc tế kiểu gì khi các nước dân chủ tôn trọng Tam quyền phân lập còn ông Trọng kiên quyết chống lại.
Câu 4- Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên CNXH ở VN trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì?
Đây chủ yếu là phần kể công, khoe khoang. Phải chăng ý nghĩa là sự tự hào về tài năng, sáng suốt của Đảng nói chung, của lãnh tụ và các cá nhân lãnh đạo. Sự khoe khoang là không nên. Phải chăng vấn đề đặt ra là tiếp tục công cuộc xây dựng CNXH.
Giáo sư Trọng cho rằng trước đây nhận thức sai về kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền thì nay đã hiểu được, nhưng cần thêm định hướng XHCN, rằng từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về CNXH và thời kỳ quá độ đi lên CNXH…. Quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp.
Tại sao trước đây nhận thức sai, phải chăng là do kém trí tuệ, do bảo thủ, nay bị thực tế soi rọi mới hơi tĩnh ngộ ra, nhưng cũng chỉ tỉnh ngộ được một phần, vẫn cố tình níu kéo. Hiểu được nhưng không phải để tìm cách vận dụng những mặt hay, những điều tốt mà là để thay đổi cách giải thích và tuyên truyền mà thôi.
Cho đến nay thì từ khi Mác vạch ra con đường XHCN đã trên 150 năm, từ khi Lênin bắt đầu xây dựng CNXH ở Liên xô đã trên trăm năm, thế mà ông Trọng phải từng bước nhận thức để hiểu được, thế thì quá chậm. Nhân dân Liên xô và Đông Âu đã thấy rõ sự hoang tưởng của CNXH nên kiên quyết từ bỏ, đảng viên Cộng sản ở các nước đó vì tương đối có trí tuệ nên nhận ra sai lầm mà một số lớn đứng về phía nhân dân. Ở VN cũng đã có nhiều người, kể cả cán bộ cao cấp của Đảng thấy được CNXH chỉ là cái bánh vẽ nên đã tìm cách từ bỏ, nhưng số đông lãnh đạo của Đảng đã đeo bám Trung cộng, bị chúng nó lừa phỉnh mà tiếp tục ý thức hệ đã lỗi thời.
Tại sao ĐCSVN gặp phải sự nghiệp vô cùng khó khăn và phức tạp ?. Đó là vì đã cố tình làm sai quy luật. Giả dụ, nếu bưng tai, bịt mắt mà tin tuyệt đối vào Mác thì việc bỏ qua chế độ tư bản là làm sai quy luật do ông tìm ra. Người có trí tuệ không ai chọn cách làm sai như vậy, chỉ có những người muốn vác gậy chống Trời mới làm thế. Làm theo quy luật thì gặp thuận lợi, nhanh, còn làm trái quy luật thì phải lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp. Nhưng tại sao lại làm thể, rồi còn tự hào đã làm thế. Đó là vì muốn chứng tỏ ta đây có tài năng, có dũng khí hơn người, làm thế để thỏa mãn sự nóng vội và phần nào là kiêu ngạo. Người có trí tuệ cao không bao giờ nóng vội và kiêu ngạo như thế.
Theo Mác- Lênin thì bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ yếu là bỏ qua nền kinh tế thị trường mà kiên quyết thực hành kinh tế kế hoạch hóa, là xóa bỏ ngay tư hữu về tư liệu sản xuất. Cả hai việc đó là cơ bản và đều sai lầm. Biết thế nên GS Trọng đã sửa đổi mà viết rằng:”Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”.
Những điều viết ra đọc lên nghe hay, nhưng làm sao bỏ qua được những sự áp bức, bất công dưới chế độ toàn trị độc đảng, làm sao lại bỏ đi thể chế chính trị dân chủ với tam quyền phân lập là giá trị của nhân loại.
Giáo sư viết : Trước đổi mới VN vốn là một nước nghèo lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề. Sau chiến tranh, Mỹ và phương Tây đã áp đặt cấm vận kinh tế với Việt Nam trong suốt gần 20 năm. Lương thực, hàng hoá nhu yếu phẩm hết sức thiếu thốn, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, khoảng 3/4 dân số sống dưới mức nghèo khổ…. các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp”.
Trước năm 1986 VN tuy chưa có công nghiệp phát triển, tuy miền Bắc bị chiến tranh tàn phá (miền Nam cũng bị nhưng ít hơn, không đáng kể) nhưng không phải là nước nghèo. Với đồng bằng Nam bộ và đồng bằng sông Hồng, chỉ cần để cho nông dân tự do cày cuốc thì làm sao mà trên ba phần tư sống dưới mức nghèo khổ. Ai đã gây ra sự nghèo khổ ấy?. Đảng lãnh đạo chứ ai vào đấy nữa. Đảng bắt nông dân vào hợp tác xã để trói buộc họ, Đảng phá nát nền kinh tế công thương của miền Nam bằng đường lối cải tạo. Tội ác ấy to lớn ngang với hoặc vượt qua tội ác cải cách ruộng đất.
Còn việc cấm vận của các nước. Lý do nào VN bị cấm vận. Có phải vì VN đã thống nhât, vì lãnh đạo muốn đi theo con đường XHCN. Không phải, hoàn toàn không phải mà vì những sai lầm trong việc không chịu rút quân khỏi Cămpuchia ngay sau khi đánh bại Khơme đỏ, là tạo ra tai nạn thuyền nhân, là việc trả thù người của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Các nước cấm vận để trừng phạt cho đến khi VN rút quân khỏi Cawmpuchia và có biểu hiện tôn trọng nhân quyền. Thế mà Đảng chỉ đổ lỗi cho bên cấm vận mà không chịu nhận lỗi của mình tạo ra nguyên nhân cấm vận.
Về các thế lực thù đich. Một việc làm dù hay dở như thế nào thì thường vẫn có người ủng hộ và người phản đối. Nhưng phản đối chưa phải là thù địch. Trong thù địch có chứa tính chất thù hận. Vậy tại sao CS VN bị thù hận nhiều đến thế. Khi ta có vài người phản đối trong một số ý kiến hoặc công việc nào đấy thì là chuyện bình thường. Nhưng khi cho rằng bị nhiều người thù hận thì sao. Thì phải chăng ta đã gây ra nhiều thù hận.
Phải chăng vì đề cao thuyết tranh đấu bằng bạo lực, đề cao việc đấu tranh giai cấp mà CS phải luôn cần có thế lực thù địch nhằm hướng sự chú ý của đảng viên và nhân dân vào đó để tạm quên đi những điều bất công và oan trái. Đây là một mưu mô không phải do CSVN nghĩ ra mà đã có từ thời Đông Chu bên Tàu, Việt cộng được Trung cộng dạy bảo, huấn luyện.
Thế lực thù địch được nói đến không phải Tây, Tàu nào cả mà chính là đồng bào, ở trong nước hoặc nước ngoài. Tuyên bố có nhiều thù địch, nhưng bảo chỉ ra con người cụ thể là những ai thì ngoài vài thành viên của Việt Tân, may ra họ kể tên được vài chục người bất đồng chính kiến, mà thực ra đó là những người chính trực, yêu nước, thương dân. Trong tình trạng hòa bình, không nước nào mà chính quyền cho rằng họ có nhiều thế lực thù địch như CSVN.
Ông Trọng viết : “Công cuộc đổi mới thực sự đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp”, rồi ông liệt kê ra các thành tích về kinh tế, giáo dục, y tế, xóa nghèo, xây dựng nông thôn mới, cải thiện đời sống nhân dân…, chỉ số phát triển con người (HDI) thuộc nhóm cao của thế giới. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay….Những thành tựu đó đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng XHCN là đúng đắn, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Những điều được trình bày, tuy khá dài nhưng không có gì mới, chỉ lặp lại các nhận định, các số liệu của văn kiện đại hội 13, trong đó có một số phần sự thật và một số phần không đúng.
Ông Trọng, trong lúc ra sức kể công cho Đảng đã phạm phải một số ngụy biện và nhầm lẫn về suy luận.
Ngụy biện thứ nhất là cố ý dùng sai khái niệm “Đổi mới”. Thực chất những việc làm của Đảng từ ĐH VI là sửa sai, là làm ngược hoặc xóa bỏ một phần lý thuyết Mác Lê về kinh tế, nhưng nếu công nhận như thế thì té ra Đảng đã sai à, Mác Lê có chỗ sai à. Có ai đó đã nghĩ ra và dùng từ đổi mới để che đậy sai lầm, lại còn bịa ra là vận dụng sáng tạo Mác Lê. Đó là sự đánh tráo khái niệm. Điều này nhiều người biết nhưng không dám nói vì sợ vạ miệng. Những người nói nhiều đến đổi mới thì đa số nói theo mà không hiểu gì, một số thì biết nói sai nhưng sợ mà không dám nói khác, một số nữa biết sai nhưng cố tình nói để lừa những người nhẹ dạ cả tin. Cũng làm một việc mang lại kết quả tốt, nói là đổi mới thì thành tích lớn lao, cần được ca ngợi, còn nói là sửa sai thì thành tích cũng có, nhưng bé thôi và giữ được sự trung thực, giữ được đạo lý. Vì không cần giữ trung thực và đạo lý mà cần tuyên truyền về sự sáng suốt nên đành vi phạm lỗi ngụy biện về đánh tráo khái niệm. Trong tuyên truyền sự đánh tráo như vậy có thể được cho qua, còn khi làm khoa học thì không thể chấp nhận.
Ngụy biện thứ hai là đánh lận, thể hiện ở hai điều sau:
Điều đánh lận thứ nhất. Đó là nhập nhằng giữa Đảng và Chinh phủ. Rất nhiều việc Chính phủ làm, lại được quy công cho Đảng với một lập luận rằng nhờ có lãnh đạo của Đảng thì Chính phủ mới biết làm và làm được việc đó. Có thật thế không?
Trong những việc Đảng đã chủ trương, đã lãnh đạo cần phân biệt thật rõ hai loại : Loại đương nhiên và loại riêng của Đảng.
Loại đương nhiên như động viên dân phát triển kinh tế, giáo dục, làm công trình giao thông, thủy lợi, chữa bệnh v.v… thì phần đông các Chính phủ làm giống nhau, có Đảng lãnh đạo hay không người ta vẫn làm như thế. Tuy rằng Đảng có nói đến, nhưng dù Đảng không nói đến thì người ta vẫn làm như vậy, thế thì công của Đảng ở chỗ nào. Một số việc Đảng phạm sai lầm rồi sửa sai thì không được kể là công.
Loại việc riêng, bắt buộc phải có sự lãnh đạo của Đảng là những công việc mà chỉ có Đảng mới bắt dân làm, còn thường ra, để tự do dân không ai làm, hoặc ở các nước không cộng sản không chính phủ nào làm. Đó là những việc như cải cách ruộng đất, thành lập các nông trường và hợp tác xã nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp tư nhân, lâp các tập đoàn kinh tế nhà nước không thật cần thiết (vì tư nhân có thể làm), cải tạo và đấu tranh tư tưởng, giam cầm lâu dài những người vô tội, không xét xử, công hữu hóa toàn bộ đất đai, là tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH, là đặt chỉ tiêu cho các loại công việc trong từng thời kỳ 5 năm v.v….
Hãy thử xem những việc của Đảng thành công đến đâu, có đáng kể công hay tìm mọi cách che giấu những thất bại thảm hại. Riêng về chỉ tiêu, đó là tàn dư của nền kinh tế kế hoạch hóa. Rất nhiều người thảo luận, biểu quyết thông qua chỉ tiêu này nọ mà chẳng biết dựa vào đâu, để làm gì.
Điều đánh lận thứ hai là về hoạt động của con người.
Trước khi làm đảng viên con người đã trưởng thành, có tính cách, có nhận thức. Đó là phần nhân bản. Sau khi vào Đảng, người đó được bổ sung thêm lý luận Mác Lê, đường lối, lý tưởng. Đó là phần thuộc về tính đảng. Khi đảng viên hoạt động hai phần đó quyện vào nhau, nhưng khi phân tích, đánh giá mà gộp chung lại thì dễ phạm vào lỗi đánh lận. Thí dụ về ông Trường Chinh trước ĐH VI và khoán 10 trong nông nghiệp. Phần đảng trong nhận thức bảo ông rằng không được khoán, làm thế là sai đường lối, phần nhân bản mách rằng khoán là hợp lòng người, là cứu dân. Phần nhân bản đã thắng. Đó không phải là thắng lợi của lý thuyết cộng sản. Vậy nên quy việc khoán 10 cho sự sáng suốt cộng sản, là nhầm lẫn hoặc cố tình đánh lận. Có sáng suốt, đó là sáng suốt do lòng nhân bản, còn cộng sản làm việc sửa sai.
Có một số nhận xét rằng Đảng trước đây tốt hơn đảng bây giờ. Phải chăng đây cũng là sự nhận nhầm của nhiều người vì phần nhân bản của đảng viên trước đây tốt hơn, chứ phần tính đảng thì vẫn thế và người ta nhìn vào đảng viên để đánh giá về Đảng. Trong dân gian có câu nhận xét “Người ấy là đảng viên nhưng mà tốt”, nói về một vài đảng viên còn giữ được phần nhân bản. Tính cách tốt, đạo đức tốt của người ấy cơ bản không phải do Đảng tạo ra mà là phần vốn có.
Thứ ba là tranh công. Thực ra tranh công không hẳn là ngụy biện, nhân tiện tôi ghép tạm mà thôi.
Thành công do một số nhân tố tạo nên, trong đó có cái chính, cái phụ. Ông cha đã tổng kết ba nhân tố chính là Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa. Mỗi nhân tố lại gồm một số yếu tố. Sự lãnh đạo của Đảng là một trong các yếu tố thuộc Nhân hòa khi thành công và Nhân bất hòa khi gặp thất bại.
Theo ông Trọng thì: “Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Câu này có một ý tranh công và một ý mập mờ.
Sự tranh công- Phát triển kinh tế của VN một phần lớn nhờ vào nông nghiệp, nhờ vào đầu tư của nước ngoài, nhờ vào nổ lực của các nhà doanh nghiêp, nhà khoa học, nhà đàm phán, nhờ vào Thiên thời, Địa lợi. Sự lãnh đạo của Đảng chủ yếu là bỏ sự cấm đoán, là có phần khuyến khích một số công việc nào đó. Nếu được ai đó công nhận sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu đã là không đúng, còn tự mình nhận như thế thì đó là sự tranh công. Thử hỏi xem sự lãnh đạo trong những việc riêng của Đảng (đã viết ở đoạn trên, ví như cải cách ruộng đât) là yếu tố hàng đầu của thắng lợi nào.
Ý mập mờ- Đó là cụm từ “Thắng lợi của cách mạng”. Khi chưa bị phát hiện ý đồ tranh công trong phát triển xã hội thì để ai hiểu thế nào cũng được. Khi bị phát hiện thì có thể cãi rằng, Đảng chỉ kể công trong cách mạng chứ không phải trong phát triển kinh tế.
Để trả lời câu hỏi “Thực tiễn đặt ra vấn đề gì?” thì phải biết được đúng những sự thật tích cực và tiêu cực xảy ra trong thực tiễn cùng những nguyên nhân cơ bản. Từ Đại hội VI đã có khẩu hiệu “Nhìn thẳng vào sự thật”. Đại hội XIII vẫn nhắc lại, nhưng nhìn mà có thấy hay không, ai thấy và ai không thấy hay thấy mà cố tình bỏ qua. Hình như GS Trọng quá thiên vị về mặt tích cực, tô hồng nó, đã được phân tích ở trên và không thấy hết hoặc coi nhẹ mặt tiêu cực.
Về mặt tiêu cực. Bài viết dưa ra nhận định : “Bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực là cơ bản, chúng ta cũng còn không ít khuyết điểm, hạn chế và đang phải đối mặt với những thách thức mới trong quá trình phát triển đất nước.Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, ….Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng quyết liệt trong quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hoá, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Đặc biệt, tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. …”
Hình như chỉ kể ra vài điều cho đủ chuyện mà chưa đề cập đến những tai họa gay cấn và nguyên nhân cơ bản. Phải chăng đất nước đang phát triển trong bình an vô sự? Chống chọi với tai họa covid 19 và biế đổi khí hậu thì ta cùng làm với thế giới. Còn những tai họa của riêng dân Việt thì sao?
Nạn tham nhũng, mặc dù vài vụ án lớn đã được xét xử, nhưng nó vẫn phát triển sâu rộng và không có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn, không chỉ ra được nguyên nhân cơ bản từ trong thể chế độc tài toàn trị. Nạn chà đạp lên công lý của hệ thống tư pháp và vi phạm nhân quyền, nạn làm hủy hoại các loại môi trường. Đặc biệt là tai họa từ phía Trung cộng, trên Biền Đông và trên đất liền.
Hỏi rằng trong lúc say sưa với ảo tưởng xây dựng CNXH ông Trọng có biết rõ những tai họa mà dân tộc nói chung và những dân oan nói riêng đang gánh chịu. Hình như ông không biết và không muốn biết. Vì sao vậy? Điều này ông tự biết và mọi người cũng biết, chỉ là biết rồi để đó.
IV-Vấn đề xây dựng Đảng
So với văn kiện ĐH 13 thì vấn đề xây dựng Đảng của bài viết khá ngắn gọn, tuy vậy đầy chất giáo điều, không còn phù hợp với thực tế.
Tổ chức được gọi là đảng bắt đầu xuất hiện ở nước Anh vào thế kỷ 16 để vận động bầu cử, rồi phát triển ra khắp thế giới. Đó là các đảng chính trị, kể cả các đảng cộng sản thời Mác. Đảng chính trị nhằm mục đích cao nhất là cầm quyền nhà nước thông qua bầu cử.
Đầu thế kỷ 20 Lênin đưa ra lý thuyết và thành lập đảng cách mạng, gọi là đảng kiểu mới và gắn cho nó vai trò đội tiên phong của giai cấp công nhân với nhiệm vụ lãnh đạo giai cấp làm cách mạng vô sản để giánh chính quyền bằng bạo lực.
Cách mạng thể chế chính trị thỉnh thoảng xảy ra ở nước này nước nọ trong khoảng thời gian ngắn, khoảng vài ba tháng đến vài ba năm. Nó có khởi đầu và kết thúc chứ không kéo dài triền miên. Kết thúc thắng lợi của cách mạng thể chế là khi mà đảng cách mạng nắm trọn được chính quyền. Lúc này đảng hoàn thành nhiệm vụ cách mạng và trở thành đảng cầm quyền.
Có hai phương thức cầm quyền là dân chủ và độc tài. ĐCSVN tuyên truyền rằng họ chủ trương xây dựng thể chế dân chủ cúa dân, vì dân. Nhưng bên ngoài nhìn vào và từ nội bộ nhân dân đánh giá thì chính quyền là của Đảng, Quyền cơ bản của dân đã bị Đảng chiếm lấy để thi hành sự toàn trị.
Nếu ĐCSVN thực sự muốn xây dựng chế độ dân chủ thì điều kiện tiên quyết là phải tự chuyển đổi thành một đảng chính trị cầm quyền. Thế nhưng GS Trọng, người làm luận án tiến sĩ ngành xây dựng đảng, cố tình không nhận ra điều đó. Trong cương vị cầm quyền mà vẫn duy trì đường lối, quan điểm và tổ chức của đàng cách mạng thì thật sự không thích hợp.
Cho đến nay mà vẫn khẳng định rằng ĐCSVN là đội tiên phong của giai cấp công nhân (còn nếu hiểu hơi khác đi sợ bị phạm vào điều tối kỵ về quan điểm giai cấp), vẫn tin rằng công nhân là giai cấp lãnh đạo thì đó không những là giáo điều quá cỡ mà còn là sự bảo thủ nặng.
Hiện tại, dân VN, kể cả đảng viên và cán bộ các cấp có gì đó hiểu không đúng về đảng. Họ nghĩ rằng đảng là một tổ chức thiêng liêng, có sứ mệnh cao cả, là người dân chỉ được phép tôn thờ, kình trọng, tuân theo, không được làm khác, không được nói khác với nghị quyết của tổ chức đảng (kể từ chi bộ trở lên). Như vậy phải chăng đã thần thánh hóa tổ chức đảng CS,
Ở các nước dân chủ người ta không nghĩ như thế. Họ biết rằng đàng chính trị, dù là đảng cầm quyền, chỉ là tổ chức của một số người cùng chí hướng, là công cụ của một số chính trị gia. Tác dụng của đảng thể hiện chủ yếu trong các cuộc vận động bầu cử. Ngày thường thì đó là hoạt động của các nhà chính trị, các cán bộ cao cấp của đảng ở trong cơ quan lập pháp và hành pháp.
Một vấn đề của lịch sử cận đại VN là làm rõ quan hệ qua lại giữa ĐCS và dân tộc. Đã có người đưa ra hình tượng Đảng như cây tầm gửi bám trên thân cây chủ là dân tộc. Tầm gửi muốn và kích thích cây chủ phát triển bộ rễ, làm ra nhiều nhựa. Nói rằng làm ra nhựa để nuôi cây chủ tươi tốt, vì quyền lợi của cây chủ chứ không có gì hơn. Nhưng thực tế chỉ dùng một phần nhỏ nhựa để nuôi cây chủ còn phần lớn để nuôi tầm gửi. Đồng thời tầm gửi lại tiết ra một vài loại chất tỏa ra môi trường nhằm kìm hãm sự phát triển hoa lá của cây chủ, để bên ngoài nhìn vào thấy rõ tầm gửi bao trùm.
Người ta nói ĐCS sinh ra từ trong lòng dân tộc, là ngọn cờ về lòng yêu nước và chống ngoại xâm, vì độc lập đất nước. Nhưng hình như không phải thế. ĐCSVN từ ngoại lai nhập vào và vì hoàn cảnh trớ trêu mà sinh ra trên đất Trung Hoa, lúc non trẻ được CS Tàu và Đệ tam quốc tế dưỡng dục, cưu mang, lớn lên chịu sự chỉ huy của họ. CSVN dựa vào lòng yêu nước, tinh thần quật cường chống đô hộ của những người Việt tinh hoa để bám rễ và phát triển. Dân tộc Việt không hoài thai để sinh ra CS, nhưng đã che chở, đùm bọc, nuôi dưỡng vì tin vào những lời thiện chí của họ. Những chiến sĩ cách mạng gia nhập ĐCS trong thời kỳ bí mật chủ yếu không phải để cho Đảng thực hành toàn trị mà chính là theo Đảng để giành độc lập cho đất nước. Nhưng rồi Đảng dựa vào sức dân, giành độc lập để cho Đảng áp đặt quyền thống trị chứ chủ yếu không phải để cho dân được tự do. Một số đảng viên bị địch bắt, rất dũng cảm chịu đựng tra tấn và hy sinh. Làm được việc đó chủ yếu không phải vì họ giác ngộ chủ nghĩa Mác mà chính nhờ phần nhân bản trong họ, nhờ lòng yêu nước của họ. Câu nói đanh thép của Hoàng Văn Thụ là một minh chứng hùng hồn.
GS Trọng chỉ ra rằng : ”Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, … thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ”.
Đó là diễn đạt bằng lý thuyết. Thực ra sự lãnh đạo thể hiện chủ yếu trong thời gian Đảng vận động làm cách mạng. Còn khi cầm quyền Đảng chỉ lãnh đạo một phần nhỏ nào đó mà thôi, chủ yếu là thực hành sự toàn trị bằng các Ban của Đảng, bằng đảng úy các cấp đặt trên và áp sát các tổ chức nhà nước, bằng công an và tuyên giáo (như đã viết ở câu 3 mục III).
Lãnh đạo Đảng khá lo lắng, rất băn khoăn về đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược. Bộ Chính trị đã ra rất nhiều, đú loại các nghị quyết, cái này chồng lên cái kia, thế mà hình như không cải thiện được tình hình. Vì sao vậy? Có thể vì hai nguyên nhân sau : Một là Đảng không chịu chuyển đổi từ một đảng cách mạng thành đảng chính trị cầm quyền. Hai là đường lối cán bộ của Đảng có một số điều phản dân chủ, phản tiến bộ, phản khoa học. Với đường lối như vậy chủ yếu tuyển được nhiều người cơ hội có lắm mưu mô mà kém trung thực, thiếu thông minh, khó và ít chọn được người tinh hoa, có năng lực cao và phẩm chất quý.
V- Nhận xét chủ nghĩa tư bản
Phải chăng GS Trọng muốn đem chủ nghĩa tư bản (CNTB) đối nghịch với CNXH dựa trên học thuyết Mác - Lênin.
Trong đoạn nhận xét CNTB có một số nhầm lẫn về suy luận thể hiện bới sự thiên lệch, hiểu sai quy luật, tự mâu thuẩn và khập khiểng,
GS Trọng viết: “Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước”.
Sự tiến bộ về phúc lợi xã hội do nhiều điều kiện, trong đó kinh tế cao được đặt ở trước tiên là đúng, nhưng đưa việc đấu tranh của giai cấp công nhân lên hàng đầu mà bỏ qua tính nhân bản cao của các thể chế dân chủ thể hiện qua hoạt động nghị trường, của những con người giàu lòng bác ái, là thiên lệch. Đúng là trong lịch sử nhiều lúc cuộc đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân lao động buộc giới chủ và chính quyền nhượng bộ, nhưng không phải mọi sự cải thiện đời sống của nhân dân đều là kết quả của đấu tranh như vậy. Tại nhiều nước, trong thời gian khá dài nhân dân được thực sự hưởng các chế độ phúc lợi xã hội mà chẳng thấy cuộc đấu tranh nào mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Đấu tranh chủ yếu tiến hành trong nghị trường.
Trong quy luật về giá trị thặng dư Mác đã phạm sai lầm khi bỏ qua sự đóng góp của nhà tư bản thì ở đây GS Trọng đã bỏ qua một nhân tố khá quan trọng trong tồn tại xã hội, đó là tính nhân bản trong các thể chế dân chủ.
Bài báo viết rằng trong các xã hội tư bản khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn là bất công xã hội. Đây là nhầm lẫn. Thật ra sự tăng khoảng cách giàu nghèo không hẳn là bất công xã hội và cũng không hẳn gắn với xã hội tư bản. Thì trong đoạn 9 của Bài báo nêu lên tình trạng tăng khoảng cách giàu nghèo ở VN trong nhiều năm gần đây.
Sự tăng khoảng cách giàu nghèo là hợp quy luật khi phát triển kinh tế và khoa học công nghệ vì tốc độ phát triển của những người ở hàng đầu lớn hơn nhiều so với người ở hàng cuối. Đó không phải là bất công mà là sự chênh lệch tất yếu. Để giảm bớt chênh lệch này nhiều nước đã áp dụng chính sách thuế và phúc lợi xã hội hợp tình hợp lý.
GS Trọng viết về CNTB như sau : “Cùng với khủng hoảng kinh tế - tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái”. Có thật vậy không? Xin GS chỉ ra trên thế giới này nước tư bản phát triển nào mà nạn phá rừng, hủy hoại tài nguyên thiên nhiên và ô nhiểm môi trường trầm trọng hơn ở VN. Khủng hoảng năng lượng, lương thực chủ yếu là ở các nước nghèo, ở Trung Hoa và Ấn Độ chứ không phải ở các nước tư bản phát triển.
Bài báo viết: “Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa.” Phản kháng xã hội phải chăng là các cuộc biểu tình của dân chúng đòi giải quyết mâu thuẩn. Mâu thuẩn giữa các nhóm người có quyền lợi khác nhau, giữa giới thợ và giới chủ, giữa người dân và chính quyền. Như vậy sự thật về bản chất có hai điều. Một là ở những nước phát triển vẫn phát sinh mâu thuẩn, hai là dân có quyền tự do biểu tình mà không bị ngăn cấm, không bị đàn áp.
Bản chất một là bình thường nhưng ở xã hội có tự do dân chủ thì nó được phơi bày còn ở các chế độ độc tài thì nó bị che giấu, bị bưng bít hoặc được ngụy trang khéo léo. Bản chất hai mới là quan trọng, nhưng hình như người viết không để ý đến. Có lẽ do tâm thiên vị nên ý bị lệch lạc chăng.
Tiếp đến: “Tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là "tự do", "dân chủ" dù có thể thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản…. Sự rêu rao bình đẳng về quyền nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất.”
Đây là một sự hớ hênh, vạch áo cho người xem lưng. Độc giả sẽ hiểu được rằng bằng bầu cử họ có thể thay đổi chính phủ, còn dưới sự thống trị của ĐCSVN thì sao, thì bầu cử hầu như chẳng có tác dụng gì. Và “dân chủ vẫn chỉ là hình thức…” thì đó là thực trạng cua nhà nước CHXHCNVN.
Cũng là một kiểu tự vạch áo (nhưng không biết) khi cho rằng CNTB gặp phải những mâu thuẩn, khủng hoảng mà “không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa”. Không giải quyết được triệt để nhưng người ta cũng vượt qua được để tiếp tục phát triển. Còn Liên xô, thành trì của XHCN đã giải quyết triệt để bằng sự sụp đổ hoàn toàn.
Thực ra CNTB thể hiện trong lĩnh vực kinh tế là chủ yếu. Trong sách Tại sao các quốc gia thất bại Daron Acemoglu đưa ra khái niệm thể chế kinh tế và thể chế chính trị. Mỗi thể chế có hai trạng thái ngược nhau là Dung hợp và Chiếm đoạt. Thường thì hai thể chế có trạng thái phù hợp với nhau, nhưng cũng có thể là không. Người ta thường thấy ở các nước tư bản nền kinh tế phát triển đi kèm với thể chế dân chủ, dung hợp. Đó là sự kết hợp chứ không đồng nhất.
.
VI-Về Chủ nghĩa Mác-Lênin
Bài báo khẳng định ĐCSVN kiên trì Chủ nghĩa Mác-Lênin (CNML) vì nó là học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động, vì tính khoa học và cách mạng triệt để của CNML, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững. Bài báo cũng bác bỏ việc một số người quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước XNCN Đông Âu là do sai lầm của CNML.
CNML được xem là học thuyết cách mạng của vô sản. Xin chưa thảo luận mức độ đúng sai của nó. Còn nó có phải là học thuyết khoa học không thì cần bàn. Hiện có khá đông người thực thi và ủng hộ CNML, nhưng số người phản đối, chống lại đông gấp hàng chục, hàng trăm lần. Người phản đối khẳng định rằng CNML cơ bản đã bị đánh đổ về phương diện khoa học, nhưng người ủng hộ cho rằng nó vẫn đứng vững và phát triển. Tiếc rằng việc này ai nói gì thì bên ấy nghe, thôi thì cứ để cho thực tế và lịch sử phán xét.
Tôi chỉ xin góp một tiếng nói phân tích CNML về mặt khoa học.
Marx và Engels đã khảo sát nền sản xuất và xã hội của một số nước tư bản ở thế kỷ 19 rồi xây dựng nên học thuyết dựa trên một số tiên đề và phép biện chứng. Xin kể ra một số tiên đề, thực chất là các giả thiết nghiên cứu mà có khi có người còn nâng lên thành quy luật, là những luận cứ, được xem là những hòn đá tảng của Chủ nghĩa Mác. Đó là:
1-Vật chất có trước và quyết định ý thức.
2- Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội.
3- Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội loài người.
4- Tư bản bóc lột công nhân bằng “Giá trị thặng dư”.
5- Thống nhất giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
6- Nguyên nhân nghèo khổ của giai cấp vô sản là không có tư liệu sản xuất.
7- Giai cấp công nhân là đại diện cho nền sản xuất công nghiệp tiên tiến.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu phản bác các tiên đề trên, chứng minh rằng chúng chỉ là những phán đoán giả dối (thuật ngữ của logic học). Tôi cũng đã viết một số bài về “Chất đất sét của đá tảng mác xít”. Khi mà các tiên đề bị bác bỏ, bị đánh đổ, nghĩa là phần luận cứ bị vô hiệu hóa vì giả dối thì toàn bộ học thuyết sụp đổ theo. Lúc đó phần luận chứng dù có hay đến đâu cũng trở thành ngụy biện và chủ nghĩa Mác đã sai ngay từ gốc.
Không biết GS Trọng đã biết gì hay hoàn toàn không biết về các phản bác ở trên. Nếu biết rồi thì chưa thấy GS phản biện trở lại bằng cách nào. Nếu chưa biết thì liệu GS có muốn biết không?
VII- Vài lời phân tích
Theo dõi những hoạt động của GS Trọng có thể thấy rằng ông có phần nhân bản tốt, là người tôn trọng đạo đức và truyền thống, yêu thiện ghét ác. Ông có một tuổi thơ nhiều gian khổ, gia đình thuộc diện bần cố nông, lúc còn bé học hành chắp vá nhưng cậu thiếu niên Trọng đã vượt nhiều khó khăn để vươn lên, khi trưởng thành đạt trình độ giáo sư tiến sĩ. Đọc Bài viết của GS tôi phát hiện thấy một số lỗi như đã trình bày. Ngoài ra theo dõi nhiều bài phát biểu khác của ông tôi tán thành với nhận định rằng ông thuộc loại người bảo thủ.
Để lý giải hiện tượng Nguyễn Phú Trọng bảo thủ không thể dùng những kiến thức và phương pháp của khoa học tâm lý thông thường mà phải dùng đến những hiểu biết về siêu hình học, về Tiên thiên và Hậu thiên, về Ý thức và Tiềm thức cùng sức mạnh vô hình của nó, về Mạt na thức và A lại da thức (thuộc Nhận thức luận của Phật giáo), về cấu tạo và hoạt động của các tầng hào quang và luân xa, về hạt giống tinh thần.
Khoa học cho rằng kiến thức chứa trong não là toàn bộ hiểu biết, sự suy nghĩ của não là cơ sở của mọi quyết định và hành động. Đó là ý thức. Nhưng không phải. Còn có tiềm thức quan trọng hơn nhiều. Hiểu một cách đơn giản tiềm thức là những thông tin thu nhận được từ Tiên thiên và Hậu thiên, bằng các giác quan và các tầng hào quang, được chứa trong A lại da thức (Tàng thức). Giữa ý thức và tiềm thức có liên hệ qua lại, đó là liên hệ tự động, bình thường não không biết được.
Tiềm thức chứa thông tin mà không suy nghĩ, không phân biệt đúng sai. Lúc ý thức cần đến các thông tin đó thì tiềm thức tự động cung cấp. Khi ý thức tiếp nhận thông tin từ tiềm thức rồi đem thi hành thì đó là bình thường. Khi ý thức phát hiện có gì đó không hợp lý thì xảy ra sự đấu tranh giữa hai luồng. Thường gọi là đấu tranh bản thân. Không phải ai và lúc nào cũng xảy ra sự đấu tranh này. Những người mà từ tiên thiên có bán cầu não phải phát triển mạnh còn vùng phản biện ở bán cầu não trái phát triển yếu thì rất ít khi có được sự đấu tranh bản thân, nghĩa là tiềm thức mách bảo thế nào thì ý thức tiếp nhận như vậy, công nhận đó là chân lý không thể xê dịch.
Những thông tin thu nhận được từ thời trẻ con, được giữ trong tiềm thức, là vô cùng quan trọng. Tất cả những lời dạy bảo của cha mẹ và người lớn đều được cất giữ như là những chân lý, những đạo nghĩa vĩnh hằng (trừ một số ít trẻ có tiên thiên mạnh về phản biện). Tuyên truyền của các thể chế chính trị và tôn giáo đã triệt để lợi dụng tính chất này bằng cách nhồi sọ, tẩy não cho trẻ con từ rất bé và liên tục. Cậu bé Nguyễn Phú Trọng là một trong hàng trăm triệu trẻ trên thế giới bị nhồi sọ như vậy về sự vĩ đại của lãnh tụ, về chân lý sáng ngời và bất diệt của Cộng sản với Mác Lê. Cậu có bán cầu não phải phát triển tốt còn vùng phản biện ở bán cầu não trái có ít nơ ron, làm sự phát triển hơi bị chậm. Nguyên nhân một phần từ tiên thiên, phần khác, có ảnh hưởng rất lớn từ hậu thiên. Với sự chịu đựng gian khổ từ bé, hoàn cảnh gia đình bần cố nông, được ĐCS đem đến cho một ít quyền lợi vật chất mà phần tiên thiên về phản biện của Trọng hơi bị yếu lại bị nhồi sọ của các loại tuyên truyền và giáo dục nhằm biến con người thành công cụ thì việc bảo thủ và phạm sai lầm về luận lý là chuyện tất yếu.
Hơn nữa vì bị nhồi sọ quá nhiều trong tuổi thơ mà khi lớn lên, có cương vị thì trở nên chỉ quen nghe những báo cáo đầy xu nịnh và thành tích dổm của cấp dưới, không thể nào tiếp thu được những lời phản biện dù rất chân tình.
Khi nói những lời như: Đặt lợi ích dân tộc lên trên hết; Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay; chúng ta cần xây dựng xã hội như thế này, như thế kia v.v…thì hình như ông có một chút thực lòng nào đó. Ông nói thế vì quá tin vào những báo cáo của các cấp mà không biết kiểm chứng hoặc nghĩ rằng không cần kiểm chứng.
Có một số người cũng bị nhồi sọ từ bé, nhưng lớn lên họ đã thoát ra được nhờ có xuất thân và tiên thiên vững vàng, lại găp thầy tốt, bạn tốt, hoàn cảnh tốt. Ông Trọng thì tiên thiên có một chút yếu nào đó, lại không gặp được những người khai mở sự vô minh, mà chỉ gặp điều kiện tốt, chịu ơn của cách mạng và tiến thân theo con đường XHCN.
Ông Trọng tuy có đội ngũ trợ lý đầy năng lực, đã nghĩ ra và giúp ông thực hiện những mưu lược để trừng phạt một số kẻ tham nhũng và loại bỏ đối thủ, nhưng tiếc thay trong số họ không có ai xứng đáng là quân sư với những lời khuyên can, không có bạn với phẩm chất trung thực, cao thượng.
Qua câu chuyện của GSTS Nguyễn Phú Trọng nhiều người nên và có thể rút ra được bài học cần thiết.