* JACQUES NGUYỄN THÁI SƠN
Nhà Ngoại Giao (hồi hưu) và Chủ Tịch Hội Giao Diện Pháp Ngữ
Nhà Ngoại Giao (hồi hưu) và Chủ Tịch Hội Giao Diện Pháp Ngữ
NGÀY NÀY chuyển ngữ
Tóm lược :
Trong nhiều năm qua, nhất là kể từ 2008, Biển Đông( Nam Hoa),viết tắt là BĐ(BNH) đã chứng kiến nhiều rối loạn nghiêm trọng, đối đầu một bên là nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) đang trổi dậy và có thái độ bành trướng hung hãn, và một bên là những nước trong khối Hiệp Hội các Quốc gia Đông Nam Á,(1) (ASEAN) cùng với Hoa K ỳ, Ấn Độ, Nhật Bản và Úc Châu, trong số nhiều quốc gia khác. Nhiều người đã vội vã tiên đoán một cuộc đụng độ không tránh được giữa hai khối nói trên khiến khu vực Biển Đông (BNH) có thể trở thành nơi phát sinh tranh chấp trong tương lai (Robert.D Kaplan, Foreign Policy, Oct 2011 “ South China Sea : the future of conflict” và Hillary Clinton: Asia-Pacific: America’s Pacific Century, Nov 2011) (2). Bề ngoài; những rủi ro đó đều có thật và tình trạng căng thẳng đã thấy rõ. Tuy nhiên, tôi vẫn nghĩ rằng nền hòa bình Mỹ “Pax Americana”, tuy đôi lúc đã gặp khó khăn, vẫn có thể tiếp tục tồn tại và thích nghi được với tương quan lực lượng hiện nay trong vùng để có thể bao trùm luôn cả Trung Qu ốc, lúc đó sẽ trở thành một đối tác trưởng thành và tự tin, khôn ngoan và có trách nhiệm hơn khả dĩ chấp nhận một hệ thống an ninh chung hiện nay vẫn còn thiếu vắng, tuy rằng những nét căn bản của hệ thống đó đã được các quốc gia trong khối ASEAN phác họa. Chính vì vậy cho nên những nước duyên hải trong vùng BĐ(BNH), và ngay cả trong không gian Ấn Độ -Thái Bình Dương có thể phát triển dưới sự che chở của một nền Hòa Bình Thái Bình Dưong hoặc rộng hơn “Ấn độ -Thái Bình Dương” ( “PAX PACIFICA” hoặc PAX INDO-PACIFICA”, và BĐ (BNH) có thể trở thành nơi phát sinh nhiều cơ hội hợp tác có hiệu quả trên đường tiến đến một Vùng thịnh trị Thái Hòa chưa từng có !
Lời Giới Thiệu: Tác
giả Nguyễn Thái Sơn ( Sciences Pô; Paris) hiện là Cố vấn Khoa học và Ngoại giao
thuộc Viện Địa Lý Chính trị Paris, (Académie de Géopolitique de Paris, France),
và cũng là Đồng tổng biên tập (Coediteur) của Tạp Chí Géostrategique (Địa Chiến
Lược Hoàn Cầu) do viện trên xuất bản. (www.strategicsinternational.com).
Bản gốc của bài tham luận này do Giáo Sư Nguyễn Thái Sơn soạn thão và đăng
trong số 33 (10/2011, trang 109 -121) đã phát hành của tạp chí nói
trên,vừa phiên bản điện tử vừa in trên giấy, và đã được Giáo Sư Nguyễn Thái Sơn
chuyển đến Báo Ngày Nay,Houston,USA để phổ biến. Bản tiếng Việt do Ngày
Nay chuyển ngữ.
BIỂN
ĐÔNG (BHN) MỘT VÙNG CHIẾN LƯỢC HÀNG ĐẦU
Đại đa số chúng ta đều đồng ý về tầm quan trọng địa chiến lược vượt bực
của vùng biển này, không những cho Đông Nam Á, mà còn cho cả vùng Tây Thái Bình
Dương, và từ đó, cho toàn thế giới.. Trước hết đó là một vùng biển nửa kín, gần
như là một Địa Trung H ải
của Á châu, bắc giáp Đài Loan, Trung Qu ốc (đảo Hải Nam) và
phía nam,giáp những nước thành viên của ASEAN kéo dài đến Ấn
Độ Dương. Đó là huyết mạch hàng hải lớn nhất thế giới vận chuyển gần 70% lượng
mậu dịch, (gồm 80% về năng lượng) giữa Phi Châu và Âu Châu với vùng Đông Nam Á
và Đông Á.
(Bản đồ khu vực BĐ (BNH) và bản đồ các nước ASEAN.)
Diện tích toàn vùng lên đến 3.500 000 cây số vuông, phía Bắc, từ Đài Loan, và phía Nam đến Singapore. Vùng này nhiều thuỹ sản và tài nguyên quặng mỏ, đặc biệt là dầu khí với trữ lượng được kiểm chứng được ước tính lên đến 7 tỷ thùng (trữ lượng ước đoán: 28 tỷ thùng) và khí đốt với trữ lượng được ước tính là 266 tỷ thước khối (3). Nhiều chiến lược gia đã đưa ý tưởng là nước nào làm chủ được vùng biển này thì sẽ kiểm soát được khu vực Tây Thái Bình Dương và Á Châu, và từ đó cả thế giới! Một thí dụ gần đây dường như đã kiểm nhận được tầm quan trọng của vùng biển này: vào những năm 1940, để có thể làm chủ được Á Châu, và ngăn chặn không cho
NGUYÊN DO GÂY RA TÌNH TRẠNG CĂNG THẲNG VÀ NHỮNG TRANH CHẤP TẠI BĐ (BHN): SỰ TRỖI DẬY VÀ Ý ĐỒ BÁ QUYỀN CỦA
Vùng BĐ (BHN) là một khu vực yên tịnh cho đến năm 2008 khi mà nền hòa
bình Hoa K ỳ “Pax
Americana” dường như còn đủ khả năng bảo đảm an ninh, sự ổn định và hòa
bình,cần thiết cho sự phát triển của toàn vùng, kể cả nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Hoa và khối ASEAN. Dường như Trung Qu ốc cũng đã chấp nhận tình
trạng đó. Trong quá khứ, những triều đại Trung Hoa ít để ý đến vùng
biển này, ít nhất là đến hai quần đảo Hoàng Sa ngoài khơi Đà
Nẵng (Tourane cũ) và Trường Sa, phía Đông Trung Ph ần Việt Nam, ngoài khơi Qui Nhơn; Nha Trang
và Vũng Tàu (Cap Saint Jacques) nằm mãi tận 1200 cây số phía Nam Trung Qu ốc. Không có một bản đồ
chính thức nào của Trung Hoa
thời đó có đề cập, hay ghi họa chính xác và rõ ràng những hải đảo
này như thuộc chủ quyền của đế chế Trung Hoa. Mãi đến năm 1949, thì Mao Trạch Đông mới
để ý đến tầm quan trọng chiến lược của vùng này, nhưng chưa đặt thành một
vấn đề đối ngoại quan yếu trên
trường quốc tế vì thiếu phương tiện. Tuy vậy, vào năm 1956, lợi dụng sự triệt
thoái của quân lực Pháp khỏi Đông
Dương; Bắc Kinh đã tiến chiếm một vài hải đảo trong vùng Hoàng Sa Đông,
và tái tục hành vi lấn chiếm bằng vũ lực này vào tháng Hai 1974, để chiếm đoạt
những hải đảo trong khu vực Hoàng Sa Tây trong một trận hải chiến đẩm máu với
lực lượng Hải Quân Viêt Nam Cộng Hòa (miền Nam Việt Nam), lợi dụng sự triệt
thoái của quân lực Hoa K ỳ
khỏi Việt Nam kể từ năm 1973. Vào năm 1988, lợi dụng thế cô lập ngoại giao của
Việt Nam và sự yếu kém của lực lượng hải quân nước này, Trung Qu ốc đã vận dụng vũ
lực để truy đuổi các lực lượng Việt Nam ra khỏi một số hải đảo
trong vùng Trường Sa, vốn vẫn do Việt Nam giành chủ quyền kể từ thế kỷ 17, dựa
vào những chứng cứ lịch sử rõ rang, chính xác và
sự khai thác liên tục trên quần đảo.
Tuy nhiên, kể từ năm 2008, đặc biệt là từ 2009 cho đến nay, nước Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Qu ốc
đã vận dụng thủ thuật "đả đả, đàm đàm" quen thuộc của họ, để lần lượt
đe dọa, và hơn thế, còn khiêu khích và hăm dọa, rồi xoa dịu đối với các nước
trong khối ASEAN, đặc biệt là Phi Luật Tân và Việt Nam, là hai nước quan
ngại nhất trước những sự lấn chiếm của Trung Qu ốc, đồng thời cũng là hai nước kháng
cự mạnh nhất.
Về phần mình, vào năm 2009, nước CHNDTH đã đòi chủ quyền trên 80% vùng
BĐ (BNH), nại lý do "những yếu tố chủ quyền do phát hiện lịch sử" từ
thời Hán (2 thế kỷ trước Công Nguyên), nhà Minh và nhà Thanh (từ thế kỷ thứ 15
đến 19) mà không có ý tôn trọng công pháp
quốc tế về biển đảo, đặc biệt là
Công Ước UNCLOS 1982 của Liên Hiệp Quốc, mà chính Bắc Kinh đã phê chuẩn, cũng
như những bằng chứng về sự chiếm đóng và khai thác liên tục. Từ đó, Trung Qu ốc đã tìm cách áp đặt
tham vọng lãnh hải bằng sức mạnh hải quân đang phát triển, cũng như bằng những
động thái không chính
thống như việc quảng bá rộng khắp về cái gọi là bản đồ "đường Lưỡi
Bò" gốm 9 đường gián đoạn hình chữ U chạy từ đảo Hải Nam cho đến tận Nam
Dương và chiếm nguyên 80% diện tích vùng biển BĐ (BNH)!? Sự kiện đó cũng ví thử
như, một ngày nào đó, Ý Đại Lợi (La mã ) quyết định rằng biển Địa Trung H ải phải trở thành ao nhà
của Ý (mare nostrum) với lý do là khoảng hơn 2000 năm trước đây, đế chế La Mã
đã kiểm soát vùng biển này!?!
Vào năm 2010, tình trạng căng thẳng tăng lên khi Bắc Kinh tìm cách
truyền đạt đến các nước thuộc khối ASEAN và cộng đồng thế giới, đặc biệt là Hoa K ỳ, Nhật Bản, Ấn Độ và Úc
Châu, rằng BĐ (BNH) cùng với hai quần đảo nằm trong vùng biển này thuộc loại
lợi ích quốc gia (lợi ích cốt lõi) của Trung Qu ốc, tương đương với Tây
Tạng và Đài Loan!?
Động thái đó đã đưa đến phản ứng ít nhiều mãnh liệt từ phía các nước
thành viên ASEAN, nhưng phản ứng mạnh nhất đã đến từ phía Hoa K ỳ vào khoảng giữa năm 2010,
qua lời tuyên bố rõ rệt và cứng rắn của Ngoại Trưởng Hillary Clinton nhân Hội
nghị về An Ninh Khu Vực do ASEAN tổ chức tại Hà Nội, khi bà tuyên bố rằng lợi
ích quốc gia của Hoa K ỳ
là bảo đảm tự do giao thông hàng hải và mậu dịch trong khu vực BĐ(BNH)
trong khuôn khổ công pháp quốc
tế, và bảo đảm rằng mọi tranh chấp trong vùng phải được giải quyết qua hiệp thương đa phương, không bị đe dọa bằng vũ lực hay
xử dụng vũ lực.Bộ trưởng Ngoại Giao Trung
Qu ốc đã tỏ ra phẫn nộ đối vời lời tuyên bố này, và đã rời bỏ
phòng hội và chỉ trở lại hội nghị
khoảng một giờ sau để lên án Hoa
K ỳ về hành vi “công kích” Trung Qu ốc nói trên!
Như vậy là CHNDTH đã được cảnh báo trước! và năm 2010 đã trở thành
"năm kinh hoàng" (Annus Horribilis) của Trung Qu ốc về mặt đối ngoại.
Tất cả vốn liếng sức mạnh mềm mà Bắc Kinh đã kiên nhẫn tích luỷ được trong 20
năm trời đối với các láng giềng Châu Á qua chính sách trỗi dậy hòa bình
"tao guang yang hui" đã biến thành
mây khói, và Trung Qu ốc đã gây ra nghi kỵ và ngờ vực nơi các láng
giềng, và nhất là các nước lớn như Hoa
K ỳ, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc Châu, và ngay cả Nga, mặc dù nước này
là thành viên đồng sáng lập với CHNDTH, của Liên Minh O.C.S. (Tổ Chức Hợp Tác
Thượng Hải, có lúc được coi như là khối NATO phương Đông?!)
Nhiều chuyên gia về Trung
Qu ốc cắt nghĩa sự rối loạn nói trên trong chính sách đối
ngoại của Trung Qu ốc
bằng giả thuyết là có hai trường phái trong giới lãnh đạo chính sách Trung Qu ốc: Một trường phái chủ
trương bành trướng về hướng Tây "Sijin" (Tây chinh) do "ông Hoàng Đ ỏ" là Tướng
Liu Yazhou (Lưu Á Châu) chủ trì, và trường phái bành trướng mạnh về hướng Đông,
chủ yếu do các tướng lãnh không quân và hải quân chủ trương, với sự yểm trợ của
giới tư bản và các thành phần quốc gia cực đoan.
Thêm vào đó, ngành ngoại giao Trung Qu ốc luôn phải lèo lái gian nan giữa nhiều phe phái có quyền quyết định trong đảng cộng sản Trung Qu ốc, từ các quan viên
trung ương cho đến giới lãnh đạo các tỉnh quan trọng nằm ở miền duyên hải bờ
Đông và Đông Nam Trung Qu ốc,
và ngay cả những nhân vật cầm đầu các bộ có tính chiến lược như bộ Năng Lượng
và Ngoại Thương.
Cũng có thể là những khó khăn trong chính sách ngoại giao phát xuất từ
việc các cấp lãnh đạo Bắc Kinh đã quen áp dụng những quy tắc cỗ xưa trong cẩm nang Tôn T ử Binh Pháp (Nghệ thuật Chiến tranh, thế kỷ thứ
5 trước Công Nguyên: Dùng thuật di động uyển chuyển và
ngụy trang để làm địch rối loạn và hỗn loạn trong hàng ngũ để có thể thắng địch
bằng lối đánh bất ngờ) và chiến lược cờ Gô (Ngũ) (linh động và nhanh nhẹn
trong nước cờ để bao vậy địch) ?
Nghĩ cho cùng, tôi nhận thấy rằng
giới lãnh đạo Bắc Kinh bị chia thành hai khuynh hướng: thành phần cứng rắn
được hỗ trợ bởi phe giáo điều trong đảng, phái quốc gia cực đoan, cũng
như khối quốc phòng-kỹ nghệ (Không và Hải quân) cùng với khối công nghiệp hầm
mỏ và dầu khí, là những giới muốn khai thác triệt để lợi thế nhất thời hiện tại
của CHNDTH tại vùng BĐ hầu tìm cách chiếm đoạt toàn vùng này trước khi Hoa K ỳ có thể hoàn tất việc tái
phối trí thế trận quân sự và ngoại giao trong vùng để thực hiện kế hoạch
phòng thủ và bao vây Trung quốc, bằng sự liên kết với các đồng minh của mình trong vùng
(Nhật Bản, Úc Châu, Nam Hàn, Thái Lan), với những đối tác có ít nhiều trọng
lượng chiến lược như Ấn Độ, Nam Dương, Singapore và Việt Nam (5). Công cụ chiến
thuật của Trung Qu ốc
là đơn phương tạo dựng ra cái gọi là chủ quyền "lịch sử" của họ
trên 80% vùng BĐ gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, dưới dạng cái Lưỡi
Bò, chủ yếu là để tạo sự rối trí và hỗn loạn trong dư luận thế giới để hy
vọng rằng, bằng cách đó, cuối cùng họ sẽ chiếm được một miếng bánh
lớn, nhờ sự đe dọa của lực lượng hải quân của họ, bội phần mạnh hơn
lực lượng của các nước thành viên ASEAN.
Lối suy luận đó cũng là luận cứ búa tạ của họ đối với dư luận trong
nước, cũng như đối với giới
lãnh đạo kinh tế Trung Qu ốc,
vốn là những thành phần tiêu thụ nhiều năng
lượng và nguyên liệu, là những thứ mà, theo họ, vùng BĐ tồn trữ những lượng
khổng lồ.
Khuynh hướng thứ hai, ôn hòa gồm
đại loại những thành phần có kiến thức và ôn
hòa trong đảng Cộng Sản Trung
Hoa , giới ngoại giao, thành phần trí thức cởi mở và giới thương gia, kinh doanh và hợp tác gần với phương Tây. Khuynh hướng này có luận cứ
hợp lý hơn vì được tiếp cận nhiều thông tin hơn, thường ủng hộ một
chính sách đối thoại và hợp tác với
Phương Tây trong khi chờ đợi việc hoàn tất chính sách 4 Hiện Đại. Những người
ủng hộ chủ trương nhìn về hướng Tây "Sijin" (Hành trình về phương
Tây) dĩ nhiên cũng theo xu hướng này.
Vào khoảng giữa tháng 10/2011 vừa qua, hai khuynh hướng nói trên đã đấu đá ác liệt trên Hoàn Cầu Thời Báo (Global
Times), ấn bản Anh ngữ của Nhân Dân nhật báo Trung Hoa , cơ quan ngôn luận của đảng Cộng Sản Trung Qu ốc.
Bắc Kinh đã để cho cuộc tranh cãi diển tiến mà không can thiệp, một phần có thể bởi đó là một chiến thuật của họ, cũng có
thể là vì họ không có khả năng để kiểm soát phe cứng rắn,vốn dĩ được hỗ trợ bởi dư luận quần chúng đã bị đầu độc đến
cao độ bởi tuyên truyền phục hưng chủ nghĩa,và có tiềm năng ảnh hưởng nguy hại
đến sự ổn định của đất nước và hòa bình thế giới.
Trong suốt mùa hè 2011, phe cứng rắn đã thực hiện tại BNH-BĐ, đặc biệt
là đối với Phi Luật Tân và Việt Nam, nhiều cuộc
biểu dương lực lượng hải quân có tính khiêu khích, nhiều cuộc
truy sát liên tiếp và có kế hoạch chống lại ngư dân và tàu thám hiểm địa chất
dầu khí, đến mức độ mà Phi Luật Tân đã phải phản ứng mạnh mẽ và cầu cứu đồng
minh Hoa K ỳ trợ
giúp, trong khi phía Việt Nam đã phải quyết định thực hiện những cuộc tập trận
hải quân bằng đạn thật ở ngoài khơi vùng biển Trung phần, ở một địa điểm chỉ
cách các tàu Trung Qu ốc
một vài sải cáp, và không xa bờ biển Trung Qu ốc là bao!
Tình hình đó đã buộc Hoa K ỳ phải lên tiếng kêu gọi mọi bên nên bình tĩnh, và sau đó đã có một
loạt gặp gỡ có tính cách địa chiến lược giữa một bên là Phi Luật Tân và Việt
Nam, và một bên là Hoa K ỳ,
Úc, Ấn Độ, và Nhật Bản, dưới hình
thức song phương cũng như đa phương.
Những cuộc gặp gỡ cấp cao đã diễn tiến với một nhịp độ chưa từng thấy
giữa các giới chức ngoại giao và quân sự Hoa K ỳ, Nhật Bản, Úc Châu và Ấn Độ, dưới hình thức song phương cũng như đa phương, mỗi nước đều xác quyết ý định tăng cường phòng thủ và kiên
định nhập cuộc vào vùng BĐ. Phía Ấn Độ thì đã được các đối tác công khai khuyến
khích nên tiến ra khỏi vùng Ấn Độ dương và gia tăng liên kết với khối
ASEAN và tham dự vào hoạt động trong vùng BĐ.
Kể từ giữa tháng 10/ 2011, Phía Ấn đã mạnh mẽ hành động và mời
lãnh đạo Myanmar và Việt Nam
sang thăm viếng chính thức. Nhân các cuộc
thăm viếng đó, Thủ Tướng Ấn Độ đã long trọng cam kết quyết tâm cao độ của chính
phủ Ấn để thực hiện chính sách hướng
về phía Đông (Nhìn về hướng Đông) đã được Hoa K ỳ công khai khuyến
khích và ủng hộ cùng với hai đồng minh là Úc và Nhật Bản.
Một sự kiện quan trọng hàng đầu: Ấn Độ kiên định yểm trợ sự tham gia của
công ty dầu khí ONGC Videsh bên cạnh đối tác Việt Nam là công ty PetroVietnam,
bất chấp những lời phản kháng và hăm dọa có bài
bản và trịch thượng của chính quyền
Bắc Kinh, phần lớn được chuyển qua các cơ quan báo chí của đảng CSTQ và
của chính phủ (Nhân Dân nhật báo và Hoàn Cầu Thời Báo, trong số nhiều cơ quan
báo chí khác). Mặt khác Nhật Bản cũng đã hỗ trợ cho quyết định của Ấn Độ vào
tháng Chín 2011. Trước đó, hải quân Ấn Độ cũng đã giữ thái độ phớt
tỉnh của người Anh, cũng thường được gán cho người Ấn Độ và không để ý đến lời
cảnh báo trên làn sóng phát thanh từ một chiến hạm Trung Qu ốc yêu cầu chiến hạm Ấn
tới thăm bến cảng Việt Nam phải trình diện và rời khỏi "vùng biển Trung Qu ốc" ?! trong khi
chiến hạm này đang di chuyễn trong vùng biển của Việt Nam , trên đường rời khỏi nước này!
Về phía Miến Điện, với sự khuyến khích và hỗ trợ của Ấn Độ, đối tác
truyền thống của nước này, tân Tổng Thống Miến Điện (và là cựu tướng lãnh)
Thein Sein đã tỏ rỏ thái độ độc
lập với nước CHNDTH khi quyết định đình chỉ, căn cứ trên sự khuyến cáo của giới
bảo vệ môi trường, và chống lại những đe dọa kẻ lớn từ
phía Trung Qu ốc,
một dự án xây đập thủy điện vĩ đại trên thượng nguồn sông Irrawady, trị giá vài tỷ Mỹ Kim trong một hợp
đồng ký kết với một công ty Trung
Qu ốc. Ông đã tuyến bố rằng, đối với nước ông, Ấn Độ cũng quan
trọng ngang với Trung Qu ốc!
Phi Luật Tân tỏ rỏ là nước
i kháng cự mạnh mẽ nhất đối với những đe dọa từ phía Trung Qu ốc, và đã công khai cầu
cứu đồng minh Hoa K ỳ, đồng thời mua sắm, cũng
của Hoa K ỳ và cả
từ những xứ khác, nhiều
chiến hạm để tăng cường khả năng phòng thủ BĐ. Mặt khác, một cuộc chạy đua vũ
khí cũng đã được phát động ở các nước thuộc khối ASEAN, trước mối đe dọa quân
sự ngày càng hiện rõ từ phía Trung
Qu ốc.
Việt Nam đã trở thành khách hàng lớn nhất của kỹ nghệ quốc phòng Nga
trong những năm 2009 đến 2011, với những đợt giao hàng tăng tốc về chiến hạm,
tàu ngầm hạng Kilo, những phi cơ khu trục SU 27, SU 30, những dàn hỏa tiễn
phòng thủ duyên hải Bastion loại tối tân nhất... Nam Dương, Mã Lai và Singapore
cũng có những quyết định tương tự để hiện đại hóa quân đội của họ.
Kể từ mùa hè 2011, nước CHNDTH đã bi cô lập và ở trong một vị thế yếu
kém về mặt đối ngoại tại Đông Nam Á, đối diện với một liên minh trên thực tế đã
được, tiên khởi, dựng lên từ năm 1954, do sáng kiến của Hoa K ỳ với mục đích ngăn chặn Trung Qu ốc phiêu lưu!
Sự hung hãn và tham vọng bá quyền lộ liễu của Trung Qu ốc tại BĐ đã đẩy những
nước trong khối ASEAN vào vòng tay của Chú Sam, trong lúc đương sự liên tục
tuyên bố và thăm viếng khắp nơi,trong vùng, để khẳng
định quyết tâm giao tiếp trở lại và can dự lâu dài với vùng
Châu Á Thái Bình Duơng, nay đã trở thành ưu tiên hàng đầu của Hoa K ỳ.
Để thuyết phục dư luận quần chúng Hoa K ỳ, rất nhiều phương tiện đã được vận dụng kể cả hai tờ báo New York Times và Washington Post (6). Từ
tháng 10/2011, tạp chí tiếng tăm và có
nhiều ảnh hưởng Foreign Policy đã dương giàn đại bác và khai pháo với một bài
tham luận dài và rất ngoạn mục tựa đề : Biển Nam Hoa: Tương lai của
Những Tranh chấp” (7) với tác giả là cựu
quan chức chuyên gia Mỹ M. Robert D. Kaplan. Số tháng 11,
2011 còn xuất sắc hơn với một bài tham luận có tính di ngôn dài được của một nữ
lưu trọng vọng: bà Hillary Clinton, Ngoại Trưởng Hoa K ỳ. Tựa đề: Châu Á
Thái Bình Dương: Thế Kỷ Á Châu của Hoa K ỳ. Bà Clinton đã
phóng ngòi bút ái quốc tuyệt vời của
bà để chứng minh rằng Hoa K ỳ
không hề yếu đi, mà ngược lại đã luôn luôn có khả năng vực dậy mạnh mẽ
sau mỗi cuộc khủng hoảng, bởi vì Hoa
K ỳ là nền dân chủ siêu việt nhất
thế giới. Châu Á Thái Bình Dương là trọng tâm của nền kinh tế thế giới,
và Hoa K ỳ sẽ trở
lại vùng này trong tư thế thượng phong và
cương quyết hơn bao giờ hết, nhờ lòng quyết
tâm và sức mạnh rắn, được tăng cường bởi uy lực tuyệt vời của sức mạnh mềm, và
dựa vào sự hợp tác hiệu năng của
vô số đồng minh, đối tác và bạn bè trong vùng.
Nói ngắn gọn: Hoa K ỳ
đã trở lại Á Châu, và những ai đã đặt cược vào sự suy tàn của Hoa K ỳ, hãy coi chừng! Như thế, Trung Qu ốc đã được cảnh cáo một
cách rõ rệt, ngược lại những lời tuyên
bố của Bắc Kinh, nhiều khi mơ hồ và tối nghĩa, rất phù hợp với lối nói nước đôi
của CHNDTH đối với ASEAN.
Ngay lúc này, vào ngày 22 tháng 10, 2011, vị tân Bộ trưởng Quốc phòng Hoa K ỳ Léon Panetta đã thảo luận
với người c các đồng sự của
ông ở Nhật Bản, Nam Hàn, Ấn Độ, Úc Châu và trong khối ASEAN, để phối hợp hành
động hữu hiệu hơn, và hiện đại hóa trang bị của họ hầu có thể bảo vệ an ninh,
ổn định và hòa bình tại Châu Á và bảo đảm sự phát triển của khu vực Ấn Độ-Thái
Bình Dương, là nơi cư ngụ của trên 3 tỷ con người!
Trong khi đó Trung Qu ốc
sẽ hoặc có thể làm gì?
Phản ứng đầu tiên của Trung
Qu ốc là triệu tập đến Bắc Kinh vào giữa tháng 10 vừa qua,
người láng giềng ý thức hệ (?) lỗi
thời đàn em của họ, là Đảng Cộng Sản Việt Nam, từ trước tới nay chỉ là một đồng
minh yếu kém với bề ngoài dễ bảo, đôi khi mang tính lệ thuộc. Thế nhưng, lần
này đảng đàn em đã gửi đại diện là một
tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng già
nua và nhỏ bé, thiếu quyền uy thực sự và còn được hộ
tống theo bởi
nhiều thành viên của Bộ Chính Trị, Ủy Ban Trung Ương và bộ trưởng.
Gió đã đổi chiều! nhiều cuộc biểu tình yêu nước chống bành trướng Trung Qu ốc đã xảy ra tại Hà Nội
và Sàigon-TP Hồ Chí Minh vào mỗi sáng chủ nhật trong suốt gần ba tháng hè 2011. Đàn em Cộng
sản Việt Nam đã bắt buộc phải khẳng định mình đối với
người anh khỗng lồ Trung Qu ốc, và cuối cùng Bắc Kinh chỉ có thể ép buộc được đứa em ký kết một bản
tuyên bố hình thức, ghi
nhận sự đồng thuận cam kết trung thành với những chủ thuyết ý thức hệ (Kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa!?) giữa
hai đảng và hai nước (?!), cộng với một số nghị
định thư về những thỏa thuận trên nguyên tắc và những cuộc đàm phán song phương
nhằm giải quyết những mâu thuẫn giữa hai bên về BĐ (thật
sự chỉ về Vịnh Bắc bộ, theo nguồn tin đáng tin cậy), điều mà Trung Qu ốc hy vọng hão huyền có
thể xử dụng được trong mục đích chia rẽ thế liên minh phía trước mặt !.
Trong cùng thời điểm này, Hà Nội đã cử vị chủ tịch nước trẻ hơn và nhất là
uy quyền sáng giá hơn, Trương T ấn Sang, qua Ấn Độ để ký kết một liên minh khởi đầu với một
nước đã từng là đối tác truyền thống và trung thành của Hà Nội từ năm 1947, và hơn nữa, cũng lại là đối thủ của Trung Qu ốc!
Tiếp sau những sai lầm và thất bại nặng nề như vậy, nền ngoại giao Trung Qu ốc chỉ còn lại
một vài con bài yếu kém : thúc đẩy Bắc Hàn gieo rắc hỗn loạn trong vùng Đông
Bắc Á Châu? nhưng dịp may của B ă ắ c Kinh rất mỏng bởi vì Nam Hàn và Nhật Bản đã gắn kết chặt chẽ với nhau bên cạnh Hoa K ỳ, và hơn nữa cả hai nước này
đã thành công trong việc đàm phán trực tiếp với giới lãnh đạo Bắc Hàn, một đất
nước đang còn phải chịu đựng nạn đói.
Hoặc giả CHNDTH có thể xúi giục Iran gây rối tại Trung Đông ? có thể là không,
bởi vì Syria, đồng minh của Iran trong vùng đang ở trong một vị thế ngặt nghèo
và rất có thể đang gần sụp đổ, cuộc giải phóng Libya và cái chết của Đại Tá
Muammar Kadhafi có thể thúc đẩy tiến trình đó!
Lại thêm nữa, CHNDTH đang phải đối mặt với những khó khăn khả dĩ
làm suy yếu chính thể độc đoán cứng rắn và lỗi
thời này, ngay trong thời điểm vừa tế nhị vừa nguy hiểm của cuộc chuyển giao
quyền lực giữa nhóm lãnh
đạo hiện thời, cho lãnh đạo mới vào năm 2013 tới đây: tình trạng suy giảm tăng
trưởng, đồng nghĩa với sự gia tăng nạn thất nghiệp, một bong bóng sẵn sàng nổ vỡ trong ngành địa ốc sẽ làm sụp đổ một ngành được điều hành kém cỏi từ lâu; nguy cơ của một cuộc khủng hoảng ngân hàng do sự
chồng chất những khoản nợ khó đòi; đại họa của nhiều chính quyền tỉnh, thành
phố và doanh nghiệp nhà nước được quản lý quá tồi;
tình hình căng thẳng trầm trọng tại
Tây Tạng và những tỉnh chiến lược lân cận như
Gansu (Cam Túc), Qinghai (Thanh Hải) và Sichuan (Tứ
Xuyên)phía Tây Nam, nơi có những cộng đồng dân cư người Tây Tạng có tinh thần
quốc gia tự trị cao; tiếp theo một loạt những vụ tự thiêu của các tu sĩ
Tây Tạng; những biến loạn bạo động liên
tiếp trong vùng Tân Cương và những vụ biểu tình tuần hành không kém bạo đ
ộng trong vùng Nội Mông...
Trong tình huống này, nước CHNDTH cần phải thay đổi chính sách và nằm
yên để hy vọng có thể vượt qua
được những giai đoạn khó khăn như họ đã từng
trải nghiệm từ năm 1949, hầu có thể trổi dậy được, hay ít ra là
như họ mong muốn !
Tuy nhiên lần này, Hoa K ỳ,
một siêu cường quốc có sức chịu đựng bền bỉ, vì là một nước dân chủ, đã trở lại
châu Á lâu dài, thêm vào đó họ còn đón nhận được sự hỗ trợ nồng nhiệt của đồng
minh, đối tác, bạn hữu và khách hàng! Trong khi đó thì Trung Qu ốc vẫn chỉ còn là một
cường quốc khu vực, non trẻ, ít kinh nghiệm, vụng về và thiếu khôn ngoan, và
vẫn còn chưa ổn định, cùng lúc còn bị cạnh tranh và ngờ vực bởi những nước láng
giềng, như Nhật Bản và Ấn Độ, và rất có thể bởi cả nước Nga, vốn đang chờ đợi
thời cơ cho chính họ.
Những lực lượng võ trang của Trung
Qu ốc còn yếu kém và
thua xa về mặt kỹ thuật so với lực lượng Hoa K ỳ, theo sự thú nhận của chính những lãnh đạo
quân sự của họ, tỷ như Đô Đốc Yang Yi (8). Trung Qu ốc phải chấp nhận tìm cách dịu dọng, chủ yếu
là với những láng giềng trong khối ASEAN, ít nhất là chỉ để làm giảm bớt tình
hình căng thẳng tại BĐ và cố tránh để cho Hoa K ỳ lợi dụng những tranh chấp đó để trở lại châu
Á nhanh chóng và ở thế
thượng phong.
Như vậy, có thể chỉ là một vấn đề chiến thuật thuần túy, như trong cờ Gô
Trung hoa, hay là pháp thuật kiên trì và ngụy trang như tướng quân Tôn T ử đã chĩ dạy trong binh
thư cách đây hon 2500 năm!
Vì thế ,theo thiển ý , sẽ không có nguy cơ tranh chấp lớn tại Châu
Á trong những năm sắp tới và vùng BĐ sẽ trở lại tương đối bình lặng.
Huống chi là Hoa K ỳ
đã tuyên bố rằng họ sẽ không trở lại Châu Á để độc tôn thống trị toàn vùng, vì
lý do phương tiện của họ hiện nay đã bị tạm thời giới hạn bởi cuộc khủng hoảng
trầm trọng và bởi tình
trạng nợ công quá sức , và hơn thế nữa, những đồng minh, đối tác và bạn hữu
Châu Á của Mỹ sẽ nhìn họ bằng một con mắt không mấy thân thiện nếu họ
muốn trở lại châu Á Thái Bình Dương
với vị thế thống tri
.
Trong thực tế, và trong nhiều dịp, giới lãnh đạo Hoa K ỳ đã trao đổi với giới lãnh
đạo Trung Qu ốc
về ý muốn chia xẻ trách nhiệm với Trung
Qu ốc trong việc gánh vác các vấn đề thế giới, trong cương vị
một đối tác hài hòa, vừa có trách nhiệm, vừa tôn trọng những quy tắc và luật lệ
quốc tế được thừa nhận (9). Tuy nhiên, giới lãnh đạo Trung Qu ốc đều là những thành
viên của đảng CSTQ, vẫn tuân theo những giáo điều lỗi thời, và họ thường thực
hiện một chính sách quá thiên về Trung
Hoa , vừa sai lầm vừa thiếu trách nhiệm, và đôi khi tỏ ra khó
hiểu, không những cho bạn mà ngay cả cho đối thủ.Cho nên Người Hoa K ỳ sẽ phải tìm cách lợi dụng sự trở lại của quận lực của mình ở Châu Á, để
thuyết phục người Trung Hoa
nên chấp nhận những luật chơi minh bạch và có trách nhiệm, cũng như trung thực
qua phương thức tổ chức m một
nền an ninh chung.Hoa Kỳ thường ưa chuộng
những hệ thống an ninh tập thể, và
đã ưa thích điều đó từ lâu, trước tiên là cho khu vực Mỹ Châu, rồi đến Âu Châu
và vùng Cận-Trung Đông (NATO, CENTO...) và cho toàn thế giới (Hội Quốc Liên sau
đệ nhất thế chiến, và Liên Hiệp Quốc sau 1945). Với Đông Nam Á, vào thời kỳ
chiến tranh lạnh, Hoa K ỳ
đã hướng dẫn đồng minh của mình thành lập tổ chức OTASE (Tổ Chức Hiệp Ước Đông Nam
Á Châu, SEATO), một tổ chức an ninh khu vục tương đương như một NATO tại
Đông Nam Á, vào năm 1967, đã quy tụ các nước Thái Lan, Nam Dương, Mã Lai,
Singapore và Phi Luật Tân.
Sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt, Tổ Chức này, mới đầu còn yếu ớt vì
không thuần nhất, đã dần dần biến thành một tập thể vũng chắc và khá năng động,
và hiện nay có tham vọng trở thành một cộng đồng (có chiếu khán chung, thị
trường chung, và có một nền kinh tế hội nhập) từ nay cho đến năm 2015! và sau
đó sẽ diễn tiến theo
mô hình Cộng đồng Âu Châu.
Mặc dù những yếu kém và thiếu sót
của nó, ASEAN đã từ từ phát triển thành một hệ thống an ninh chung có khả năng
tương đối bảo vệ các
thành viên. Trong vòng 10 năm qua, Tổ Chức này đã triển
khai được hệ thống an ninh tập thể ở
mức độ có thể thử nghiệm bao gồm cả Trung Qu ốc. Đó là mục tiêu của Hiệp
Ước Hữu nghị và Hợp tác ( TAC Treaty of Amity and Cooperation) , một Hiệp
ước bất khả xâm phạm, hiện đã bao gồm được đại đa số các
cường quốc ) và của EAS ( Thượng Đỉnh Đông Á) bao g ồm
đại đa số các quốc gia vùng Á châu Thái Bình Dương.
Trung quốc được coi
như là một nguồn cơ hội, nhưng cũng chứa đựng những mầm mống biến loạn có thể
xảy ra, như căng thẳng và tranh chấp trong vùng BĐ do tham vọng bành
trướng của Bắc Kinh.
Đó là trường hợp văn bản DOC (Declaration of Conduct of Parties) Bản
Tuyên Bố Ứng Xử được
ký kết giữa một bên là ASEAN và Trung
Qu ốc tại NamVang năm 2002, với
kỳ vọng phải sớm triển khai một Bộ
luật Hành Xử "Code of Conduct", COC, có hiệu lực
bắt buộc giữa các bên ký kết, và có mục đích ngăn chặn những tranh chấp
võ lực, cũng như để giải quyết những tranh chấp đó, trong trường hợp không
tránh được, và xẩy ra do thái độ hăm dọa của Trung Qu ốc tại vùng BĐ.
Tại ASEAN, người ta hy vọng rằng, với tình hình mới do sự trở lại mạnh
mẽ của Hoa K ỳ,Trung
quốc sẽ ưng thuận tiến nhanh hơn trong tiến trình hiệp thương với ASEAN về văn
bản COC (Code of Conduct; Bộ luật ứng xử về BĐ.)
Song song với nỗ lực trên, trong vòng vài năm qua, Tổ Chức ASEAN
cũng thiết lập được nhiều cơ cấu chung nới rộng khác như Diễn Đàn Khu Vực
ASEAN, gọi tắt là ARF (ASEAN Regional Forum), thành lập vào năm 1993, và
gồm 10 nước trong khối ASEAN cùng với 16 nước khác như Trung Qu ốc, Hoa K ỳ, Nhật Bản, Liên Bang Nga…),
ASEAN + 3 (gồm ASEAN với Trung
Qu ốc, Nhật Bản, Nam Hàn), Thượng Đỉnh Đông Á, gọi tắt là
EAS (được khởi động vào năm 2005 và gồm có ASEAN + 5 nước Đông Á + Úc Châu
+ Hoa K ỳ + Liên
Bang Nga = 18 nước).
Diễn đàn ARF, và đặc biệt là từ năm 2010, EAS với Hoa K ỳ là thành viên mới, dường
như đã trở thành những diễn đàn hữu hiệu nhất để cho các nước thuộc khu vực
Đông Á và ASEAN thảo luận và giải quyết, trong số những chủ đề khác, các vấn đề
an ninh chung, với sự phối hợp,cộng tác và hỗ trợ của các cường quốc lớn như
CHNDTH, Hoa K ỳ,
Nhật Bản, Liên bang Nga, và sắp tới có thể có thêm cả Ấn Độ.
Hiển nhiên, những cơ cấu này, vì tương đối
còn mới, chưa thể mang lại những kết quả thỏa đáng, tuy nhiên nó
có giá trị là đã được thiết lập, và tạo cơ hội học hỏi và thực tập các phương thức hợp tác nhằm xây dựng nền an ninh chung
cho khu vực.
Chúng ta có quyền kỳ vọng rằng chính sách can dự mạnh
mẽ và vững bền của Hoa K ỳ tại Châu Á Thái Bình Dương
sẽ tạo ra một động lực mới và
hữu ích cho các cơ cấu trong vùng,để một khi Trung quốc trưởng thành hơn, tự
tin hơn và khôn ngoan hơn,và vì thế có trách nhiệm hơn,thì một hệ thống an ninh
chung mới cho khu vực khả dĩ
đối phó với những thách thức chung, sẽ được thành lập cho các thành viên của
ASEAN, cùng với Hoa K ỳ,
Trung Qu ốc,
Nhật Bản, Liên bang Nga, Ấn Độ, Úc châu...
Một tổ chức như thế sẽ
đủ tầm để bảo đảm thế quân bình, sự ổn định và nền hòa bình cho -BĐ, điều kiện
không thể thiếu được cho phát triển và tiến
bộ. Người ta có thể gọi tổ chức đó là Pax Pacifica (Vùng Hòa Bình
Thái Bình Dương) hay Pax Indo Pacifica ( Vùng Hòa
Bình Ấn độ - Thái Bình Dương), để thay thế cho Pax Americana ( Vùng
Hoà Bình Mỹ), đã có từ sau Đệ Nhị Thế chiến nhưng cần cập nhật, vì lợi
ích của các nước ASEAN,Trung Qu ốc
và thế giới.
Trung quốc sẽ được bảo đảm một vị thế tương xứng
sang giá trong khu vực, do tầm vóc và những thành
quả kinh tế của Bắc Kinh.Trung hoa là một nền văn minh cổ xưa đã quen với vị
thế đế chế trung tâm, và đôi khi với chính sách bành trướng đế quốc bá
quyền, nhưng cũng sẽ
phải tự mãn với một chỗ đứng trung tâm trong khuôn khổ của
một Vùng Thái hòa ThịnhTrị chung cùng với
những quốc gia khác trong khu
vực, nhờ vào tổ chức an ninh chung đó.
Thay lời kết, chúng tôi thiển nghĩ không nhất thiết là định mệnh đã an
bài để vùng BĐ phải trở thành nơi phát sinh ra tranh chấp trong tương lai giữa Trung Qu ốc và các nước láng
giềng phía Nam, bởi vì chính sách can dự mạnh mẽ và vững bền của Hoa K ỳ ở Châu Á Thái Bình Dương sẽ
tạo thành một yếu tố quân bình lớn lao, và do đó sẽ đem lại ổn định thay vì
thế bất quân bình hiện nay, phát
sinh từ chính sách bành trướng không kiểm soát của Trung quốc, vốn vẫn còn là
một đế chế độc đoán phi dân chủ đang hồi trổi dậy, nghĩa là còn non trẻ hám ăn, ít kinh nghiệm địa chính
trị và tương đối còn thiếu tinh thần trách nhiệm toàn cầu.
Khởi nguồn từ những cơ cấu an ninh chung hiện có trong vùng ASEAN, hẳn là vẫn còn chưa được kiện toàn, bởi vì
còn non trẻ và chưa có nhiều trải nghiệm, một tổ chức mới có thể được những
nước trong vùng cùng nhau thiết lập, trong khuôn khổ của một bối cảnh
mới, quân bình và ổn định hơn, và vì vậy sẽ thuận lợi cũng như bền vững hơn.
Những quốc gia duyên hải vùng
BĐ sẽ có cơ hội để phát triển trong niềm hạnh phúc chung của những
nước biết phát huy nền thịnh vượng chung trong một bối cảnh ổn định và lành
mạnh, như nhũng người trước họ
đã từng hy vọng vào năm
1971 tại Kuala Lumpur, Mã lai Á, khi họ tự hứa là sẽ cố gắng bắt tay xây dựng
một “khu vực phi nguyên tử, ổn định, trung lập và thái hòa.”
Ghi chú:
1)ASEAN gồm 10 nước (Thái Lan, Việt Nam, Myanmar, Lào, Cam Bốt, Mã Lai,
Singapore, Nam Dương,Brunei,và Phi Luật Tân). Quốc gia Timor
Lest phía đông Nam Dương chờ gia nhập. Tổng cộng dân số toàn khu vực là hơn 600
triệu người, trên một diện tích 3.5 triệu cây số vuông,với một Tổng sản lượng
nội địa PIB - GDP là 1500 tỷ Mỹ Kim ( khoảng 2 500 Mỹ kim / GDP đầu
người)
3).
IrisFrance.org
4). Jacques NGUYEN Thai Son
Géostratégique N°31 La
Stratégie chinoise appliquée dans
les Balkans, tt 223-235 www.strategicsinternational.com
5). Richard N.Haas/WaPo Why Europe no longer matters ?
The Washington
Post t. 12
6). tài liệu đã dẫn
8). Jacques NGUYEN Thai Son op.cit. www.strategicsinternational.com
9). Cuộc họp báo chính thức
của nhị vị Tổng Thống Mỹ B. Obama và Chủ Tịch TQ Hu Jintao,Washington
19-01-2011
10). Jacques NGUYEN Thai Son,
op.cit www.strategicsinternational.com