VỀ HỘI NGHỊ CẤP CAO
VIỆT - TRUNG TẠI THÀNH ĐÔ - TRUNG QUỐC
Bài thứ tư
TẬP ĐOÀN BÁ QUYỀN, BÀNH TRƯỚNG TRUNG QUỐC NGÀY CÀNG CAN
THIỆP SÂU, PHÂN HOÁ
NỘI BỘ VIỆT NAM
Hồi ký "Hồi Ức và Suy Nghĩ" của Trần Quang Cơ
Nhà báo Trần Quang Thành giới thiệu
LÒI GIỚI THIỆU : Từ sau hội nghi Việt Trung ở Thành Đô (Trung Quốc), tập
đoàn bá quyền, bành trướng Trung Quốc càng lộ liễu, trắng trợn can thiệp vào
công việc nội bộ của Việt Nam, dùng sức ép về chính trị, kinh tế và các thủ
đoạn nham hiểm khác chía rẽ nhóm cầm đầu Đảng Cộng sản Việt Nam, lấn chiếm lãnh
thổ, lãnh hải của Việt Nam.
Hơn 20 năm trôi qua từ hội nghị
Thành Đô (9/1990) đến hội nghị Bắc Kinh (10/2011), từ cái ngày ông Tổng bí thư
Đảng Cộng sản Việt Nam - Nguyễn Văn Linh lén lút đi gặp quan thầy Trung
Quốc tại Thành Đô để mua lấy sự sống còn cho đảng đến bây giờ đã hơn 20 năm.
Những gì xảy ra cho đất nước Việt Nam từ bàn tay khuynh loát, thống trị của
Trung Quốc ra sao trong suốt thời gian đó nhiều người đã quá rõ.
Và như nhà nghiên cứu Nguyễn Trung
trong bài viết mang tựa đề "Phải
chặn đứng nguy cơ tái diễn kịch bản Thành Đô 1990" đã viết :
"Nhìn lại hơn 20 năm qua, điểm lại toàn bộ những việc
trong quan hệ hai nước đã làm được, từ đàm phán biên giới trên bộ và dưới biển,
phát triển quan hệ kinh tế, việc Trung Quốc trúng thầu hàng trăm công trình
kinh tế quốc gia quan trọng của Việt Nam, thuê đất, thuê rừng, bô-ít Tây
Nguyên, ti-tan ven biển miền Trung, những hoạt động tăng cường quan
hệ thực ra là nhằm tăng cường chi phối nhân sự nước ta, những hoạt động
tăng cường giao lưu.., tất cả đều chịu sự chi phối sâu sắc của quyền lực mềm
Trung Quốc.
Những sai lầm, yếu kém chủ quan của ta, do chính ta tự gây
nên, cần phải được nhìn nhận khách quan và phê phán nghiêm khắc, không thể đổ
thừa cho bất kỳ ai bên ngoài.
Dù khẳng định dứt khoát như thế, vẫn phải đánh giá nghiêm
khắc: Tổng hợp tình hình hơn 20 năm qua, thực tế đang diễn ra là quan hệ Việt –
Trung càng phát triển, thì Việt Nam càng lệ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc về
kinh tế và chính trị, bị uy hiếp nhiều hơn về đối ngoại và quốc phòng. Thực tế
này, cùng với ảnh hưởng chính trị nói chung của Trung Quốc vào đối nội của Việt
Nam một mặt đang kìm hãm nghiêm trọng toàn bộ sự phát triển của Việt Nam
nói chung, mặt khác gây ly tán đến mức nguy hiểm giữa nhân dân và lãnh đạo đất
nước, khiến cho trấn áp và mất dân chủ trong đối nội phải gia tăng, đồng thời
thực tế này cũng khuyến khích tham nhũng tiêu cực phát triển. Những vụ trấn áp
biểu tình vừa qua chống yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông nói lên nhiều
điều và càng đổ dầu thêm vào lửa bức xúc trong nhân dân.
Hiện nay, đất nước có rất nhiều yếu kém bên trong, lệ thuộc
và hèn yếu về đối ngoại, nguyên nhân của thực trạng này – ngoài các lẫm lỗi chủ
quan của ta – có nguyên nhân chi phối rất nghiêm trọng của ảnh hưởng Trung
Quốc.
Ngày nay, lợi ích quốc gia đòi hỏi phải lọai bỏ xu thế đang
diễn ra là quan hệ Việt – Trung càng phát triển thì Việt Nam càng lệ
thuộc vào Trung Quốc và tương lai phát triển của Việt Nam càng bị chặn đứng.
Ngày nay quốc gia đang đứng trước nguy cơ Trung Quốc tìm cách tiếp tục lấn
chiếm biển đảo của đất nước trên Biển Đông. Sau 37 năm độc lập thống nhất, đất
nước đang lâm nguy.
Những yếu kém của ta trước đây đã dẫn đến Thành Đô 1990.
Không loại trừ nguy cơ những yếu kém hiện nay của nước ta có thể tái lập một
Thành Đô 1990 đời mới, với hệ quả là vứt bỏ cả thế giới đang đứng về phía chính
nghĩa của nước ta, để quay lại hòa hiếu với Trung Quốc và để đẩy tiếp
cả đất nước xuống bùn đen!
Cả nước phải đồng lòng nhất trí loại bỏ nguy cơ mới này.
Muốn có được quan hệ hữu nghị thực sự, hợp tác bình đẳng cùng có lợi giữa Việt
Nam – Trung Quốc, càng nhất thiết phải loại bỏ nguy cơ Thành Đô 1990 đời mới!
Hồi
ký “Hồi ức và Suy nghĩ” của Trần Quang Cơ đã phơi bầy một phần sự thật
Chương
16 dưới tiêu đề “Món nợ Thanh Đô”, nhà ngoại giao kỳ cựu Trần Quang Cơ
viết :
“Từ
tháng 9/90, Trung Quốc luôn coi ta mắc nợ họ về thoả thuận Thành Đô, đòi ta
thực hiện thoả thuận đó, cụ thể là tác động với Phnom Penh nhận SNC có 13 thành
viên và do Sihanouk làm Chủ tịch. Với cách làm đó, họ khơi sâu thêm bất đồng
trong nội bộ ta…
Trung
Quốc thấy rằng việc thực hiện thoả thuận Thành Đô gặp trở ngại chính từ Bộ
Ngoại giao nên chủ trương chia rẽ nội bộ ta càng trắng trợn hơn. Đại sứ mới của
Malaysia ngày 3.10.90 đến chào xã giao, nói với tôi là ở Bắc Kinh người ta đưa
tin là có sự khác nhau giữa Bộ Ngoại giao và lãnh đạo Đảng về chủ trương đối
ngoại cho nên trong chuyến đi Thành Đô gặp cấp cao Trung Quốc không có ông
Nguyễn Cơ Thạch.
Sau
Thành Đô, trong khi ta nới rộng hoạt động của sứ quán Trung Quốc ở Việt Nam thì
phía Trung Quốc lại tỏ ra lạnh nhạt với Bộ Ngoại giao công kích lãnh đạo Bộ
Ngoại giao Việt Nam; hạn chế hoạt động của Đại sứ ta ở Bắc Kinh, không sắp xếp
Đại sứ ta tham dự vào cuộc Lý Bằng tiếp anh Võ Nguyên Giáp, anh Vũ Oanh; cử cán
bộ cấp thấp tiếp và làm việc với Đại sứ ta. Trung Quốc một mặt khẳng định là
vấn đề Campuchia chưa giải quyết thì quan hệ Trung - Việt “chỉ có bước đi nhỏ”,
mặt khác thăm dò và tích cực tác động đến vấn đề nhân sự và phương án chuẩn bị
Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ họp vào giữa năm 1991.
Từ
tháng 3/91, tại kỳ họp Quốc hội Trung Quốc khoá 7, Lý Bằng tuyên bố “quan hệ
Trung – Việt đã tan băng” và có một số điều chỉnh mềm dẻo hơn trong vấn đề
Campuchia. Về vấn đề SNC của Campuchia. Trung Quốc không cố bám giữ con số 13,
tạm gác vấn đề chủ tịch, phó chủ tịch, đưa ra công thức “Sihaouk chủ trì các
cuộc họp SNC”. Từ chỗ chỉ có quan hệ với 3 phái, sau cuộc gặp SNC ở Pattaya
(Thái Lan), Trung Quốc chuyển sang quan hệ trực tiếp với Nhà nước Campuchia,
mời Hunxen thăm Bắc Kinh trong 3 ngày (22-24/7/91).
Chiều
Chủ nhật 18/11/90 họp Bộ Chính trị về vấn đề Campuchia. Từ sau khi P5 thoả
thuận về văn kiện khung (28/890) cuộc đấu tranh về vấn đề Campuchia đi vào giai
đoạn cuối, gay gắt và quyết liệt. Thay mặt Bộ Ngoại giao, tôi trình bày đề án
về nguyên tắc đấu tranh về văn kiện khung của P5 và về vấn đề SNC để Bộ Chính
trị cho ý kiến.
Khi
tôi trình bày xong, anh Thạch đề nghị Bộ Chính trị khẳng định 2 điểm:
1.
Vấn đề SNC là vấn đề nội bộ của Campuchia, ta không ép bạn được, phải tôn trọng
chủ quyền của bạn;
2.
Về văn kiện khung, ta phải bác những điểm vi phạm Hiến chương LHQ. Nếu không
sau này có ảnh hưởng đến vấn đề xử lý Trường Sa... Ta thấy rõ Trung Quốc và Mỹ
đều nhất trí xoá Nhà nước Campuchia bằng cách khác nhau.
Cuối
cuộc họp, Tổng bí thư Linh kết luận: “Về SNC ta không thể góp ý với bạn
được... Nếu nói Trung Quốc và Mỹ như nhau thì tôi không đồng ý. Sau hội nghị
Trung ương, Bộ Chính trị sẽ đánh giá lại một số vấn đề liên quan đến ngoại giao
như nhận định về Trung Quốc thế nào, tuyên bố hoặc nói về Trung Quốc như thế
nào ?”
Nguyễn
Cơ Thạch nói luôn : “Đồng ý đánh giá lại cả cuộc hội đàm ở Thành Đô”.
Dự
thảo Hiệp định toàn bộ về Campuchia ngày 26/11/90 do P5 thảo ra đã được các
thành viên SNC Campuchia chấp nhận về cơ bản tại cuộc họp ở Paris ngày
23/12/90.
Chủ
trương của ta là giải pháp chính trị về Campuchia, nhất là những vấn đề nội bộ
Campuchia, phải do bạn tự quyết định và chịu trách nhiệm với dân tộc Campuchia.
Ta hết sức giúp đỡ họ, gợi ý để họ tránh được những thất bại không đáng có,
nhưng ta không thể làm thay. Như vậy ta vừa hết lòng giúp bạn vừa không để Việt
Nam một lần nữa bị sa lầy vào cuộc đấu tranh nội bộ của Campuchia. Không để vấn
đề giải pháp chính trị về Campuchia lại một lần nữa trở thành vấn đề lịch sử
trong quan hệ Việt Nam – Campuchia.
Theo
yêu cầu của bạn, ngày 14/1/91, tôi cùng các anh Huỳnh Anh Dũng, Lê Công Phụng,
Vũ Tiến Phúc, chuyên viên về giải pháp Campuchia, sang Phnom Penh làm việc với
bạn với mục đích:
a.
Tìm hiểu suy nghĩ và ý định của bạn về giải pháp Campuchia sau khi bạn đã chấp
nhận văn kiện khung của P5 tại cuộc họp Jakarta 10/9/90 và chấp nhận về cơ bản
dự thảo Hiệp định 26/11 của P5 tại cuộc họp Paris 23/12/90;
b.
Thuyết phục bạn kiên quyết tách riêng các vấn đề nội bộ thuộc chủ quyền
Campuchia để chỉ thaỏ luận và giải quyết trong SNC;
c.
Thoả thuận kế hoạch chuẩn bị cho việc họp lại Hội nghị quốc tế Paris.
Khi
tiếp tôi, anh Hunxen nói: “Trong nội bộ Campuchia, xu hướng mạnh nhất là
muốn có một giải pháp chính trị giữ được thành quả cách mạng, không để cho
Polpot quay trở lại... Tình hình hiện nay rất tế nhị. Tình hình phức tạp sẽ xảy
ra nếu ta chấp nhận một giải pháp vô nguyên tắc. Chỉ cần chấp nhau một giải
pháp như vậy thì nội bộ Campuchia đã hỗn loạn rồi chứ chưa nói là ký kết. Ta
giữ lập trường cứng như vừa qua là tốt. Đề nghị Việt Nam không để đẩy quá nhanh
tiến trình giải pháp.
Như
vậy, qua các cuộc gặp Bộ trưởng Hor Nam Hong, Thứ trưởng Dith Munty và Thứ
trưởng Sok An, nhất là qua phát biểu của Chủ tịch Hunxen chiều 16/11, có thể
thấy được chủ trương của bạn cố kéo dài trạng thái đánh đàm hiện tại vì nhiều
yếu tố chủ quan khách quan khác nhau, song chủ yếu vì trong nội bộ lãnh đạo bạn
xu hướng chưa muốn đi vào giải pháp còn rất mạnh.
Hunxen
cho biết theo quyết định của Bộ Chinh trị Campuchia, trong cuộc họp Trung ương
ngày 17/1/91, ông ta sẽ thông báo cho Trung ương là “năm 1991 sẽ chưa có giải
pháp”. Tuy nhiên, tôi lại có cảm thấy trong suy nghĩ cũng như trong hành động
lãnh đạo Campuchia đang có nhiều mâu thuẫn lúng túng, chưa xác định được cho
mình một đường lối rõ ràng mạch lạc, mà chỉ lo đối phó từng bước với những vấn
đề trong nội bộ cũng như với đối phương.
Trong
lần gặp Heng Somrin ở Hà Nội ngày 24/2/91, anh Nguyễn Văn Linh vẫn cố ép bạn
“cần thực hiện tốt chính sách hoà hợp dân tộc, không nên nhấn mạnh vấn đề diệt
chủng, nên SNC gồm 13 thành viên và Sihanouk làm Chủ tịch”.
Heng
Somrin về nói lại với Bộ Chính trị Đảng Campuchia thì tất cả đều băn khoăn và
ngại rằng Heng Somrin không thạo tiếng Việt nên nghe có thể sai sót. Thực ra,
như Hunxen nói với anh Ngô Điền, khi nghe Heng Somrin nói lại những ý kiến của
anh Linh, Bộ Chính trị Campuchia rất lo vì thấy Việt Nam khác Campuchia nhiều
quá.
Ngày
13/3/91 Hunxen nói với anh Thạch: “Có thể có sách lược phân hoá Khmer đỏ,
nhưng dứt khoát không thể bỏ vấn đề diệt chủng. Nếu bỏ sẽ có 3 mối nguy hiểm:
sẽ mất con bài mặc cả trong đàm phán ngay từ đầu; mất lợi thế trong tổng tuyển
cử; kẻ thù sẽ có lợi trong việc vu cáo Việt Nam là mọi chuyện xảy ra 12 năm qua
đều do Việt Nam gây ra cả. Số lượng thành viên SNC có thể là 12 hoặc 14, không
thể chấp nhận con số 13, sẵn sàng cho Sihanouk làm chủ tịch, Hunxen làm phó,
không đòi chức chủ tịch luân phiên hay đồng chủ tịch nữa”.
Trong
cách làm này của ta cho thấy ta chỉ quan tâm đến điều mà ta cho là có lợi ích
đối với ta mà thiếu cân nhắc xem điều đó có phù hợp với lợi ích của bạn không.
Cách làm đó tất yếu ảnh hưởng xấu đến quan hệ gắn bó lâu nay giữa ta với Phnom
Penh.
Đầu
năm 1991, Bộ Chính trị đã có cuộc họp tại T78 thành phố Hồ Chí Minh
(24-25/1/91) để bàn về vấn đề Campuchia. Tôi trình bày chủ trương tách mặt quốc
tế với mặt nội bộ của giải pháp Campuchia, đồng thời báo cáo ý kiến của Hunxen
cho biết là Bộ Chính trị Campuchia quyết định không đi vào giải pháp trong năm
1991.
Bộ
Chính trị quyết định cần thăm dò khả năng họp Bộ Chính trị 3 nước để hướng
Campuchia đi vào giải pháp, họp có tính chất trao đổi, gợi ý chứ không quyết
định, ta không thể ép bạn, đồng thời phải tỏ được thiện chí, tránh mọi việc làm
ta bị cô lập.
Nhân
dịp này, tôi đã ngỏ ý với anh Thạch là tôi muốn rút khỏi Trung ương khoá tới.
Anh Thạch tỏ ý không tán thành. Đến tháng 2/91, khi có cuộc bầu đại biểu ở các
tỉnh để đi dự Đại hội VII, tôi đã gửi thư cho anh Nguyễn Đức Tâm, Trưởng ban Tổ
chức Trung ương, xin rút khỏi danh sách dự Đại hội VII.
Lúc
này tinh thần tôi đã có phần mệt mỏi vì những sự việc trong thời gian qua.
Nhưng yêu cầu của tôi không được đáp ứng. Tôi nhận được giấy đi dự Đại hội tỉnh
Đảng bộ Sơn la và được bầu vào Đoàn đại biểu tỉnh Sơn la đi dự Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VII.Tháng 6/91, tôi có giấy đi dự Đại hội Đảng với tư cách
đại biểu tỉnh Sơn La rồi tiếp tục tham gia Trung ương khoá VII
.
Tình
hình bất đồng ý kiến trong Bộ Chính tri càng đến gần Đại hội càng bộc lộ gay
gắt.
Ngày
13/4/91, trong cuộc họp Bộ Chinh trị bàn về tình hình thế giới và đường
lối đối ngoại để chuẩn bị báo cáo chính trị tại Đại hội, sau khi anh Thạch bản
báo cáo về “Tình hình thế giới và chiến lược đối ngoại của Đảng và Nhà nước
ta”, Lê Đức Anh giới thiệu đại tá Lân, cán bộ Cục II Bộ Quốc phòng, trình bày
về tình hình thế giới và mưu đồ đế quốc”.
Nghe
xong, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh phát biểu: “Chủ quan tôi nghĩ giữa bản
trình bày sáng nay (của Bộ Ngoại giao) và bản trình bày tình hình quân sự chiều
nay của Bộ Quốc phòng có nhiều chỗ khác nhau. Muốn thảo luận chủ trương thì
phải thảo luận tình hình trước, nhưng cách đánh gia tình hình còn khác nhau”
Cố
vấn Phạm Văn Đồng: “Nói khôi hài lúc này thật không phải lẽ. Chúng ta cần cố
gắng làm việc đúng lương tâm, nghiêm chỉnh, đúng trách nhiệm của mình. Bộ Chính
trị đã giao cho 3 đồng chí phụ trách 3 ngành làm nhưng lại chưa làm”.
Lê
Đức Anh: “Bộ Chính trị nên nghe tình hình nhiều mặt, ngay trong nước chúng
ta cũng đánh giá khác nhau. Căn cứ vào đánh gía chung, mỗi ngành có đề án
riêng, không làm chung được”.
Nguyễn
Cơ Thạch đồng ý 3 ngành thảo luận để đi tới nhất trí về tình hình, còn công tác
thì mỗi ngành làm.
Trên
tinh thần đó, ngày 2/591, đã có cuộc họp giữa Ngoại giao, An ninh và Quốc phòng
để thống nhất nhận định tình hình thế giới.
Dự
họp về phía Bộ Quốc phòng có: Lê Đức Anh, Trần Văn Quang, Đại tá Lân (thường
gọi là Lân thọt), Bộ Nội vụ có: Mai Chí Thọ; Bộ Ngoại giao có Nguyễn Cơ Thạch
và 4 thứ trưởng. Còn 3 phó ban Đối ngoại: Nguyễn Thị Bình, Trịnh Ngọc Thái,
Nguyễn Quang Tạo.
Thu
hoạch của cuộc họp khá nghèo nàn, không đem lại được sự nhất trí trong nhận
định tình hình, chỉ nhất trí được mấy điểm lý luận chung chung.
Chỉ
còn một tháng đến ngày họp Đại hội VII, Chính trị B họp liền gần 3 ngày
(15,16 và 17/5/91) để thảo luận bản dự thảo “Báo cáo về tình hình thế giới và
việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đại hội VI và phương hướng tới”.
Bộ
Chính trị có mặt đông đủ. Theo dõi cuộc họp ở ghế dự thính. Số dự thính lúc đầu
có 10 người, từ chiều 16/5 khi đi vào kiểm điểm việc thực hiện các Nghị quyết
về đối ngoại của Đại hội VI thì dự thính thu hẹp lại chỉ còn có Hồng Hà, Hoàng
Bích Sơn, Đinh Nho Liêm và tôi.
Từ
đầu đến cuối, tôi đã nhận rõ sự đấu tranh giữa hai quan điểm về mặt quốc tế,
nhất là khi đi vào phần kiểm điểm thực hiện đường lối đối ngoại, nói đến vấn đề
Campuchia và quan hệ với Trung Quốc.
Bản
dự thảo báo cáo của Bộ Ngoại giao có nêu “đã có một số việc làm không đúng với
các Nghị quyết của Bộ Chính trị”, “thái độ đối với Trung Quốc có sự thay đổi
qua 2 giai đoạn (trước và sau năm 1989) trái với Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị
(20/5/88)”, “giữa ta và bạn Campuchia đã bộc lộ sự khác nhau khá rõ rệt”, về
đối ngoại, ta “lúng túng, thiếu bình tĩnh” trước cuộc khủng hoảng chính trị ở
Đông Âu và Liên Xô...; đã bỏ lỡ cơ hội cải thiện với ASEAN (khi Thái Lan mời
Thủ tướng Đỗ Mười sang thăm, nhưng anh Mười nói phải đi Liên Xô, đi Ấn Độ rồi
mới đi Thái), đã làm nảy sinh tranh cãi khá căng, đặc biệt khi bàn đến đúng sai
trong chuyện gặp cấp cao Trung Quốc ở Thành Đô tháng 9.90 và vấn đề chống diệt
chủng và “giải pháp Đỏ”.
Anh
Võ Chí Công: “Về Trung Quốc rất phức tạp... Bộ Chính trị đã đánh giá Trung
Quốc có hai mặt xã hội chủ nghĩa và bá quyền. Về xã hội chủ nghĩa cũng cần thấy
là trong “nháy nháy”... Khó khăn là chưa bình thường hoá quan hệ... Họ đưa ra 5
trở ngại, có cái hàng trăm năm không giải quyết nổi. Ví dụ như chuyện “Liên
bang Đông Dương”, họ biết ta không có ý đồ đó song cứ nêu lên cốt để chia rẽ và
giành lấy Lào và Campuchia, gạt ta ra... Chuyện “giải pháp Đỏ” là không được,
vì như vậy thì có nghĩa là Trung Quốc sẽ đi với ta chống Mỹ trong lúc chủ
trương của họ là tranh thủ khoa học – kỹ thuật của phương Tây để hiện đại hoá,
còn gì là Trung Quốc nữa ?
Tới
cuối cuộc họp, Nguyễn Đức Tâm còn nói: “Chưa làm dự thảo Nghị quyết
ngay được vì qua thảo luận thấy ý kiến Bộ Chính trị còn khác nhau về đánh
giá đúng thành tích, đúng bạn thù, đối sách. Đại hội đến nơi, sau Đại hội không
còn Bộ Chính trị này nữa, tuy một số đồng chí còn ở lại... Mặc dù vậy Nguyễn
Thanh Bình chủ trì cuộc họp vẫn kết luận làm dự thảo Nghị quyết về đối ngoại.”
Chương 20 là chương kêt thúc hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ”.
Dưới tiêu đề “Kết thúc một chặng đường nhưng lịch sử chưa
sang trang”, nhà ngoại giao kỳ cựu Trần Quang Cơ viết :
“Sau
12 năm ròng rã, đối với chúng ta, vấn đề Campuchia coi như đã kết thúc và đã
trở thành một hồ sơ của bộ phận lưu trữ trong Bộ Ngoại giao Việt Nam. Nhưng
những bài học của 12 năm ấy vẫn còn có nhiều tính chất thời sự, nhất là bài học
về chính sách và thái độ cư xử với các nước lớn.
Tiếp
sau việc vấn đề Campuchia được giải quyết là việc thực hiện bình thường hoá
quan hệ với Trung Quốc. Theo thoả thuận giữa hai bên, ngày 5/11/91, Tổng bí thư
Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có cuộc đi thăm chính thức nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa, đánh dấu sự bình thường hoá quan hệ giữa hai nước. “Quan hệ
Việt – Trung tuân thủ các nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau... Quan hệ Việt – Trung không phải là quan hệ đồng minh, không trở lại
quan hệ như những năm 50-60...”
Tuy
nhiên sau khi bình thường hoá quan hệ, lại dồn dập diễn ra những sự kiện xấu
trên nhiều mặt quan hệ giữa hai nước, tập trung gay gắt nhất là các vấn đề liên
quan đến lãnh thổ trên bộ vùng biên giới Hà Giang tháng 2, 3, 4/92; vụ nối lại
đường xe lửa Liên vận ở Đồng Đăng, Lạng Sơn tháng 12/91 rồi 4.5.92; Lục Lầm,
Quảng Ninh tháng 5.92) và tranh chấp biển đảo mà đỉnh cao là vụ Trung Quốc công
khai hoá việc ký kết họp đồng thăm dò khai thác dầu khí với Công ty Năng lượng
Mỹ Crestone tại một vùng rộng lớn trên thềm lục địa của Việt Nam (bãi Tư
Chính).
Vì
sao Trung Quốc tăng cường lấn ép ta vào thời điểm này ? Vì Trung Quốc cho rằng
tình hình đó đang thuận lợi cho họ tranh thủ gấp rút thực hiện yêu cầu tăng thế
và lực (xây dựng hải quân nhanh, nổ thử bom 1000 kilôton, thi hành chiến lược
“biên giới mềm”) nhằm tạo cho mình một vị thế đỡ bất lợi so với Mỹ và các nước
lớn khác, trong đó có ý đồ gấp rút biến biển Nam Trung Hoa - mà ta gọi là biển
Đông - thành vùng biển độc chiếm của Trung Quốc, từ đó khống chế toàn bộ vùng
Đông Nam Á.
1.
Trật tự thế giới cũ không còn, trật tự thế giới mới chưa hình thành. Các đối
thủ chính của Trung Quốc ở châu Á - Thái Bình Dương đều đang gặp khó khăn, Liên
Xô vừa tan rã. Liên bang Nga trước mắt chưa phải là thách thức đáng kể, Mỹ đang
giảm bớt sự có mặt về quân sự ở châu Á - Thái Bình Dương, tránh can thiệp nếu
lợi ích của Mỹ và đồng minh không bị đụng đến.
2.
Đông Nam Á mới bắt đầu quá trình nối lại các quan hệ giao lưu giữa hai nhóm
nước đối đầu cũ. Triển vọng liên kết hay nhất thể hoá Đông Nam Á, bất lợi đối
với ý đồ bá quyền của Trung Quốc, đang còn có những trở ngại (nghi ngờ nhau do
khác ý thức hệ, va chạm lợi ích, ý đồ của Thái Lan đối với Lào, Campuchia) đòi
hỏi thời gian khắc phục Trung Quốc muốn tranh thủ thời gian này để cản phá xu
thế hợp tác khu vực giữa Đông Dương, chủ yếu là Việt Nam và ASEAN tạo ra một
tập hợp lực lượng thân Trung Quốc ở Đông Nam Á (quân phiệt Thái, quân phiệt
Myanmar, Khmer đỏ ở Campuchia và Lào nếu có thể) để khuất phục Việt Nam.
3.
Bản thân Việt Nam còn đang lúng túng về những vấn đề chiến lược (vấn đề đồng
minh, vấn đề tập hợp lực lượng, vấn đề bạn thù) trong tình hình mới sau khi
Liên Xô tan rã, quan hệ với Mỹ chưa bình thường hoá, Trung Quốc muốn đi vào
bình thường hoá quan hệ với Việt Nam trên thế mạnh.
Vì
vậy Trung Quốc nhẩn nha trong các bước bình thường hoá quan hệ với Việt Nam,
vừa tạo bề mặt thân mật gắn bó Trung – Việt, vừa xiết chặt bên trong, giành lợi
thế cho mình trên mọi lĩnh vực quan hệ. Cả hai mặt đều nhằm đạt mục tiêu khẳng
định Việt Nam - Đông Dương là thuộc khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc, muốn tách
Việt Nam khỏi Đông Nam Á và thế giới bên ngoài.
*
*
*
Ngày
29/11/93, tại cuộc họp Trung ương thứ 6 khoá VII để nhận định tình hình và bàn
về ảnh hưởng tới, với dự tính sẽ xin rút khỏi Trung ương trong kỳ họp Trung
ương giữa nhiệm kỳ tới, tôi đã tranh thủ nói rõ quan điểm của tôi trước phiên
họp toàn thể Trung ương dưới dạng trình bày những suy nghĩ của mình về “Thời cơ
và những thách thức”.
Tôi
cho rằng cục diện mới lúc này có mặt thuận lợi là đang nảy sinh những xu thế
phù hợp với yêu cầu mở cửa, hoà nhập vào đời sống kinh tế–chính trị quốc tế của
ta, đang tạo nên thời cơ thực hiện mục tiêu hoà bình và phát triển của nước ta.
Đó
là:
Xu
thế độc lập tự chủ, tự lực tự cường của những nước nhỏ và vừa, có ý thức về lợi
ích dân tộc của mình, cưỡng lại chính trị cường quyền áp đặt của nước lớn.
Xu
thế đa dạng hoá quan hệ đối ngoại, tăng cường ngoại gia đa phương do nhu cầu
đẩy mạnh giao lưu kinh tế và an ninh tập thể.
Xu
thế giữ hoà bình ổn định thế giới và khu vực nhằm bảo đảm môi trường quốc tế
thuận lợi cho tập trung phát triển kinh tế.
Xu
thế liên kết khu vực về kinh tế và an ninh khu vực.
Đồng
thời, cũng có những thách thức lớn đối với an ninh và phát triển của ta, cả từ
bên trong lẫn từ bên ngoài:
Thách
thức bên trong là tệ nạn tham ô và nhũng nhiễu đang huỷ hoại sức để kháng vật
chất cũng cũng tinh thần của dân tộc ta, làm giảm hẳn khả năng chống đỡ của ta
đối với các thách thức bên ngoài.
Diễn
biến hoà bình - một dạng biểu hiện của mâu thuẫn Đông - Tây sau chiến tranh lạnh.
Bá
quyền bành trướng. Nguy hiểm không kém diễn biến hoà bình, ở sát nách ta, thể
hiện lúc mềm, cứng để gây mơ hồ mất cảnh giác (điểm này trong hội nghị hầu như
không có ý kiến nào đề cập tớ).
Tình
hình Campuchia còn đầy bất chắc với Khơ me đỏ còn đó, cộng với chủ nghĩa dân
tộc cực đoan của người Campuchia.
Trên
cơ sở nhận định về thời cơ và nguy cơ như vậy, tôi đã đưa ra kiến nghị:
Cần
nhìn tổng thể tình hình khách quan và chủ quan, đối chiếu các thách thức với
khả năng các mặt của ta để chọn cách xử lý sát thực tế, vừa sức.
Trước
hết xử lý thách thức nào trong tầm tay của ta, tập trung chống tham nhũng để
bảo tồn và tăng cường sức đề kháng phòng ngừa thách thức bên ngoài.
Ưu
tiên cho liên kết khu vực (Đông Nam Á). Liên kết không phải để đối đầu chống
nước nào.
Đối
với các nước lớn, quan hệ hữu hảo, không đối đầu nước nào, nhưng đều giữ khoảng
cách nhất định.
Song
song với việc kết bạn, không lơ là với việc đấu tranh khi cần thiết. Song luôn
giữ giới hạn. không gây nguy cơ mất ổn định khu vực.
Tránh
không làm gì có thể dồn hai hoặc ba đối thủ câu kết lại vơi nhau chống ta.
Những
ý kiến trên đây có thể dùng làm đoạn kết cho phần hồi ức này của tôi, vì phản
ảnh khá đầy đủ quan điểm của tôi và cho đến nay (năm 2000) xem ra nó chưa phải
đã lỗi thời.”
Trần
Quang Cơ
Hồi
ký “Hồi ức và Suy nghĩ” (Trích)