Phan Văn Song
Tuần nầy xin mời quý vị
cùng chúng tôi phân tách những từ ngữ « huyền thoại » được
hệ thống truyền thông và tuyên truyền Cộng Sản cầm quyền trong nước « thời đại hóa
» lại và thường được lợi dụng sử dụng khá bừa bãi nói đúng hơn lạm dụng để mỵ
dân.
Ta chỉ thử lấy thí dụ hai từ ngữ :
Cách Mạng và Dân Tộc thôi.
Cả hai được người Cộng sản sung
công để diển tả những « hứa hẹn », những chương trình, hay những thay
đổi, kề cả những thay đổi tầm thường nhứt. Người Cộng sản còn « cường điệu »
hơn không ngần ngại « dao to búa lớn » dùng cả một từ ngữ dài
lòng thòng "Dòng thác Cách Mạng", để chỉ những thay đổi
lớn, những xu hướng, hay hướng đi do phát triển khoa học kỹ
nghệ tạo thành những thay đồi tập tục xã hội, hoặc hướng đi kinh tế
và hướng suy nghĩ của nhơn loại
Những xu hướng mà họ tin rằng
nhơn loại đang theo đuổi để toàn cầu hóa chủ nghĩa vô sản chuyên chính. Thế
nhưng, thực tế con người không đi những gì họ vẽ ra mà « lại tự động »
đi những hướng đi riêng, dẹp, vượt qua những chướng ngại vật, mà chính chủ
nghĩa Cộng sản là một rào cản khổng lồ.
Ngày hôm nay, những xu hướng mới
của thời đại buộc chúng ta phải nghĩ đến việc tham gia vào « thay đổi ».
Phải, chúng ta đang sống trong một thời đại mà thay đổi do phát triển khoa học,
thay đổi do nền kinh tế thị trường toàn cầu hóa, thay đổi do những giòng giao
lưu văn hóa, giao lưu tin tức đã thay đổi toàn bộ những tập tục suy nghĩ, tập tục
văn hóa các địa phương, ẩm thực, ăn mặc, phục sức, trang điểm... tất cả nhờ và
do toàn cầu hóa đã biến một loại con người rất toàn bộ « toàn cầu »
qua phong cách trang sức, y phục, ẩm thực... tóc nhuộm mầu, áo sơ mi bó,áo thun
đầy chữ quảng cáo, quần jean denim, giầy vãi Nike, ăn sandwich MacDo, uống Coca
Cola, nghe nhạc Rap,... là một trong những thí dụ đầy điển hình.
Tham gia vào thay đổi chưa đủ,
những người trí thức, những người có tay nghề,
có kiến thức khoa học có thể tham gia tiên tri được những thay đổi,
có một cái nhìn viễn tượng trong thay đổi.
Tương lai của một quốc gia như
Việt Nam, muốn thoát Nghèo, thoát Đói phải làm sao có một đội ngũ trí thức, một
đội ngũ kiến thức khoa học để tiên tri được thay đổi. Hiện nay số đông
các quốc gia đang « đi lên », chỉ làm được việc là thuần túy chạy
theo thay đổi, gọi là « thích hợp với thay đổi » thôi.
Các dân tộc các quốc gia đang đi
lên đó chỉ, cũng như người Việt Nam chúng ta, đến ngày hôm nay, chỉ chú trọng đến
thích nghi với thay đổi, nghĩa là chỉ biết tận dụng bản năng Thích Ứng,
Hội Nhập để Sanh Tồn thôi ! Và đó là một hành động, một tinh thần, rất thụ
động. Thế giới của các quốc gia « thích hợp với thay đổi khoa học, thích
nghi với đời sống do các xứ tiên tiến đề nghị họp lại thành hoặc là một cái chợ,
chỉ là một thị trường tiêu thụ khổng lồ thôi, và hoặc là nếu may mắn là một cái
xưởng lắp ráp thi công nhờ giá cả công nhơn rẽ., nhờ đó tạo công ăn việc làm
cho nhơn dân mình !
I - Cách Mạng :
Tinh thần thụ động ấy – kiểu « cũng liều
nhắm mắt đưa chân, thử xem con tạo xoay vần đến đâu ? » (Nguyễn Du
Kim Văn Kiều) - dùng cho cá nhơn có thể tạm được, nhưng áp dụng cho một quốc
gia chỉ mang lại từ tụt hậu đến lỗi thời.
Và đó là sự thật ngày nay của toàn quốc gia Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt
Nam sau 40 năm cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam !
Thế mà người Cộng Sản Việt Nam đã dùng từ
Cách Mạng để định nghĩa cái tinh thần của cái xã hội tương lai họ đề nghị tặng
cho người dân Việt Nam ! Và cường điệu hơn nữa, người Cộng sản Việt
Nam dùng từ ngữ Cách mạng để định nghĩa tất cả những sản phẩm của người Cộng sản
và lý thuyết Cộng sản, từ Chế độ, Cơ chế,
Định Chế, thậm chí đến cả Con Người Cộng sản kể luôn cả Thời đại Cộng sản :
« Chánh quyền Cách mạng », « Cơ quan cách mạng »,
« Con người Cách mạng » và cả thời đại « Cách mạng » hay cả văn
hóa « Cách mạng » hay đạo đức « Cách mạng » (quái vật
nào đây?)... Nhưng tiếc thay, những loạt từ Cách mạng ấy không tránh qua được những tiêu cực của những « thay đổi »,
những « đổi đời » Cách mạng
đưa dân miền Nam Việt Nam từ chết đến bị
thương. Gia đình « đổi đời » đuổi ra khỏi thành phố để sống « đời
sống mới cách mạng » con cái làm thanh niên xung phong đi đào kinh dẫn thuỷ
nhập điền (ở một vùng kinh rạch đầy rẩy thuộc đồng bằng sông Đồng Nai hay sông
Cửu Long mà đào kinh thì khác chỉ chở củi về rừng), vợ cùng con trẻ đi khai
hoang « vùng kinh tế mới », chồng, quân cán chính chế độ phe thua cuộc,
cũng « đổi đời » tù nhơn lao động ở những vùng sâu nước độc,
trong những trại tập trung « goulag
sô viết hay laogay trung cộng » ! Và cái mẫu Cách mạng đổi đời
nầy, đến ngày hôm nay chẳng những không quy phục được mà cũng không thuyết phục được dân chúng miền Nam và cuối cùng người miền
Nam phải liều chết vượt biên.
Thật vậy, qua những tiêu cực của những loạt
hay đợt chánh sách Cách mạng khác nhau, kể cả Chánh sách Cách mạng Đổi mới
hay Đời mới (dám) bỏ Kinh tế Bao cấp Cộng sản Chủ nghĩa
để đi sang Kinh tế Thị Trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa – lại một
con quái vật khác - của Nhà Cầm quyền Cách Mạng tuy có đem tới vài phát triển nho nhỏ, có phần hơn
thời bao cấp, nhưng cũng không khá hơn bao nhiêu, so sánh với chánh sách kinh tế tài chánh thời Việt Nam Cộng
hòa, mặc dù trong thời chiến !
Trái lại, vì chỉ chú trọng lo « làm ăn kinh tế thị trường » quên xây
dựng tương lai đất nước nên để « định hướng Xã hội Chủ nghĩa » tiêu cực,
chôm chỉa, mánh mun, ăn chia, phong bì tham nhũng, chạy chọt áp phe, của cơ chế
xin cho Cộng sản làm tụt hậu gia tài văn
hóa đạo đức của con người Việt Nam ngày nay.
Trước xu thế quá thay đổi của thời đại. trước
sự thay đổi quá nhanh do sáng tạo khoa học kỹ thuật của thế giới, Nhà Cầm quyền
Cộng sản Hà nội chỉ biết đi xin Tây, xin Mỹ giúp đở cầu viện xin tiền để được
có dịp bớt ngắt, cắt xén chia chỉa, cò còm tham nhũng, bòn mót làm giàu. Việt
Nam đất vàng, đất bạc, rừng vàng, biển bạc, nhưng dân chúng Việt Nam nghèo rớt
mồng tơi, chỉ có cán bộ là giàu có thôi.
1/ Thiển Cận, Thủ Cựu, U Mê, do Truyền Thống
hay do Cộng Sản ?
Từ thời xa xưa, cuối thế kỷ thứ 19, khi văn
minh Âu Tây nhập đến Việt Nam, triều
đình Nhà Nguyễn cũng như các xã hội Á đông khác cũng lâm vào khủng hoảng
của Việt Nam ngày nay trước những thay đổi của thời đại. Nước đến thì mới làm
đê, đấp bờ, chánh sách của triều đình Nhà Nguyễn là nhượng bộ để cố giữ lấy hòa
bình, chỉ biết ký những hòa ước mà không có một phương kế nào lâu dài. Ở Trung
Hoa càng tệ hơn, khi các liệt cường lăm le xâu xé, triều đình Mãn Thanh vẫn cứ
tiếp tục những xa hoa của xã hội phong kiến, giao việc đối ngoại cho ba tất lưỡi
ngoại giao của Lý Hồng Chương. Ngày hôm, Nhà Cầm quyền Công sản Hà nội cũng đâu
làm gì khác hơn ? Cũng vẫn dùng những công du, thăm viếng, làm phương kế «
ngoại giao cầu viện », hết đi
sứ « khấu đầu dưới trướng » Tàu, lại du hành « cầu viện » Mỹ,
tìm những trợ dược bên ngoài, trông vào ngoại viện, trông vào đầu tư ngoại quốc,
thậm chí bán đất, bán rừng, bán đảo, bán biển, bán dân - con trai nam nhi lực
lưởng thì coolie, cửu vạn nô lệ, nôm na dưới mỹ từ rất hàng hóa kinh tế thị trường
« xuất khẩu lao động », gái nữ nhi đẹp đẻ thì xuất cảng là vợ các
trai già độc thân các quốc gia phương Bắc « trai thừa gái thiếu » mua
về làm nô lệ tình dục, ... Tất cả chỉ để
mong trước là cứu vãn một quốc gia suy sụp, xóa đói giảm nghèo, sau kiếm tý tiền
«còm » chấm mút, làm giàu cho Đảng, làm lợi cá nhơn. Còn chuyện quốc gia,
nhìn vào thực tế, cải cách thực tiển tận gốc tận rễ ? Sau tôi là trận hồng
thủy – après moi, le déluge !
2 /Thời đại tin học, xã hội mới, văn hóa mới,
con người mới :
Trong nhiều năm nay, thế giới đã đi vào một kỷ
nguyên mới : thế giới to rộng nay đã biến thành một cái làng nhỏ. Con người
không còn là những phần tử rời rạc nữa, mà là một phần tử của cộng đồng nhơn loại.
Với tin học, với mạng lưới thông tin quá
hữu hiệu, một biến cố nhỏ ở một góc của địa cầu chẳng chốc truyền lan cùng khắp
thế giới. Trong cuộc chiến Việt Nam trước đây, cái mà người Cộng sản tự hào là
sáng tạo, thần thánh vô địch . .. thật sự chỉ dựa trên sự bưng bít, sự ngu
dân, và vũ khí to lớn nhứt của họ là sự
thiếu hiểu biết của quần chúng. Trái lại, miền Nam chúng ta sở dĩ thất bại là
thông tin và dư luận biết quá nhiều. Ngày hôm nay, chúng ta phải nói rõ
rằng chúng ta thua là do nhóm ký giả Tây Phương « đâm sau lưng chiến
sĩ » và ngay tại Tòa Bạch ốc.
Nhưng vì sự thật vẫn không che dấu được là
chúng ta chiến đấu để bảo vệ con
người, bảo vệ tinh thần con người tự do, muốn được tự do, khao khát trân quý tự
do, và bảo vệ cái văn hóa, và cái văn minh của một Quốc Gia Việt Nam Tự do, yêu
chuộng Tự do, lựa chọn một chế độ Tự do.
Nhờ vậy mà ngày nay, yếu điểm của Nhà cầm
quyền Cộng sản là cũng sẽ do thông tin
và mạng lưới thông tin, người dân sẽ biết quá nhiều. Sự hiểu biết, do
kinh nghiệm bản thân của dân miền Nam
truyền sang dân miền Bắc, nguồn giao lưu văn hóa đã giúp dân Bắc sau 20 năm sống
trong tăm tối mở mắt nhìn được ánh sáng ở cuộc sống miền Nam. Thống nhứt dân
nước là cái sai lầm nhứt của bọn Cộng sản. Một đât nước hai chế độ, mở cửa
từ từ may ra Cộng sản kiểm soát được. Ngay những ngày đầu đến đất Nam, dân Bắc
đã thấy rằng họ là « cán ngố, họ là lý Toét, Xã Xệ, họ là Mán ra thành phố ».
Dân Bắc
nghèo đói từ miếng ăn, miếng uống, từ văn chương, chữ nghĩa, dốt từ cái
sử dụng hằng ngày, từ cái sơ đẳng nhứt, không biết giấy vệ sanh đi cầu, không
biết băng vệ sanh cho phụ nữ, không biết đồng hồ mang tay, không biết cây bút
nguyên tử, không biết cái bàn cầu vệ sanh, vì chỉ biết vệ sanh ra đồng, nâng
niu cục phân để dùng lại bón rau bón cây để giúp canh tác lương thực,... cho đến
cái thượng từng kỹ thuật.
Ông bạn Võ Hoài Nam, nhà văn Tiểu Tử, kỹ sư, cựu
Giám đốc Kho Xăng Shell Nhà Bè trước Ngày Mất Nước, phải được nâng cấp đi từ
Giám Đốc lên hàng « công nhơn tài tử nghiệp dư » sau khi Quân đội
Cách Mạng vào Giải Phóng Sài gòn. Một hôm được công tác làm « tua
gai » giới thiệu những bồn xăng của
Kho Xăng Nhà Bè. Khi anh Tiểu Tử nói các bồn to « bành ky » đều do
các công nhơn miền Nam đóng, thì được ông cán bộ cao cấp Đinh Đức Thiện, chỉnh
lại : « Anh nói
láo, làm gì có, bồn xăng to nhưng thế nầy chỉ có Mỹ làm cho các anh
thôi, ngoài Bắc chúng tôi giỏi như thế, mà những bồn to thế nầy chỉ có anh
Trung Quốc anh Liên Sô làm thôi ! ».
Kể câu chuyện nầy để nói rõ tại sao ngày nay
văn hóa của Nhà đương quyền Cộng sản là văn hóa cầu viện, văn hóa ăn xin. Nó
đã biến thành cái tập tục !
Cá nhơn chúng tôi, trách nhiệm một Xí nghiệp lớn
Hảng Bia và Nước Đá Quốc tế (BGI-Brasseries et Glacières Internationales) chúng
tôi thấy rõ cái kém cỏi về kỹ thuật của văn hóa Cộng sản vì làm việc hằng ngày
dưới sự quân quản và kiểm soát của quân thắng trận chiếm đóng.
Việt Nam ngày nay cũng vậy, chúng tôi đọc đâu
đó một bài viết hãnh diện con trẻ Việt Nam học Toán rất giỏi ? Và tự
hào có cả Ngô Bảo Châu với cải Giải Thưởng Field về Toán Học ( tương đương với
Giải Nobel). Phải, đúng, người Việt ta học giỏi,
học thuộc lòng, kiểu học chữ Nho, vì bị hán
hóa từ ngày xưa nên những cái gì lý thuyết người Việt Nam đều có thể
giỏi. Nhưng khi áp dụng ? Khoa Học thực tiển ? Khi cấn phải vào
Khoa học áp dụng thì không thấy người Việt Nam. Có chăng là các công dân ngoại
quốc gốc Việt, vì họ được nuôi dưởng trong một môi trường tự do, vượt giáo
điều, tìm cái mới, tìm cái thay đổi mà không cần phải « dao to búa
lớn » cho rằng ấy là « cách mạng, ấy là đỉnh cao trí tuệ loài người » !
Nhưng sau Ngày Quốc Hận của miền Nam, nhờ giao
lưu (một chiều) Nam Bắc, nhờ vào Nam đội đồ về Bắc mà người miền Bắc dần
dần văn minh hơn, biết xem đồng hồ, biết nghe Đài Phát Thanh thế giới, nhờ bê mấy
cái « Đài » kiểu hiệu Zénith, nhận tin tùm lum, không cách chi Công
An kiểm soát nổi.
Dân Bắc vào Nam chừng độ một năm, chúng tôi
lúc ấy còn ở Sài gơn chưa « đi tù » đã chứng kiến dân Bắc nghe lén BBC rồi ! Và họ
sung sướng nghe vì đây là những cửa sồ đầu tiên sau 20 năm sống trong đáy giếng
bưng bít. Vì trước đây, sống trong bưng bít, chỉ nghe Đài tuyên truyền Hà Nội,
tưởng ta là cái rốn của vũ trụ, nghe nghe BBC mở lòng, mở tai, mở mắt, thông
thoáng nhưng lúc ấy chưa dám Mở Mồm ! Và ngay cả ngày hôm nay, có
dám mở mồm, mở miệng đi nữa cũng phải hạn chế ngó trước nhìn sau !
Đúng là Hội Chứng « Con người vừa ra
khỏi Hang » của Platon. Thật là ếch nằm đáy giếng. Ngồi với nhau trong
Hang Pác Bó suy luận chuyện đời, điếc không sợ súng, xua đoàn dân công ăn độn bửa
đói bửa no, - sanh Bắc tử Nam - thì người
lính Cộng sản chỉ có hoặc chết hoặc thắng trận thôi ! Được viện trợ dồi dào
súng đạn, vũ khí giết người, nhưng chỉ với lương thực cầm hơi (lương khô Trung
Cộng), người lính Việt Cộng là những con người máy, với một chương trình giết,
chỉ phải thắng phải giết mới có ăn, mới có gạo trắng canh ngon, hay dở lắm
cũng cơm sấy, thịt lon, nước trái cây ! Vì vậy, ngày nay, chúng ta người
Việt Tự do chớ hỏi tại sao người lính Việt Cộng tàn sát đồng bào ở Huế năm 68,
cũng đừng hỏi tại sao Việt Cộng nhẫn tâm
pháo vào thường dân tỵ nạn ở quốc lộ 1 năm 1972, hay bình thản pháo vào
dân trên Con đường 19 từ Kontum đi về Qui Nhơn năm 1975 ! Văn hóa Giết,
Cách Mạng là Giết lầm hơn tha lầm. Anh bạn
Đoàn Thanh Liêm vừa viết một bài kể chuyện Việt Minh sát hai những người không
Cộng sản, đã từng cùng kháng chiến chống Pháp với họ, năm 1945. Họ sát hại vì không cùng chủ thuyết Cộng sản
với họ thôi ! Họ giết tất cả gần 3000 người Cao Đài vùng Quảng Ngãi miền
Trung, họ giết tất cả các lãnh tụ các Đảng phái không Cộng Sản, quý vị Trương Tử
Anh, Lý Đông A. Họ giết những người không đồng chánh kiến, Cu Phạm Quỳnh, nhà
văn Khái Hưng, nhà cách mạng Tạ Thu Thâu, Cụ Chu Bá Phượng một cựu Bô trưởng của
Chánh phủ Liên hiệp do chính Hồ Chí Minh cầm đầu. Trong Nam, các cán bộ Cộng sản
Nguyễn Bình, Trần Văn Giàu, Nguyễn Trấn cho bắt, thủ tiêu, giết sạch cả các người
Cộng sản, tuy cùng lý thuyết nhưng khác hệ phái, phe Đệ Tứ Quốc tế (4ème
Internationale thường gọi là Trotskiste vì đứng về phía Trotsky, khác phe Lê
Nin và Staline) như Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh Hồ Văn Ngà Trần Văn Thạch..
Cũng trong Nam họ giết cả các người có uy tín, có tên tuổi đề trừ hậu hoạn sau
nầy có thể chống họ, kể cả những nhà ái quốc chống Pháp nhơn sĩ Bùi Quang
Chiêu, vợ chồng Bác sĩ Hồ Vĩnh Ký, luật sư Dương Văn Giáo... hay cả Đức Thầy Huỳnh
Phú Sổ của Phật Giáo Hòa Hảo. Nói tóm lại, ai không Cộng sản là họ giết.
Bộ máy Giết, chương trình Giết được ca tụng được đưa lên hàng văn hóa, và đó là Cách
Mạng. Với những nhận định do chính tay Hồ Chí Minh qua chữ ký CB (tức là Của
Bác ) để cắt nghĩa tại sao phải giết Bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm là người
Ơn của Cách Mạng, là Mẹ nuôi của Cách Mạng. Giết biến thành thơ, Giết biến
thành Vè, với bài thơ Giết của Tố Hữu (tởm quá không nhớ nổi!), của Huy Cận, của
cả Văn Cao (tuy là một nạn nhơn tương lai) trong bài quốc Ca « Đường Vinh
Quang xây xát Quân Thù ». …
Chế độ Cách mạng là chế độ bưng bít, chế độ thủ
tiêu, chế độ dẹp tất cả những
rào cản đề cướp chánh quyền, chỉ chừa lại ngu dân, chừa lại dân
nô lệ để xây đường Trường Sơn xâm lăng Nam Việt, chỉ chừa lại ngu
dân biến thành những robot con người máy sanh Bắc tử Nam. Chế độ nầy là chế độ cương quyết, chế độ quyết liệt giết
người để cướp đât, là chế độ hiện nay cầm quyền tại nước Việt Nam với cái
tên hoa mỹ Chế độ Cách Mạng, là một chế độ không do Dân, không vì Dân, chẳng
phải của Dân mà là của Cộng sản quốc tế ngày nay biến thành Cộng sản Tàu do
Công Sản Tàu, vì Cộng Sản Tàu và thuộc Cộng Sản Tàu.
Đó là Cách Mạng theo định nghĩa của người Cộng
sản Việt Nam.
II
- Dân Tộc:
Lịch sử Việt Nam đã dạy cho chúng ta những bài
học dân tộc.
Từ các vị anh hùng kháng chiến chống Bắc thuộc
đến các Vua của thời độc lập, tất cả đều dựa vào dân tộc để chống ngoại xâm. Từ
những quan niệm đất nước lãnh thổ nhỏ hẹp, Giao Châu, Giao Chỉ thời Bà Trưng Bà
Triệu, Bố cái Đại Vương, Mai Hắc Đế, đến Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn mười hai sứ quân
gom giang sơn về một mối, hay Ngô Quyền, và đặc biệt Nhà Lý với Câu nói
« Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế cư » của danh tướng Lý Thường Kiệt, phân định
rõ ràng Lãnh thổ, và Dân tộc phía Nam khác hẳn rõ ràng với quân dân Hán ở phía
Bắc.
Nhà Lý, với tên nước
Đại Cồ Việt, hay Đại Việt, nhấn mạnh rõ ràng Dân tộc Việt. Như
vậy với Nhà Lý, người Việt ta đã có khái niệm Dân tộc rồi.
Quên sao câu nói của
Vua Quang Trung là chúng phải đánh Tàu để « Giữ răng đen, để giữ mặc
váy » !
Dỉ nhiên thời phong
kiến, chiên tranh, xung khắc không dựa vào Dân tộc mà dựa vào Thần dân. Dân là thần dân, trung thành với Vua với Triều
đại. Các cuộc chiến trong lịch sử Tàu nđều là những nội chiến, giữa người Hán
đánh nhau. Những thần dân của Nước Ngụy Tào Tháo đánh nhau với thần dân các nước
chung quanh Sở, Vệ, hay cả Hán mà hậu duệ phải đi tìm đất sống là Lưu Bị... Dỉ
nhiên Truyện Tàu qua tiểu thuyết Tam Quốc cho người đọc chúng ta, là văn viết,
nên ta có cảm tưởng dân Hán (hay đuới cái tên dân Hán – Tàu là một – nói một
ngôn ngữ, như người Việt ta) Thật sư, dân Tàu là một dân tộc không đồng nhứt
ngôn ngữ. Lục địa Tàu cũng nhiều sắc dân khác nhau, nhiều Dân Tộc khác
nhau. Dân vùng Beijing (cựu đất của Tào Tháo) khác hoàn toàn dân của Tôn Quyền,
dân Quảng Đông, Quảng Châu ngày nay, một bên nói bốn âm, một bên nói sáu âm.
Một người bạn Tàu, gốc
Hồng Kông, Quảng Đông,nói với chúng tôi rằng đừng tưởng chúng tao là một dân tộc
Hán, Chúng tao nhiều Dân Tộc khác nhau, tao người Quảng Đông, nói Sáu âm, ăn
cơm trắng gạo nước. Bọn Bắc Kinh là dân ăn lúa mì (bắnh bao) nói bốn âm. Dân
Thành Đô (Cheng Du) là dân Tứ Xuyên nói khác hẳn tụi tao và Bắc Kinh, nên nhớ Tứ
Xuyên là Tây Thục , nước của Lưu Bị. Về sau Tần Thủy Hoàng gom lại thống nhứt đất
nước, sơn hà, nhưng dân Tàu vẫn là dân Tàu nghĩa là Quảng Đông, Phước Kiến, Hẹ
Hakka, vân vân... Và anh bạn Tàu mình mơ nói Nước Tàu tụi tao phải làm một Liên
Hiệp Tàu ( Union des Pays Chinois – anh nói chuyện bằng tiếng Pháp). Chúng tôi tưởng anh phát biểu
sai bèn sửa lại « Mầy muốn nói Liên Bang – une Fédération?) Anh trả lời
không « Tụi tao mơ có một Union (Liên Hiệp) comme l'Union Européenne –
Liên Âu ! ). Tất cả thành phần sẽ là những quốc gia độc lập ». Hoan
hô anh bạn Tàu của tôi, và mong giấc mơ ấy thành tựu và chỉ có như vậy Việt Nam
ta mới sống yên ổn với anh Tàu.
Như vậy chúng ta tạm
kết luận là không có Dân tộc Hán !
Nhà Trần, với Vua Trần
Nhân Tông. Vua Trần Nhân Tông là một vị vua anh hùng, đánh thắng quân Tàu
và bảo vệ đất nước, là một vị vua nhân từ, không trả thù giặc và đối xử đàng
hoàng với đối phương trong nước. Ông có công chấn hưng Phật giáo và xiển dương
văn học. Quan trọng hơn hết, ông là người xây dựng một nước Đại Việt cường thịnh và bảo vệ sự vẹn toàn
của tổ quốc. Ông còn nổi tiếng với câu nói “Một tấc đất của tiền nhân để lại,
cũng không được để lọt vào tay kẻ khác. Ta muốn lời nhắn nhủ này như một di
chúc cho con cháu muôn đời sau.”
Và Nhà Trần đã cho
chúng ta có khái niệm Tổ Quốc và Lãnh thổ đất đai bờ cỏi, biên giới.
Rất tiếc là ngày nay trong những người cầm quyền
trong Nước, có còn mấy ai nhớ đến lời căn dặn của Vua Trần Nhân Tông ? Có
mấy ai nhớ lời Lý Thường Kiệt ?
Lịch sử Việt Nam, sống
còn, giang sơn gấm vóc tròn vẹn, mở mang đều dựa vào Dân Tộc.
Người Cộng sản Việt
Nam, khi nổi lên cướp chánh quyền cũng kêu gọi Dân tộc, cũng dựa vào Dân tộc.
Nhưng quan niệm Dân tộc của họ là quan niệm Dân tộc Đại đồng Cộng sản.
« Trung với Đảng »
Người Việt Tự do thường
dich từ Nation, là Quốc gia, đúng hơn một Đất Nước gồm biên giới, với một thể
chế, một dân chúng, gồm một sắc tốc hay nhiều sắc tộc chấp nhận sống chung với
nhau, cùng nhau xây dựng một xã hội với một tương lai, một sự nghiệp, chia sẻ một giá trị xã hội, tạo
thành một văn hóa đặc biệt...
Dân tộc Việt Nam, và
giá trị xã hội của dân tộc Việt Nam thành hình từ lúc nào, tự cấu tạo từ lúc
nào là cả một sự phức tạp, chúng tôi không chuyên về lịch sử học cũng chẳng là
xã hội học nên không dám múa rìu qua mắt các thợ chuyên nghiệp. Nhưng với cái
chắc chắn, rằng dù người Việt ta cũng như người Nhựt bổn và người Đại Hàn cùng
chia sẻ với người Tàu một ngưồn gốc văn hóa Không Tử , nhưng mỗi Dân tộc
có cái đặc biết và sắc thái hoàn toàn riêng biết. Người Việt và người Tàu đặc
biệt trong Nam sống chung đụng láng giềng trong nhiều thế hệ, trên 100 năm,
nhưng Tàu Việt là hai cộng đồng có hai sắc thái đời sống xã hội hoàn toàn khác
nhau.
Vì vậy, chúng ta có
thể nói rằng ở một thời điểm nhứt định nào đó, giá trị xã hội định nghĩa một
dân tộc là kết quả của một trình cấu tạo lâu dài dựa trên những yếu tố thực tế
cuộc sống hằng ngày. Một cái « Đạo Việt » để định nghĩa một Dân tộc
Việt rất cần thiết cho một Việt Nam Tương lai. Vì ngày hôm nay, sau 70 năm ở miền
Bắc Việt Nam, sau 40 năm ở miền Nam Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã biến
Dân tộc Việt Nam thành một cộng đồng không đồng nhứt về mặt văn hóa. Tiếng nói
vẫn còn giữ, với những biến chế khá lạ với những người Việt còn ráng giữ một phần
linh hồn dân tộc, những khía cạnh khác cũng bị biến dạng, từ đạo đức, văn hóa,
dền cung cách đối xử, cư xử...
Thật vậy, lịch sử Việt
Nam cận đại là một chuổi dài tranh chấp, phân hóa, hận thù, giết chóc điêu
linh. Cách đây hơn 100 chiếc bình sứ chạm trổ tinh vi quý giá, cổ xưa của tổ tiên Việt Nam Đông phương đụng phải
chiếc tàu chiến bằng sắt thép Tây Phương vỡ tan thành nhiều mãnh. Một số ít những
mãnh vụn Đồng Phương được hàn gắn, dán lắp với nhau để tạo thành một mãnh sứ đẹp, tuy không trọn vẹn bình sứ, nhưng cũng được
giữ lại một phần thân thể để làm mẫu... Các mãnh vụn khác của chiếc bình xưa đều
được gắn vào các bình khác, ngoại nhập,
phát xuất từ cái ngưởng mộ của sức mạnh của kẻ chiến thắng, bái phục văn
minh của cái đại bác đã bắn tan thành trì cổ kính của cha anh của mình.
Và người ta cho rằng
phải cương quyết dứt khoát với quá khứ, với truyền thống, để đi tìm cái mới, nói rằng đó là Cách Mạng Dân tộc ! Thê
nhưng, người Âu Tây lắm trường, nhiều phái, và các anh học trò thuộc địa phe ta
quờ quạng, mò mẫm theo may rủi, tùy cơ ứng biến.
Có lắm kẻ thông minh
chữ nghĩa bôn ba du học, kẻ Đông du, người Tây học, Pháp du, mong thành bác học, kỹ sư, cử nhơn, hàn
lâm, tiến sĩ, ngõ hầu dùng văn học chữ nghĩa, luật lệ đấu tranh theo pháp luật
hiến định tìm đường cứu nước, thoát khỏi thuộc địa, tìm lại Độc lập nước nhà.
Nhưng cũng có người,
dốt đặc cán mai, nhưng mưu mô, quỷ quái, ma lanh, xuống tàu làm phụ bếp, lên bờ
làm phụ họa, sửa hình – retoucheur, chỉ vì thất vọng, giận thằng Tây cà chớn, hận
đời đen bạc, đen như mỏm chó, chỉ vì đơn nộp xin học trường thông ngôn thuộc địa
bị thằng Tây bị bác*, nên bèn bỏ Marseille lên Paris để đến nấu cơm cho bốn du
học sanh ái quốc. Nể tình đồng hương, cùng đấu tranh cho nền Độc lập đất nước bốn
cậu trí thức cho anh cựu bồi tàu, chuyên sửa hình sửa ảnh nhập bọn cùng đấu
tranh tự đặt tên là nhóm Ngũ Long, cùng ký tên Nguyễn Ái Quốc để viết bài chống Chế độ Thuộc địa Pháp. Bài viết “Những yêu sách của người Việt
Nam- Les Revendications du Peuple annamite gửi Hòa hội Versaille và chính
khách nhiều nước tham dự để đòi hỏi các quyền tự do, dân chủ tại nước ta do
Nguyễn Ái Quốc ký tên. Và vì Nguyễn Tất Thành hay anh Ba chỉ là một tên không
có thế, nên cụ Thành ta nhận và tỏm luôn cái tên Nguyễn Ái Quốc. Nhờ có công, điếc không sợ
súng, đứng mùi chịu sào trước sức ép của Mật Thám tây.
Nhờ cái liều, nhờ
cái « trên trăng dưới dế », « không có gì để mất-il n'y a rien à
perdre ! » vì ngoài cái nghể retroucheur, tối ôm cục gạch
« sưởi » để ngủ,** tay Nguyễn Tất Thành không mất cái gì cảtrong khi
các cụ Du học Sanh kia từ Phan Văn Trường, đến Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh
hay Nguyễn Thế Truyền cần sự yên ổn để xong cái học về nhà cứu nước. Họ nghĩrằng
nhờ cái học họ có cái thế, cái tiếng để « nói với chánh quyền thuộc địa » !
Cũng để yên ổn, Nguyễn
Ái Quốc, phải gia nhập những Hội Thợ Hồ-Francs Maçons
những Đảng Xã Hội Pháp- Parti Socialiste Français
SFIO để dễ hoạt động và được sự che chở của phái tả Pháp. Trong khi bốn vị kia
phải tránh tiếng đề cón trở về nước hoạt động. Lịch sử về sau quý vị đều biết,
Nguyễn Ái Quốc – từ nay, Nguyễn Ái Quốc từ bí danh trở thành tên thiệt nhập Đệ
Tam Cộng sản để biến thành tay agit-prop – xác động tuyên truyền chuyên
nghiệp của Komintern-Cộng sản Quốc tế, bán linh hồn cho Quỷ Đỏ, trở về
nước dưới tên Hồ Chí Minh để bán cả Việt Nam và Nhơn dân Việt Nam cho quỷ Đỏ !
Dân tộc Việt Nam
từ đấy nhập bọn vào Cộng Sàn và biến thành Dân tộc Cộng sản ;
Đó là Dân Tộc theo
nghĩa Cộng sản.
Và Giá trị Xã hội
theo nghĩa Cộng sản.
Dân Tộc Việt Nam từ
nay phục vụ Đảng Cộng sản, Giá trị Xã hội ngày nay, là giá trị theo thước đo của
chủ nghĩa Cộng sản. Trung với Đảng. Phục vụ Đảng.
Thế nhưng, để thay lời kết
Tuy nhiên dù có muốn hay không Đảng Cộng sản
đương quyền vẫn không cản nổi những sanh lực đang nảy nở, phát sanh theo một tốc
độ nhanh. Và với nhịp độ ấy và trong một tương lai rất gần hay có thể nói, là
đã và đang bắt đầu phát triển để trở thành những động lực chánh để, đã, đang và
sẽ thay đổi hoàn toàn quốc gia Việt Nam và con người Việt Nam.
Đó thật sự mới là những « dòng thác
Cách mạng thay đổi, phát triển mà con người (Việt Nam) chỉ có thể thuận chứ
không thể chống lại được !
Ngọn gió đã đổi chiều.
Một dòng thác Cách Mạng của Dân tộc Việt Nam khao khác Tự Do, khao
khác Dân Chủ đang thành hình tại Việt Nam.
Tiềm năng là sự giao
lưu giữa hai cộng đồng người Việt. Một cộng đồng Hải ngoại, vượt biên tỵ nạn Cộng
sản, cần cù, làm lại cuộc đời, dành dụm vốn liếng, làm ngày làm đêm tạo tương
lai cho con cái hậu duệ, tạo thêm hiểu biết, tạo thêm cơ sở kiến thức, nghề
nghiệp, trí tuệ đưa giòng tư tưởng thông thái, dân chủ hiểu biết trở về với
công đồng người Việt ở lại trong gông cùm Cộng sản. Nhờ dư âm của
« tý » dân chủ còn lại, của « tý » tập tục phóng khoáng ngày
xưa, nhờ mạng lưới tin học càng ngày càng tinh vi, những bức tường bưng bít sức mạnh của Đảng Cộng sản
càng ngày càng rạn nức, thậm chí phá vỡ, rơi rụng từng mảng, người dân Việt Nam
trong nước, ngày nay hết còn sợ, hết còn tin, hết còn mê, vì các huyền thoại, từ
lý thuyết đến con người, đều bị hạ bệ. Khi một chế độ không còn huyền thoại để
che đậy, khi những lớp sơn son thếp vàng bị rơi rụng lả chả, khi những bức tường
anh hùng dân tộc đều là những giả tạo,
« Dân tộc thiệt » » sẽ vùng lên, với những Giá trị Xã hội
thiệt ». Khi những bằng cấp dỏm rơi rụng, lòi ra cái giả, thì những cái
thiệt sẽ thành công.
Ngày mai đã bắt đầu,
và ngày mai một Cuộc Cách Mạng (thiệt) Dân tộc (thiệt) sẽ thật sự làm lại Việt
Nam.
Hãy dẹp bỏ, chế độ
giả tạo, dỏm, đầy huyền thoại dỏm đề những người Việt Nam thiệt cầm quyền
Vì thế những gì
chúng ta trông đợi vào Việt Nam, không từ Mỹ, không từ Nga, không từ Âu Châu,
cũng không từ Tàu, Nhựt, Asean hay ai cả mà ngay từ người Việt Nam trong nước.
Người Việt Nam thiệt, yêu nước thiệt. Người Việt tỵ nạn dám đi bưng phở, rửa
chén, quét nhà, lau nhà, bán chợ trời, để xây lại cái tổ gia đình nuôi con cái ở
Hải ngoại hôi nhập với đất nước người, thì người Việt trong nước cũng có thể đập
bỏ cái cơ chế Cộng sản, xây lại căn nhà Việt Nam tử tế, từ cái móng, cái nền,
cái thành cái vách để hôi nhập với thế giới.
Giòng giao lưu trong
ngoài sẽ gặp nhau và tương lai hậu duệ dân miền Nam thua trận sẽ trở về giúp đở hâu duệ dân miền Bắc nô lệ
Cộng sản xây lại căn nhà Việt Nam.
Cách Mạng là đó. Dân tộc Việt Nam
cũng là đó vì cái Đạo Việt được gìn giữ bảo tồn nơi đất người sẽ trở về cấy
lại trên quê cha đất tổ.
Hồi Nhơn Sơn, Ngày Quân Lực
thứ 50
Phan Văn Song
Ghi Chú :
• * Nguyễn Tất Thành đến
Pháp làm đơn xin đi học Trường Thuộc địa
nhưng đơn bị bác.
• ** Chuyện huyền thoại
được truyền tụng trong Đảng. Bác nhà ta làm nghề sử hình – ngày xưa khi chụp
hình đen trắng, sau khi rửa, sanh hình xong, thợ chụp hình dùng bút chì sửa ,
cho bóng, nghề ấy gọi là retoucheur. Trở về Bác ta, Bác ta huyền thoại nghèo lắm,
tục truyền rằng mùa đông Bác gởi lò bán mì đầu hẻm Compoint quận 17 một cục gạch.
Tối đi làm về Bác lấy ra quấn vãi để ôm ngủ khôi lạnh. Đầu thế kỷ thứ 21, một
phái đoàn sư học Việt Nam đến Pháp hành hương trên đường cứu nước của Bác, đến
hẻm Compoint. Ngày nay, từ năm1994, hẻm -impasse Compoint đổi thành Villa
Compoint, sang trọng. Bác tra xưa năm 1921 ở số 9.. Hội sử học Việt Nam hành
hương tìm nhà số 9, tìm lò bánh mì nơi Bác ta gởi cục gạch, hỏi chung quanh, bổng
gặp một bà rất già đang ngồi phơi nắng, bèn nỉ non hỏi chuyện và hành diện kể
huyền thoại cũc gạch. Bà già bổng nổi giận « Cái thằng nói láo, gạch chó
gì, tao là cục gạch đây ». Hết chuyện, miễn bàn. Toàn là huyền thoại, toàn
là bưng bít, toàn là Nói lái. Ôi văn hóa Việt Cộng, Đểu, láo Dỏm .
Nguồn : Tiếng Dân