Người dịch: Nguyễn Quang A
Chương này đề xuất một sự xét lại căn bản cách chúng ta nghĩ về sự
đại diện và dân chủ trong thời đại ngày nay. Nó định rõ một sự biến đổi lịch sử
về các đường nét và động lực học của dân chủ đại diện. Nó bàn về lời xác nhận rằng
từ khoảng nửa thế kỷ thứ hai mươi dân chủ đại diện đã bắt đầu biến thành một
hình thức lịch sử mới củadân chủ ‘hậu-nghị viện-post-parliamentary’, và nó tìm
hiểu một số lý do vì sao sự thay đổi này đã diễn ra. Nó đề xuất rằng các viễn cảnh
‘sự kết thúc của lịch sử’ và các ẩn dụ biển (‘làn sóng thứ ba’, lối so sánh biển
có ảnh hưởng nhất của Huntington) là quá hạn chế để thấu hiểu sự thay đổi kỷ
nguyên – quá gắn với các thứ trên bề mặt, quá bận tâm với các sự liên tục và dữ
liệu tổng hợp – để nhận biết rằng các trào lưu chính trị đã bắt đầu chảy theo
các hướng hoàn toàn mới. Phỏng đoán của tôi là, thế giới dân chủ hiện tồn thật
đang trải qua một sự thay đổi lịch sử to lớn, mà đưa chúng ta khỏi dân chủ trực
tiếp (dựa vào hội họp) và dân chủ đại diện của các thời quá khứ sang một hình
thức dân chủ với các đường nét và động lực học hoàn toàn mới của sự đại diện.
Khó để tìm một cái tên tao nhã
cho hình thức mới này của dân chủ, nói chi đến việc mô tả các hoạt động và các
hệ lụy chính trị của nó bằng vài từ; vấn đề là nhiệm vụ rắc rối để tạo ra một ‘phạm
trù hoang’ có vẻ hợp lý, một từ mới có tính sáng tạo mô tả một cách cô đọng và
tạo ý nghĩa giải tích tốt cho các tiến triển mới mà khác đi không thể hiểu được
thông qua các phạm trù ‘nhạt nhẽo’ đang thịnh hành (Eco 1999: 232ff.). Thuật ngữ nghe lạ
taidân chủ giám sát (monitory democracy)là chính xác nhất cho việc mô tả
sự biến đổi lớn xảy ra ở các vùng như châu Âu và Nam Á và ở các nước khác nhau
như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Argentina và New Zealand. Dân chủ giám sát là một hình thức
lịch sử mới của dân chủ, một sự đa dạng của chính trị ‘hậu-nghị viện’ được xác định
bởi sự tăng trưởng nhanh của nhiều loại khác nhau của các cơ chế ngoài-nghị viện(extra-parliamentary), săm
soi quyền lực. Các cơ quan giám sát này bén rễ bên trong các lĩnh vực trong nước
của chính quyền và xã hội dân sự, cũng như trong các khung cảnh ngang biên giới
mà một thời do các đế chế, các nhà nước và các tổ chức kinh doanh kiểm soát. Hệ
quả là toàn bộ cấu trúc của chính quyền tự quản đang thay đổi. Vòng kiểm soát
chính của các cuộc bầu cử, các đảng chính trị và các nghị viện lên đời sống
công dân đang yếu đi. Dân chủ sẽ có nghĩa nhiều hơn các cuộc bầu cử tự do và
công bằng rất nhiều, mặc dù chẳng hề ít hơn. Bên trong và bên ngoài các nhà nước,
các nhà giám sát(monitor) độc lập của quyền lực bắt đầu có các tác động rõ ràng.
Bằng cách thường xuyên đặt các chính trị gia, các đảng và các chính phủ được bầu
trên các ngón chân của chúng, các nhà giám sát này làm phức tạp đời sống của chúng,
nghi ngờ thẩm quyền của chúng và buộc chúng thay đổi chương trình nghị sự của chúng
– và đôi khi bóp nghẹt chúng trong sự ô nhục.
Dù xu hướng tới loại mới này của dân
chủ có bền vững hay không, sự phát triển không thể đảo ngược về mặt lịch sử còn
phải chờ xem: giống các tiền nhiệm lịch sử trước của nó, dân chủ giám sát không
phải là không thể tránh được. Nó đã không buộc phải xảy ra, nhưng nó đã xảy ra;
liệu nó sẽ sống hay tàn lụi hay chết đi không được xử lý trong tiểu luận này (chủ
đề về các phản-xu hướng và các hội chứng rối loạn củadân chủ giám sát được bàn
đến trong cuốn The Life and Death of Democracycủa tôi [Keane 2009a]). Chắc chắn khi xét đoán bằng các đường nét định chế và động học
nội tại của nó, dân chủ giám sát là hình thức phức tạp nhất của dân chủ bây giờ.
Những người thích tiếng Latin sẽ nói rằng nó là tertium quid (cái thứ ba chưa được xác định liên quan đến những cái
đã biết), cái kế tiếp hình thành chưa đầy đủ của các thí nghiệm lịch sử
với các hình thức dân chủ trực tiếp (dựa trên hội họp) và dân chủ đại diện. Nhân
danh ‘nhân dân’, ‘công chúng’, ‘trách nhiệm giải trình trước dân’, ‘nhân dân’
hay ‘công dân’ – các từ thường được dùng thay thế nhau trong thời đại dân chủ giám
sát– các định chế săm soi quyền lực (power-scrutinizing) xuất hiện khắp nơi.
Các cuộc bầu cử, các đảng chính trị và các cơ quan lập pháp không biến mất,
cũng chẳng nhất thiết suy giảm về tầm quan trọng; nhưng rõ ràng nhất chúng mất
vị trí then chốt trong chính trị. Dân chủ không còn đơn thuần là một cách xử lý
quyền lực của các chính phủ được bầu bởi các công cụ bầu cử và nghị viện và hiến
pháp, và không còn là một vấn đề bị giới hạn ở các nhà nước lãnh thổ. Đã qua rồi
những ngày khi dân chủ đã có thể được mô tả (và bị tấn công trong mạch tiếp
theo) như ‘sự cai trị bởi ý chí không bị hạn chế của đa số’ (Friedrich von
Hayek 1979:39). Dù trong phạm vi của chính quyền địa phương, quốc gia hay
siêu quốc gia, hoặc trong thế giới đầy quyền lực của các tổ chức và các mạng
phi-chính phủ – vài trong số chúng len xuống gốc rễ của đời sống hàng ngày và
trải ra, tới mọi ngõ ngách của trái đất – những người và các tổ chức thực hành
quyền lực hiện nay thông thường phải chịu sự giám sát công khai và tranh luận
công khai bởi một loạt các cơ quan ngoài-nghị viện.
Ở đây là một manh mối nổi bật cho
sự hiểu cái gì đang xảy ra: thời đại dân chủ giám sát bắt đầu trong 1945 đã chứng
kiến sự sinh ra của gần một trăm loại mới của các định chế săm soi quyền lực,
xa lạ đối với các nhà dân chủ trước. Như chúng ta sẽ thấy, các nhà bảo vệ các sáng
chế này thường nói về tầm quan trọng của chúng trong giải quyết một vấn đề cơ bản
đối mặt với các nền dân chủ đương thời, cụ thể là làm sao để thúc đẩy công việc
chưa hoàn thành của chúng về tìm những cách mới của sự sống dân chủ cho những
người nhỏ bé trong các xã hội lớn và phức tạp: các xã hội mà trong đó số đáng kể
công dân tin rằng các chính trị gia là không dễ để được tin cậy, và trong đó
các chính phủ thường bị tố cáo lạm dụng quyền lực hay không tiếp xúc với các
công dân, hoặc đơn giản không muốn giải quyết các mối lo âu và các vấn đề của họ.
Bằng cách đề cập đến các mối lo âu như vậy, các sáng chế mới săm soi quyền lực
bẻ gãy sự kìm kẹp của nguyên tắc đa số cai trị – sự tôn thờ đa số – gắn với dân
chủ đại diện. Cũng được giải phóng khỏi sự thận trọng được cân nhắc và lối nói
nước đôi của các đảng chính trị, một số sáng chế trao tiếng nói cho các mối lo
được cảm nhận mạnh mẽ của các thiểu số cảm thấy bị loại khỏi chính trị chính thức.
Một số nhà giám sát – các ủy ban bầu cử và các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng
chẳng hạn – sử dụng ‘tính trung lập’ được cho là của họ để bảo vệ các quy tắc của
trò chơi dân chủ khỏi các thú săn mồi và các kẻ thù. Các nhà giám sát khác công
bố các vấn đề dài hạn bị bỏ qua, hay được giải quyết tồi, bởi tâm tính ngắn hạn
được các chu kỳ bầu cử khuyến khích. Còn các nhóm giám sát khác lại nổi bật vì
sự phù du của chúng; trong một thế giới thay đổi nhanh, chúng xuất hiện trên hiện
trường, khuấy nồi của chúng, rồi đi tiếp như những kẻ du mục, hay tan biến vào
hư không.
Bằng cách tạo cơ hội cho các quan
điểm và cách sống mà người dân cảm thấy mạnh mẽ, bất chấp chúng bị các đảng,
các nghị viện và các chính phủ bỏ qua hay chặn, các sáng chế này đã có tác động
kết hợp nâng cao mức và chất lượng của sự giám sát công đối với quyền lực, thường
lần đầu tiên trong nhiều lĩnh vực đời sống, kể cả các mối quan hệ quyền lực ‘bên
dưới’ và ‘vượt quá’ các định chế của các nhà nước lãnh thổ. Không ngạc nhiên rằng
các sáng chế mới giám sát quyền lực đã gây ra những tiếng la thét chống lại việc
nuôi dưỡng sự mập mờ chính trị được cho là của chúng và ‘sự không tin cậy và ngờ
vực” về quyền lực nói chung (Dunn 2010); hoặc rằng chúng đang đúc lại ngôn ngữ chính trị đương thời.
Chúng thúc đẩy nhiều thảo luận về ‘sự trao quyền’, ‘dân chủ năng động cao’, ‘các
bên liên quan-stakeholders’, ‘quản trị tham gia-participatory governance’,‘dân
chủ truyền thông’ và ‘dân chủ thảo luận’; và chúng giúp truyền bá, thường lần đầu
tiên, một văn hóa bỏ phiếu và đại diện vào nhiều lĩnh vực cuộc sống. Dân chủ giám
sát là thời đại của các cuộc điều tra, các nhóm tiêu điểm, thăm dò thảo luận,
các kiến nghị trực tuyến và khán giả và người tiêu dùng bỏ phiếu. Dù có chủ ý
hay không, sự truyền bá văn hóa bỏ phiếu, được hỗ trợ bởi các cơ chế mới của sự
giám sát quyền lực, đã có tác động làm gián đoạn và thường bắt sự độc thoại của
các đảng, các chính trị gia và các nghị viện phải im. Các đổi mới săm soiquyền
lực mới có khuynh hướnggiải phóng các tiếng nói công dân nhiều hơn nhiều, đôi
khi bằng cách của các đại diện không được
bầukhéo sử dụng cái những người Mỹ đôi khi gọi là ‘bully pulpit-vị thế tuyệt
vời để thuyết giáo’. Số và dải của các định
chế giám sát đã tăng nhiều đến mức chúng hướng về một thế giới nơi quy tắc cũ ‘một
người, một phiếu, một đại diện’ –đòi hỏi chính trong cuộc đấu tranh cho dân chủ
đại diện – được thay thế bằng nguyên tắc mới của dân chủ giám sát: ‘một người,
nhiều mối quan tâm, nhiều tiếng nói, nhiều phiếu, nhiều đại diện’.
Phải thận trọng khi thử hiểu các
phương pháp mới của sự cản trở quyền lực vô trách nhiệm; chúng không được cắt từ
cùng tấm vài và vì thế cần sự xem xét cẩn thận. Các sáng chế mới không phải là
các sản phẩm riêng của ‘Mỹ’ hay ‘Âu châu’ hay ‘OECD’ hay ‘Phương Tây’. Giữa các
đặc tính xuất sắc hơn của chúng là cách chúng đã lan nhanh quanh địa cầu, từ tất
cả các điểm trên thế giới. Chúng mọc nhanh như nấm trong một thể đa dạng của
các môi trường khác nhau và thậm chí có các dấu hiệu, lần đầu tiên trong lịch sử
dân chủ, của sự nhận thức tăng lên về giá trị gia tăng của nghệ thuật sáng chế
– cứ như bản thân khả năng dân chủ để sáng chế là một sáng chế có giá trị nhất.
Các cơ chế giám sát hoạt động
theo những cách khác nhau, trên các mặt trận khác nhau. Một số săm soi quyền lực
chủ yếu ở mức các đầu vào của công dân (citizens’ inputs)cho chính phủ
hay các tổ chức xã hội dân sự; các cơ chế giám sát khác bận rộn với việc giám
sát và tranh luận cái được gọi là năng suất
chính sách (policy throughputs);
còn các cơ chế khác tập trung vào săm soi các
đầu ra chính sách (policy outputs)được
các tổ chức chính phủ hay phi-chính phủ tạo ra. Rất ít sáng chế tập trung đồng
thời vào tất cả ba chiều này. Các cơ chế giám sát cũng đến với các quy mô khác
nhau và hoạt động trên các thang không gian khác nhau, trải từ các cơ quan ‘ngay
quanh đây’ chỉ với các vết chân địa phương đến các mạng toàn cầu nhắm tới việc
kiểm tra những người và tổ chức thực hành quyền lực trên các khoảng cách lớn.
Căn cứ vào những sự biến đổi như
vậy, không nên ngạc nhiên rằng một danh sách ngắn của các sáng chế sau-1945 – thoạt
đầu, với con mắt không được huấn luyện – giống một tổ chim ác là gồm các thứ được
cóp nhặt ngẫu nhiên. Danh mục gồm: các ban hội thẩm công dân, các hội đồng sinh
thái vùng, sự tham gia lập ngân sách, các hội đồng cố vấn, các nhóm tiêu điểm
và các mạng lưới của các tổ chức nhân quyền. Có các think tank, các hội nghị đồng
thuận,các teach-in (phiên thảo luận kéo dài về các vấn đề tranh cãi như một
hình thức phản kháng), các lễ tưởng niệm công khai, các sơ đồ tham vấn cộng đồng
địa phương và các nhà ngỏ (được phát triển thí dụ trong lĩnh vực kiến trúc)
cung cấp thông tin và các dịch vụ cố vấn và vận động, các phương tiện và cơ hội
lưu trữ và nghiên cứu cho việc kết nối chuyên nghiệp. Nằm trong danh sách còn là
các hội đồng công dân, các cuộc kiểm toán dân chủ, các hội nghị động não, các hội
đồng xung đột lợi ích, các hiệp hội toàn cầu của các nghị sĩ chống tham nhũng
và các safari (hành trình) hiến pháp (được các nhà soạn thảo hiến pháp mới của
Nam Phi sử dụng một cách nổi tiếng để xem xét tập quán tốt nhất ở các nơi khác).
Cũng vậy là các sáng chếdân chủ banyan (bồ đề) của Ấn Độ: các tòa án đường sắt,
lok adalats, (giải quyết) tranh chấp lợi ích công khai và các phương
pháp satyagraha của sự khiếu nại và phản kháng dân sự. Cũng bao gồm là
các cơ quan kiểm nghiệm của người tiêu dùng và các hội đồng người tiêu dùng,
các kiến nghị online và các chat room, các câu lạc bộdân chủ và các tiệm café
dân chủ,các cuộc cầu nguyện ban đêm công khai và các sự bao vây ôn hòa, các
summit vàcác tổ chức giám sát (watchdog) toàn cầu được dựng lên để mang lại
trách nhiệm giải trình trước dân của các tổ chức kinh doanh và xã hội dân sự.
Danh sách các đổi mới mở rộng ra các cuộc thăm dò thảo luận (deliberative poll),
các hội đồng kế toán, các tòa án tôn giáo độc lập, các hội đồng chuyên gia (như
‘Năm Nhà Thông thái’ của Hội đồng Cố vấn Kinh tế ở Đức), ‘các thẻ điểm’ công
khai – các thẻ vàng và các danh sách trắng – các thi hành lập kế hoạch công,
các tham vấn công, các weblog, sự bất tuân dân sự điện tử (electronic
civildisobedience) và các website dành riêng cho việc giám sát sự lạm dụng quyền
lực (như Bully OnLine, một sáng kiến có cơ sở ở Vương quốc Anh nhằm giải quyết
sự hăm dọa ở nơi làm việc và các vấn đề liên quan). Và danh sách của các sáng
chế mới gồm các cuộc điều tra ý kiến người nghe tự-chọn (self-selected listener
opinion poll-SLOP) và các cuộc bỏ phiếu không chính thức (thí dụ, thăm dò ý kiến
qua nhắn tin), các tòa án hình sự quốc tế, các ủy ban sự thật và hòa giải, các
diễn đàn xã hội toàn cầu và xu hướng vềsố gia tăng của các tổ chức phi-chính phủ
chấp nhận các hiến pháp (điều lệ) thành văn, với một thành phần được bầu.
Hãy tạm ngừng, vì hiển nhiên danh
mục các sáng chế bị rời, và có thể gây bối rối. Cần tư duy sáng suốt để phát hiện
các phẩm chất chung của các sáng chế này. Các định chế giám sát đóng các vai
trò khác nhau. Chúng tận tụy cung cấp cho công chúng các quan điểm thêm và
thông tin tốt hơn về thành tích của các cơ quan chính phủ và phi-chính phủ khác
nhau. Và bởi vì chúng kêu gọi dân chúng, các định chế giám sát [monitory] (để
chấm dứt sự hiểu lầm có thể) không được lẫn lộn với các cơ chế theo dõi (surveillance)
từ trên xuống mà gây nguy hiểm cho dân chủ bởi vì chúng hoạt động bí mật vì các
mục đích riêng của các tổ chức chính phủ hayxã hội dân sự (cf.Rosanvallon 2008). Các cơ chế giám sát cũng
hướng tới việc xác định, săm soi và thực thi các tiêu chuẩn công và các quy tắc
đạo đức cho việc ngăn chặn tham nhũng hay hành vi không đúng của những người chịu
trách nhiệm đưa ra các quyết định, không chỉ trong lĩnh vực của chính phủ được
bầu mà cả trong một sự đa dạng của các khung cảnh quyền lực. Các định chế mới của
dân chủ giám sát được xác định thêm bởi sự cam kết toàn bộ của chúng để tăng cường
tính đa dạng và ảnh hưởng của tiếng nói và sự lựa chọn của các công dân trong
các quyết định tác động đến đời sống của họ – bất chấp kết cục của các cuộc bầu
cử.
Địa lý chính trị
Cái đặc biệt về dân chủ giám sát là cách tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội và chính trị đều bị săm soi, không chỉ bởi bộ máy tiêu chuẩn
của dân chủ đại diện mà bởi toàn bộ các
cơ quan phi-đảng phái, ngoài-nghị viện
và thường không được bầu hoạt động bên trong và bên dưới và bên ngoài
các đường biên giới của các nhà nước lãnh thổ. Có những ngoại lệ quan trọng đối
với xu hướng này – các lĩnh vực như sản xuất vũ khí quân sự và ngân hàng và đầu
tư– nơi các định chế giám sát đã phát triển tồi. Nhưng trong thời đạidân chủ giám
sát, cứ như các nguyên tắc của dân chủ đại diện – sự cởi mở công khai, sự bình
đẳng của các công dân,sự chọn các đại diện – được xếp chồng lên bản thân dân chủ
đại diện. Việc này có nhiều hệ quả thực tiễn, nhưng một tác động đặc biệt nổi bật
là để làm thay đổi các hình mẫu tương tác –địa lý chính trị – của các định chế
dân chủ.
Ngày xưa, trong thời hoàng kim của
dân chủ đại diện, thứ được gọi là dân chủ đã có một địa lý chính trị khá đơn giản
(Hình 9.1). Bên trong biên giới của bất kể nhà nước cho trước nào, dân chủ
đã có nghĩa (từ quan điểm của các công dân) là sự đi theo một cuộc vận động bầu
cử và vào ngày quyết định thì đi bỏ phiếu cho một đảng hay một ứng viên độc lập.
Ông ta – hầu như luôn luôn đã là đàn ông – đã là ai đó ở địa phương, một nhân vật
được cộng đồng biết đến, một chủ cửa hàng hay nhà chuyên nghiệp địa phương hay
ai đó trong kinh doanh hay một đoàn viên công đoàn, chẳng hạn. Rồi đến nghi lễ
lớn của dân chủ,sự tạm ngừng bàn cãi,sự yên lặng của sự suy ngẫm tạm thời, sự hồi
hộp phấn chấn của sự đánh dấu chọn và sự gạch bỏ, trước cơn bão kết quả. Nếu
may mắn với đủ số phiếu, người đại diện địa phương gia nhập một giới nhỏ được đặc
ân của các nhà lập pháp, mà công việc của họ là theo chính sách của đảng, để ủng
hộ hay phản đối một chính phủ mà sử dụng đa số của nó trong cơ quan lập pháp, để
thông qua các luật và để săm soi việc thực hiện chúng, hy vọng với các kết quả
làm hài lòng càng nghiều người được đại diện càng tốt. Vào cuối phần việc hạn
chế với tư cách nhà lập pháp,sự đùn đẩy trách nhiệm dừng lại. Rồi lại đến thời
gian cho cho ngày lựa chọn lớn. Người đại diện hoặc từ chức, về hưu, hay đối diện
với mọi khó khăn của việc bầu lại.
Hình 9.2. Dân chủ giám sát |
Nền dân chủmới đòi hỏi một sự
thay đổi đầu óc (headshift), một sự đoạn tuyệt với tư duy quy ước để hiểu địa lý
chính trị của nó. Cho mục đích này, chúng ta hãy tưởng tượng một lát, cứ như từ
một vệ tinh trên trời, các đường viền của nền dân chủ mới. Chúng ta sẽ nhận ra
rằng các định chế săm soi quyền lực của nó ít hướng vào các cuộc bầu cử, các đảng
và các cơ quan lập pháp hơn; không còn giới hạn ở nhà nước lãnh thổ; và được sắp
đặt về mặt không gian theo những cách lộn xộn hơn các sách giáo khoa về dân chủ
thường giả thiết rất nhiều (xemHình 9.2). ‘Độ sâu’ dọcvà ‘bề rộng’ ngang của các định chế giám sát là nổi
bật. Nếu số các mức bên trong bất kể thứ bậc nào của các định chế là một số đo về
‘độ sâu’ của nó, và nếu số các đơn vị nằm bên trong mỗi mức này được gọi là ‘khẩu
độ’ hay ‘bề ngang’ của nó, thì dân chủ giám sát là hệ thống sâu nhất và rộng nhất
của dân chủ từng được biết đến. Về nguyên tắc, trong mọi khung cảnh, tất cả các
mối quan hệ quyền lực trở thành có thể tranh cãi công khai bởi các định chế giám
sát. Địa lý chính trị của các cơ chế như các uỷ ban kiểm toán, các cuộc họp
công dân, các think tank trên web, các hội đồng địa phương, các nghị viện vùng,
các summit và các tổ chức giám sát toàn cầuthách đố các mô tả chất phác. Cũng
thế là địa lý chính trị của hình trạng (constellation) rộng hơn của các cơ chế
kiểm soát-quyền lực và tranh chấp-quyền lực mà trong đó chúng được nhúng vào – các
tổ chức như các hội đồng và bội thẩm đoàn công dân, các uỷ ban kiểm toán và
liêm chính và nhiều tổ chức giám sát khác được dựng lên để mang lại trách nhiệm
giải trình trước dân lớn hơncủa các tổ chức kinh doanh và xã hội dân sự.
Một số sự hiểu sai
Cả tính mới lẫn tính phức tạp của dân chủ giám sát làm cho nó dễ bị
tổn thương đối với một số sự hiểu sai mà cần được đề cập nhằm để hiểu, giải
thích và đánh giá kỹ hơn các giá trị của nó.
Sự đại diện
Trong khi thường được nói rằng cuộc đấu tranh để mang lại trách
nhiệm giải trình trước dân lớn hơn chocác tổ chức chính phủ và phi-chính phủ,
mànắm quyền lực trên những người khác, thực sự là một cuộc đấu tranh cho ‘dân
chủ cơ sở’ hay ‘dân chủ tham gia’ hay ‘sự trao quyền cho nhân dân’, các ẩn dụ dựa
trên một sự hiểu sai các xu hướng đương thời. Thời đại dân chủ giám sát không
hướng lùi; nó không được thúc đẩy bởi các nỗ lực để giành lại tinh thần (được
tưởng tượng) của dân chủtrực tiếp – ‘quyền lực cho nhân dân’ – như một số người
ủng hộ của các nhóm như Sinh viên vì một Xã hội Dân chủ (SDS) đã thích nói
trong các cuộc nổi loạn của các năm 1960. Nhiều nhà quán quân đương thời của dân
chủ‘sâu’ hay ‘trực tiếp’ vẫn nói cứ như họ là những người Hy Lạp (cổ), cứ như
cái thực sự được tính đến trong các nội dung của dân chủ là ‘sự cam kết và các
năng lực của người dân thường để đưa ra các quyết định hợp lý thông qua sự suy
nghĩ cân nhắc có lý lẽ và được trao quyền bởi vì họ thử liên kết hành động với
sự thảo luận’ (Fung andWright 2003: 5). Thực tế của dân chủ giám sát là khác, bởi vì tất cả các thử
nghiệm mới săm soi quyền lực nhân danh ‘nhân dân’ hay sự trao quyền cho công
dân đều dựa một cách không thể tránh được vào sự đại diện. Các thử nghiệm
này thường lấy tính chính đáng của chúng từ ‘nhân dân’, nhưng chúng không thể
hiểu được như các nỗ lực để huỷ bỏ lỗ hổng giữa những người đại diện và những
người được đại diện, cứ như các công dân đã có thể sống mà không có những người
khác hành động nhân danh họ, và đã có thể tìm thấy đúng bản thân họ như những
người ngang hàng bên trong một cộng đồng chính trị thống nhất không còn bị khó
khăn bởi sự truyền đạt sai, hay bởi sự cai trị tồi nữa.
Dân chủ giám sát trên thực tế
phát triển mạnh nhờ sự đại diện. Hãy xét ví dụ được thảo luận nhiều của các hội
đồng công dân(Keane 2009a: 699–701). Trong các năm đầu của thế kỷ thứ hai mươi mốt, trong
số các trường hợp được nói nhiều nhất đã là Hội đồng Công dân về Cải cách Bầu cử
(Citizens’ Assembly on Electoral Reform) trong tỉnh British Columbia của Canada.
Được cơ quan lập pháp địa phương ủng hộ, Hội đồng Công dân đã hoạt động trong
phần lớn của một năm như một cơ quan độc lập, không đảng phái được giao nhiệm vụ
để mắt một cách phê phán đến hệ thống bầu cử đầu phiếu đa số tương đối (first-past-the-post)của
tỉnh. Hội đồng đã có 161 thành viên: nó đã gồm 1 phụ nữ và 1 đàn ông được chọn
ngẫu nhiên từ 79 khu vực bầu cử của tỉnh, cộng 2 đại diện thổ dân cũng như 1 đại
diện từ Quốc hội Lập pháp của tỉnh. Các
thành viên đại diện của Hội đồng Công dân đã không được bầu, mà được chọn bằng
rút thăm. Ngược với sự tin cậy Hy Lạp vào các vị thần như những người bảo hiểm
của các quyết định được xác định bằng rút thăm, các thành viên Hội đồng được chọn
ngẫu nhiên bởi một máy tính, từ một tập hợp của các cử tri được đăng ký, những
người được cho là phản ánh tuổi, giới tính và cấu tạo địa lý của các công dân British
Columbia như một tổng thể. Được cấp ngân sách riêng, Hội đồng Công dân đã được
thiết kế để hoạt động bên ngoài hệ thống của các đảng chính trị, và giữ khoảng
cách của nó với cơ quan lập pháp, các nhóm lobby có tổ chức và các nhà báo. Nhiệm
vụ của nó đã là để hoạt động như một cơ quan không được bầu của những người đại
diện tạm thời của tất cả người dân British Columbia.
Các cuộc bầu cử
Một sự hiểu sai khác, liên quan đến địa vị và tầm quan trọng thay
đổi của các cuộc bầu cử, ngăn cản nhiều người khỏi sự nhận ra tính mới của dân
chủ giám sát. Từ 1945, khi đã chỉ còn một tá nền dân chủ sót lại trên bề mặt
trái đất, dân chủ dựa trên đảng phái đã trở lại mạnh mẽ, nhiều đến mức nó đã
đánh lừa các học giả như Fukuyama và Huntington vào tư duy rằng đã chẳng có gì
thay đổi cả, trừ một sự nhảy vọt lớn về số các nền dân chủ đại diện. Họ có thể
được tha thứ:tiếp sau sự sụp đổ lan rộng vàsự gần bị tiêu diệt của dân chủ
trong nửa đầu của thế kỷ thứ hai mươi, thì quả thực đúng rằng từ đó hầu hết các
phần của thế giớiđã trở nên quen thuộc với các định chế quản trị cơ bản của nó.
Các hình thức đại diện tập trung quanh đảng không tàn đi.Hàng triệu người đã lớn
lên quen với sự cạnh tranh giữa các đảng chính trị, các cuộc bầu cử định kỳ, sự
giữ chức vụ chính trị theo nhiệm kỳ hạn chếvà quyền của các công dân để nhóm họp
công khai để trình bày các quan điểm của họ cho những người đại diện của họ
trong các cơ quan lập pháp và hành pháp, tất cả việc này hoạt động bên trong
các nhà nước lãnh thổ theo pháp luật. Trong khung cảnh khác nhau như Sri Lanka,
Nigeria,Trinidad và Tobago, Malta và Botswana, các cơ chế của dân chủ bầu cử đã
bén rễ lần đầu tiên; còn trong các khung cảnh khác, đặc biệt các khung cảnh nơi
dân chủ bầu cửđược gắn kết vào, các thử nghiệm đã được tiến hành trong việc tân
trang chúng, thí dụ bằng việc đưa các cuộc bầu cử sơ bộ vào các đảng chính trị, siết
chặt các hạn chế về gây quỹ và chi tiêu vận động bầu cử, thay đổi các quy tắc của
trò chơi bầu cử, cải thiện các phương tiện bỏ phiếu cho các công dân tàn tật vàcấm
party hopping [nhảy sang đảng khác] (một quyết định của Toà án Tối cao Brazil
trong 2007).
Vì tất cả các lý do này, đã có vẻ
là hoàn toàn hợp lý cho Huntington vàcác học giả khác để nói về sự tái sinh ngoạn
mục của dân chủ đại diện trong các thập niên vừa qua như một ‘làn sóng thứ ba’.
Bước vào dân chủ giám sát: một hình thức lịch sử mới toanh của dân chủhoạt động
theo những cách khác xa với sự tường thuật sách giáo khoa về dân chủ ‘đại diện’
hay ‘khai phóng’ hay ‘nghị viện’, như nó vẫn thường được gọi. Trong thời đại dân
chủ giám sát, dân chủ được thực hành khác đi. Các định chế như các cuộc bầu cử
định kỳ, cạnh tranh đa đảngvàquyền của các công dân để cất tiếng nói công khai
chấp thuận hay phản đối sự lập pháp vẫn là các thứ cố định quen thuộc trong đời
sống của các nền dân chủ. Vấn đề ai được quyền bỏ phiếu, và dưới các điều kiện
nào, tiếp tục gây ra các rắc rối (hãy nghĩ về các sự gây xáo trộn gay gắt được
kích bởi các kết quả bầu cử tranh cãi năm 2009 ở Iran, hay về các tranh cãi
đang diễn ra về ai sở hữu software của các máy bỏ phiếu điện tử đôi khi không
tin cậy được sản xuất bởi các công ty như Election Systems and Software). Trong
thực tế, một số người, chẳng hạn những người phạm tội, đã bị rút quyền bỏ phiếu;
những người khác, kể cả những người sống ở nước ngoài, những người nói tiếng
thiểu số, những người tàn tật và những người ít học và có các kỹ năng thấp,bị bất
lợi bởi các cuộc bầu cử bỏ phiếu kín; còn các khối cử tri khác, như phụ nữ, những
người trẻ và sinh quyển, hoặc được đại diện tồi, hay chẳng hề được đại diện
chút nào.
Các cuộc đấu tranh để khai phá và
cải thiện chất lượng của sự đại diện bầu cử và lập pháp chưa hề hoàn thành. Nhưng
một cách chậm và chắc chắn, toàn bộ kiến trúc của dân chủ đã bắt đầu thay đổi một
cách căn bản. Ý nghĩa của dân chủ cũng thế. Nó không còn đồng nghĩa với chế độ
tự trị bởi cuộc hội họp của các công dân nam (như trong các thành bang Hy Lạp),
hay chính quyền dựa vào bên thứ ba được hướng dẫn bởi ý chí của một đa số lập
pháp của các đại diện được bầu, dân chủ trở nên có ý nghĩa là một cách sống và một
phương thức cai quản mà trong đó quyền lực ở mọi nơi phải chịu sự kiểm soát và
cân bằng, sao cho không ai được quyền cai trị mà không có sự đồng ý của những
người bị trị, hay các đại diện của họ. Một triệu chứng của sự định nghĩa lại dân
chủ là sự xuất hiện của sự giám sát (monitoring) bầu cử. Trong các năm 1980, lần
đầu tiên trong lịch sử dân chủ, các cuộc bầu cử thành lập trong các chính thể mới
hoặc bị xung đột xâu xé đã bắt đầu được giám sát một cách có hệ thống bởi các
nhóm nhà quan sát bên ngoài. Các phương pháp ‘công bằng và công khai’ – việc loại
bỏ bạo lực,sự hăm doạ, gian lận phiếu vàcác hình thức khác của hành động chính
trị ngớ ngẩn– bây giờ được kỳ vọng ở tất cả các nước, kể cả nền dân chủ hùng mạnh
nhất trên bề mặt Trái đất, Hoa Kỳ, nơi các nhà quan sát của Tổ chức An Ninh và
Hợp tác châu Âu (OSCE) đã đóng một vai trò lần đầu tiên trong các cuộc bầu cử tổng
thống tháng Mười Một 2004. Trong các cuộc bầu cử 2008 của nó, các bên tranh đua
đã chứng tỏ một lần nữa rằng công cụ vận động của sự giám sát hợp pháp các cuộc
bầu cử đang trở thành bình thường như sự gây quỹ và quảng cáo. Họ đã làm vậy bằng
cách tập hợp hàng ngànluật sư ở mức bang để bảo vệ những người ủng hộ tại các
nơi bỏ phiếu, để giúpgỡ rối các vấn đề bỏ phiếu và để nhờ đến toà án nếu sự kiện
tụng là cần thiết (chiến dịch vận động cho Barack Obama đã gửi 5.000 luật sư đến
riêng Florida).
Xã hội dân sự
Trong thời đại dân chủ giám sát, các cuộc đấu tranh đòi quyền bầu
cử mà một thời giằng xé toàn bộ các xã hội đã mất tính trung tâm của chúng. Khi
văn hoá bỏ phiếu lan rộng, và khi các đại diện không được bầu tăng lên nhiều lần
trong nhiều khung cảnh khác nhau (xem chương của Michael Saward), một vấn đề mới
tinh bắt đầu nổi lên. Câu hỏi cũ mà đã làm rung chuyển thời đại dân chủ đại diện
– aiđược quyền bỏ phiếu vàkhi nào –được kết hợp vàphức tạp hoá bởi một câu hỏi mà vẫn không có các
câu trả lời dễ: người dân được quyền bỏ phiếuở đâu, hoặc được đại diện,
bằng cách của các đại diện không được bầu?
Sự quan tâm mạnh đến các vấn đề săm
soi công khai, một thời được nghĩ là phi-chính trị, là độc nhất cho thời đại dân
chủ giám sát. Thời đại dân chủ đại diện chắc chắn đã thấy sự nổi lên của các
nhóm áp lực có tổ chức và các sơ đồ cho việc ‘xã hội hoá’ quyền lực của chính
phủ, chẳng hạn qua việc các công nhân kiểm soát công nghiệp. Ít trong số các sơ
đồ này đã sống sót qua các chấn động của nửa đầu tiên của thế kỷ thứ hai mươi,
mà làm cho sự tương phản với dân chủ giám sát càng nổi bật hơn. Có nhận thức tăng
lên về sự cần thiết cho những người dùng (‘những người liên quan-stakeholders’)
để thực thi các quyền phê phán vàbỏ phiếu bên trong các tổ chức dịch vụ công trong
các lĩnh vực như chăm sóc sức khoẻ, giáo dục và giao thông. Sự thay đổi to lớn
cũng hiển nhiên về mức quan tâm chưa từng có đến thuật ngữ cũ Âu châu thế kỷ thứ
mười tám, thuật ngữ‘xã hội dân sự’; lần đầu tiên trong lịch sử dân chủ, cụm từ
này bây giờ được các nhà dân chủ sử dụng ở khắp nơi trên thế giới. Sự thay đổi
cũng rõ ràng trong xu hướng mạnh tới sự săm soicông khai độc lập đối với mọi loại
chính sách chính phủ, bao phủ (chẳng hạn) các mối lo âu về sự đối xử tồi với và
các quyền hợp pháp của trẻ em, các kế hoạch bảo vệ môi trườngvà sự cần thiết để
đưa dân chủ ‘ngược dòng’ bằng cách đảm bảo rằng sự phát triển tương lai của (thí
dụ) công nghệ nano và thực phẩm biến đổi gene phải theo các luật phục vụ cho lợi
ích của nhiều người, chứ không phải ít người. Các thử nghiệm nuôi dưỡng các
hình thức mới của sự tham gia của công dân vàsự đại diện được bầu thậm chí đã
xâm nhập các thị trường; các đổi mới sớm đã gồm hệ thống cùng-xác định ở Đức được
biết đến nhưMitbestimmung, nhưng ngày nay nhiều doanh nghiệp và khu vực
thị trường đã bắt đầu cảm thấy cú véo của các cơ chế giám sát.
Watchdogs (Các tổ chức giám sát)
Vai trò sống còn do các xã hội dân sự đóng trong sáng chế về các
cơ chế giám sát quyền lực có vẻxác nhận cái có thể được gọi là quy luật James
Madison về chính phủ tự do: không chính phủ nào có thể được xem là tự do trừ
phi nó có khả năng cai trị một xã hội mà bản thân nó có khả năng kiểm soát
chính phủ. Quy luật (được phác hoạ một cách nổi tiếng trong bài số 51 của Federalist
Papers [Các bài báo Liên bang])
đã cám dỗ một số người để kết luận – sai lầm – rằng các chính phủ là hoàn toàn
không có khả năng săm soi quyền lực riêng của chúng. Sự thực là khác. Trong thời
đạidân chủ giám sát, các kinh nghiệm cho thấy rằng các chính phủ đôi khi bỏ phiếu
để hạn chế các quyền lực tuỳ tiện của chúng,ủng hộ lợi ích của các công dân của
chúng, hay nhân danh toàn bộ chính thể. Các định chế ‘giám sát-watchdog’ của
chính phủ là trường hợp như vậy. Mục đích được công bố của chúng là sự săm soi
công khai chính phủ bởi các cơ quan nửa-độc lập. Các cơ chế săm soi(đáng nhớ rằng
từ scrutiny [săm soi] ban đầu đã có nghĩa là ‘phân loại đồ bỏ đi’, từ từ Latin scrutari,
có nghĩa là ‘tìm kiếm’, và và từ scruta, ‘đồ bỏ đi’) bổ sung vai trò
giám sát quyền lực của các đại diện chính phủ được bầu và các thẩm phán, mặc dù
đây không luôn luôn là mục đích được tuyên bố của chúng; rất thường xuyên chúng
được đưa vào dưới thẩm quyền chung của các chính phủ được bầu, chẳng hạn qua
trách nhiệm cấp bộ. Trong thực tiễn, các thứ thường hoá ra khác với kỳ vọng. Đặc
biệt khi được bảo vệ bởi pháp chế, được cấp nguồn lực tốt và được quản lý tốt,
các cơ quan săm soi chính phủ có khuynh hướng có cuộc sống của riêng chúng. Dựa
trên các tiền lệ cổ hơn nhiều của các ombudsman [thanh tra viên], các uỷ ban
hoàng gia, các thẩm vấn công khai và các nhà kiểm toán độc lập kiểm tra tính
trung thực tài chính của các cơ quan chính phủ – các sáng chế có gốc rễ trong
thời đại dân chủ đại diện – các cơ chế săm soi mới đưa thêm các sự kiểm soát và
cân bằng lên sự lạm dụng quyền lực có thể của các đại diện được bầu. Thường
chúng được biện minh về mặt cải thiện hiệu quả vàsự có hiệu lực của chính phủ,
chẳng hạn thông qua sự ra quyết định ‘am hiểu tốt hơn’ mà đã có lợi thế thêm về
nâng mức tin cậy chung vào các định chế chính trị giữa các công dân được coi
như ‘các bên liên quan’. Quá trình để lộ một nghịch lý kép. Không chỉ các cơ chế săm soi chính phủ thường
được thiết lập bởi các chính phủ mà sau đó không kiểm soát được hoạt động của
chúng, thí dụ trong các trường hợp tham nhũng và thực thi các tiêu chuẩn pháp
lý; các cơ chế mới cũng có các tác động dân chủ, kiểm tra quyền lực và ngăn cản-sự
xấc xược, mặc dù chúng thường được cấp nhân sự bởi các quan chức không được bầu
những người hoạt động xa nhịp điệu của các cuộc bầu cử định kỳ.
‘Các hệ thống liêm
chính-integrity system’ độc lập mà đã có được một chân dung công khai quan trọng
trong các bang khác nhau ở Australia từ các năm 1970 là các thí dụ hay. Tiếp
sau sự phơi bày báo chí lặp đi lặp lại về sự gian lận vàtham nhũng của các
chính trị gia và cảnh sát, những người trong một số trường hợp đã có các liên kết
với doanh nghiệp và sự phạm tội có tổ chức, các cơ quan giám sát được thiết lập
để mang lại các con mắt, các lỗ tai và các chiếc răng mớicho khu vực công. Mục
tiêu đã là để xử lý mạnh việc làm sai cố ý hay hành vi sai trái của các đại diện
được bầu và các quan chức được chỉ định; cũng được chỉ rõ là các hệ thống khiếu
nại lỏng lẻo vàtư lợi được vận hành bởi cảnh sát, những người đối với các chính
phủ dân chủ như các lưỡi dao sắc đối với các con dao. Các mối nghi ngại cũng đã
được bày tỏ về sự miễn cưỡng của các bộ trưởng được bầu để trông nom các vấn đề
hoạt động cảnh sát nhạy cảm công khai. Hai uỷ ban hoàng gia trong bang Nam Australia
trong các năm 1970 đã dẫn đến việc thành lập Cục Khiếu nại Cảnh sát đầu tiên
(trong 1985). Các bang khác đãnoi theo, lên đỉnh điểm trong Uỷ ban Công lý Hình
sự của Queensland (sau này là Uỷ ban Tội phạm và Hạnh kiểm xấu). Được thiết lập
trong năm 1990 như một cơ quan kết hợp chống tham nhũng và phát hiện tội phạm, nó
đã được trao nhiệm vụ phơi bày tham nhũng bên trong khu vực công, tiến hành
truy tìm tội phạm, thu thập bằng chứng của tội phạm có tổ chức, vàtheo dõi và
thu hồi các khoản thu nhập tội phạm. Công việc của nó sau đó đã dẫn đến việc
hình thành một Văn phòng của Uỷ viên Liêm chính, một cơ quan luật định mà các
chức năng của nó bao gồm việc đăng ký và giám sát các nhà vận động hành lang (lobbyist)
và cung cấp lời khuyên chi tiết cho các bộ trưởng, các nghị sĩ và các quan chức
cấp cao về các vấn đề đạo đức và liêm chính, kể cả các xung đột lợi ích.
Dân chủ ngang biên giới?
Trong thời đại dân chủ giám sát, như Michael Zürn và Gregor
Walter-Drop chỉ ra trong chương của họ, một bức tường định kiến lớn bao quanh
toàn bộ ý tưởng về dân chủ ‘ngang biên giới’ hay dân chủ ‘quốc tế’. Định kiến
có niên đại từ thời đại dân chủ đại diện bị giới hạn về lãnh thổ, vàhầu như tất
cả các học giả hàng đầu của dân chủ ngày nay đều bảo vệ chân lý được cho là của
thiên kiến này. Một thứ lý thú về dân chủ giám sát là, nó đắt đầu đối mặt với bức
tường định kiến với một chiếc búa; các hình mẫu có dạng lưới mắt cáo (latticed)
của sự giám sát quyền lực trên thực tế phá huỷ hoàn toàn sự phân biệt giữa ‘trong
nước’ và‘nước ngoài’, giữa ‘địa phương’ và‘toàn cầu’. Giống các loại định chế
khác, kể cả doanh nghiệp và các đại học, dân chủ cũng bị đuổi kịp trong một quá
trình ‘glocalisation-toàn cầu địa phương hoá’. Đấy là một cách khác để nói rằng
các cơ chế giám sátcủa nó tương liên với nhau (inter-related)một cách động, đến
điểm nơi các cơ chế này hoạt động đồng thời, như cả một phần lẫn toàn bộ của hệ
thống tổng thể. Trong hệ thống dân chủ giám sát, để diễn đạt các thứ một chút
trừu tượng hơn, các phần và các toàn bộ không tồn tại theo một nghĩa tuyệt đối.
Các đơn vị của nó được mô tả tốt hơn như các dưới-toàn bộ (sub-whole) – ‘các
holon’ là thuật ngữ được đặt ra một cách nổi tiếng bởi nhà thông thái HungaryArthur
Koestler – mà hoạt động đồng thời như các thực thể tự-lưu tâm (self-regarding)vàtự-khẳng
định (self-asserting) đẩy và kéo nhau trong một hệ thống nhiều bên mà trong đó
tất cả các thực thể đóng vai một phần.
Thí dụ về các summit (thượng đỉnh),
một sáng chế xuất sắc giữathế kỷ thứ hai mươi, giúp đưa ngôn ngữ này trở nên thực
tế. Một sự thực là, các summit đã bắt đầu như các sự thực hành trong chính trị
cường quốc lớn, như các cuộc họp phi chính thứcad hoc (đặc biệt) của các nguyên
thủ quốc gia hay những người đứng đầu chính phủ, hoặc các bộ trưởng ngoại giao
– loại cuộc họp đã xảy ra đầu tiên trong thời gian liên minh Soviet/Mỹ/Anhmỏng
manh chống lại Hitler. Từ cuối Chiến tranh Thế giới Hai cho đến thời gian của
cuộc gặp SummitVienna nổi tiếng giữa Kennedy vàKhruschev (trong tháng Sáu 1961),
đã có hơn một trăm summit như vậy, mỗi cuộc sử dụng các phương pháp đại thể
tương tự. Các cuộc gặp đã bận tâm với động học của Chiến tranh Lạnh, và như thế
đã có cả một tầm với toàn cầu lẫn một tính lưỡng cực về chúng. Dù được sử dụng
như các công cụ thân thiện hay thù địch, các summit sớm đã cũng được đánh dấu bởi
một số đo mạnh của tính có thể tiên đoán được. Quy tắc đã là không chính khách
nào muốn phải chịu rủi ro của sự chắc chắn bị bẽ mặt. Vì thế đã hết sức chú ý đến
kịch bản. Kết quả –giống các nghi lễ cổ của nền quân chủ Âu châu – đã là để củng
cố cảm giác giữa các công chúng rằng đấy đã là các công việc từ trên xuống, các
thí dụ về thế giới được vận hành ra sao bởi một nhúm người.
Trong các thập niên cuối của thế
kỷ thứ hai mươi, thứ hoàn toàn gây kinh ngạc về các summit đã là sự biến đổi kịch
tính thành các địa điểm nơi quyền lực của các đại diện bị tranh cãi một cách
công khai. Các summit đã biến hình thành các cơ chế giám sát. Ý nghĩa và chức
năng đã thay đổi của các summit đã rõ ràng ở hàng loạtcuộc họp cấp cao giữa Reagan
và Gorbachev, kể cả cuộc gặp 1986 ởReykjavik, nơi việc thủ tiêu các tên lửa đạn
đạo và các vũ khí hạt nhân chiến lược – kể cả mọi vũ khí hạt nhân – đã được đề
xuấtmà không có tham vấn trước với NATO vàcác cơ quan khác. Từ đó trở đi, các
summit đã bắt đầu được các nhà lãnh đạo dùng để ‘dồn ép’ các bộ máy quan liêu của
họ vào việc thay đổi chính sách, trong một sự đa dạng rộng của các ngữ cảnh. Điều
đó đã có tác động dây chuyền của chính phủ làm chính trị, làm rõ cho các công
chúng rộng hơn, cả bên trong lẫn bên ngoài chính phủ, rằng đã có các lựa chọn
chính trị khác.
Sự tăng lên của việc tổ chức
summit được giấu giếm trong bí mật và cảnh phô trương lộng lẫy đã phản tác dụng.
Các summit đã bắt đầu thu hút sự chú ý của hàng ngàn nhà báo háo hức để tường
thuật về các câu chuyện vàhình ảnh của các câu lạc bộ dành riêng và hùng mạnh.
Bắt đầu với G7 Summit ở Bonn trong tháng Năm 1985 (mà đã thu hút 30.000 người
biểu tình đòi công lý toàn cầu), các cuộc họp hàng năm của nó đã cung cấp một
cơ hội cho các tổ chức xã hội dân sựvànhững người phản đối để bày tỏ các mối lo
ngại của họ liên quan đến các vấn đề đa dạng như thương mại quốc tế vàchủ nghĩa
khủng bố đến sự phát triển năng lượng và tội phạm ngang biên giới – thực ra, bằng
cách biến các nhà cai trị thành các đại diện đáng khiển trách. Các xu hướng
tương tự đã rõ rệt từ thời của các cuộc họp IMF và World Banknăm 1988 ở Berlin,
mà đã thu hút đến 80.000 người phản đối được chỉ dẫn tường tận vàđược tổ chức tốt;
vàtrong chuỗi tiếp sau của các summit do Liên hiệp Quốc tài trợ đã khuấy động
các cuộc họp chuẩn bị, các teach-in vàcác đợt huy động có kế hoạch mà đã dẫn đến
Summit của Trẻ em (1990), Summit Trái đất (1992), Hội nghị về các Quyền Con người
(1993) và Hội nghị về Phụ nữ (1995). Có lẽ cố gắng hoành tráng nhất để biến đổi
các summit chính phủ từ trên xuống thành các kênh mới của sự đại diện lợi ích từ
dưới lên của xã hội dân sự đã là mạng lưới của các buổi hoà nhạc ‘sự nhận thức
toàn cầu’ Live 8(trong tháng Bảy 2005)kêu gọi các lãnh đạo thế giới để ‘Làm cho
Nghèo trở thành Lịch sử’.
Hiệu quả chính trị
Đôi khi được nói rằng công việc săm soi quyền lực làm thay đổi rất
ít, rằng các nhà nước và các công ty vẫn là các trung tâm ‘thực’ của quyền lực
trong việc quyết định ai nhận được gì, khi nào và ra sao trong thế giới này. Bằng
chứng kinh nghiệm là, điều này không nhất thiết như vậy được gợi ý bởi sự thực
rằng tất cả các vấn đề lớn mà đã bùng lên quanh thế giới từ 1945, bao gồm các
quyền dân sự cho phụ nữ và các thiểu số, sự can thiệp quân sự của Mỹ ở Việt Nam
và Iraq, các vũ khí hạt nhân,việc giảm nghèo và sự nóng lên toàn cầu, đều đã được
tạo ra không phải bởi các đảng chính trị, các cuộc bầu cử, các cơ quan lập pháp
và các chính phủ, mà chủ yếu bởi các mạng lưới giám sát quyền lực được vận hành
song song với – vàthường có vị trí chống lại – các cơ chếchính thống của sự đại
diện dựa vào đảng phái.
Phong trào các quyền dân sự hùng
mạnh nổi lên trong các năm 1950 ở Hoa Kỳ đã là một trong các phong trào định nhịp
độ. Các chiến thuật đầy sáng tạo của nó –
tẩy chay xe bus, cải thiện các hiệp hội, các uỷ ban điều phối, các sit-in [biểu
tình ngồi], các kneel-in [biểu tình quỳ], các cam kết ‘nhà tù-không-tiền bảo
lãnh’, các cuộc đi chơi tự do, các trường tư cách công dân, việc ca hát tự do,
các đợt vận động đăng ký cử tri, các cuộc bầu cử bắt chước – đã là bằng chứng
tích cực rằng các cơ quan thiểu số đã có thể có các tác động lên các mối quan hệ
quyền lực hiện tồn bằng cách buộc nhiều người cảm thấy sự khẩn cấp tương lai của
họ, thường thông qua các cuộc đấu tranh gay gắt, đôi khi mang lại các thắng lợi
gây ngạc nhiên cho những người nhất quyết hạ thấp những kẻ hùng mạnh. Cuối cùng
các chiến thuật đã tạo ra hai pháp chế lịch sử. Bộ Luật các Quyền Dân sự, được
Tổng thống Johnson ký ngày 2 tháng Bảy 1964, đã cấm sự phân biệt chủng tộc về
chỗ ở công, giáo dục vàcông ăn việc làm. Bộ Luật về các Quyền Bỏ phiếu, được Johnson
ký vào ngày 6 tháng Tám 1965, xoá bỏ các sự kiểm tra biết đọc biết viết, các
thuế bầu cử và các hạn chế khác về bỏ phiếu, cũng như đã uỷ quyền cho chính phủ
liên bang để can thiệp vào các bang và các đơn vị bỏ phiếu riêng lẻ vẫn tiếp tục
sử dụng các sự kiểm tra như vậy để phân biệt đối xử chống lại những người Mỹ gốc
Phi. Việc ban hành pháp luật kép này đã là dân chủ giám sát trong hành động (về
các chi tiết thêm xem Keane 2009a: 721–728). Nó đã chứng minh rằng những người không quyền lực đã
có quyền lực để làm thay đổi các thứ, và rằng sự thay đổi đã phải bắt đầu ở
nhà, ở nơi làm việc vàở các lĩnh vực công khác của đời sống mỗi ngày, trước khi
lan sang toàn bộ phong cảnh chính trị và xã hội của nền dân chủ Mỹ.
Vì sao dân chủ giám sát?
Bây giờ khi mà chúng ta đã giải quyết một số sự hiểu sai thông thường
về các đường nét và động lực học chính của dân chủ giám sát, cuối cùng chúng ta
hãy tạm ngừng để hỏi một câu hỏi ngắn: làm sao có thể giải thích sự sinh không
được lập kế hoạch và sự tăng trưởng sau đó của nó?
Các động lực đằng sau các sáng chế
săm soi quyền lực khác nhau được mô tả ở trên là phức tạp;như trong các pha trước
của lịch sử dân chủ, các sự khái quát hoá là khó như chúng là nguy hiểm.Nhưng một
thứ là chắc chắn: loại mới của dân chủ đã có cả các nguyên nhân lẫn các yếu tố
gây ra nguyên nhân của nó. Dân chủ giám sát không phải là một vấn đề đơn gen – một
thứ sống được ấp nở từ một tế bào duy nhất. Đúng hơn nó là kết quả của nhiều lực.
Sự nhận thức về các sự rối loạn chức năng và tiềm năng chuyên chế của dân chủtheo
quy tắc đa số trong hình thức đại diện đã là một chất xúc tác sớm quan trọng
(như đã xảy ra trong các nỗ lực sau 1945 để xây dựng các nguyên tắc nhân quyền
vào các định chế dân chủ). Các cơ chế giám sát (lập ngân sách tham giavà các uỷ
ban sự thật và hoà giải là các thí dụ được nói đến) thường đã xảy ra chỉ khi
các rạn nứt đã nảy nở bên trong giới cai trị, như thế cho phép sự can đảm của
các công dân và quyết tâm của các lãnh đạo có tinh thần hiến dâng cho công
chúng để làm phần còn lại. Tham vọng cá nhân, trò khỉ, các trò chơi quyền lực và
sự truy tìm chính quyền hiệu quả hơn và rẻ hơn – vàchính phủ háo hức để giải
thoát mình bằng đổ lỗi cho những người khác vì các sự thất vọng và thất bại
chính sách – tất cả đều có phần của chúng. Cũng như thế là các bản năng bảo thủ,
các đòi hỏi cấp tiến, các cân nhắc địa chính trị và các áp lực thị trường. Các
cơ hội cho việc xây dựng ‘vốn xã hội’ – nuôi dưỡng các mối quan hệ và các kỹ
năng giữa người dân ở các mức địa phương và khu vực – vàsự quyến rũ có được quyền
lực hay sự tăng trưởng thu nhập từ sự cung ứng các dịch vụ chính phủ được thuê
ngoài đã thức đẩy mạnh mẽ một số tổ chức, đặc biệt các NGO, để thúc đẩy cho các
định chế giám sát mạnh hơn. Các hệ quả không lường trước và sự may mắn đơn thuần
cũng đã đóng phần của chúng; nhưng không sự giải thích nào về dân chủ giám sátsẽ
đáng tin mà không tính đến cáchcác định chế media mới định hình quyền lực và
xung đột.
Hãy nghĩ về vai trò của chúng giống
thế này: dân chủ trực tiếp dựa vào hội họp đã thuộc về một thời đại bị chi phối
bời lời nói, được hỗ trợ bởi các luật được viết trên giấy cói và đá, và bởi thư
tín được gửi đi bằng chân, hay bằng lừa và ngựa. Dân chủ đại diện đã xuất hiện trong
thời đạivăn hoá in ấn – sách, sách mỏng và báo, vàthông báo được gửi qua điện
báo và thư – vàđã lâm vào khủng hoảng trong sự đến của truyền thông đại chúng
ban đầu, đặc biệt radio và cinema (chiếu phim)vàtruyền hình (trong tuổi ấu thơ
của nó). Ngược lại, dân chủ giám sát gắn mật thiết với sự tăng lên của các xã hội
bão hoà truyền thông đa-phương tiện (multi-media) –các xã hội mà cấu trúc quyền
lực của chúng liên tục ‘bị cắn’ bởicác định chế giám sáthoạt động bên trong một
thiên hà mới của media được xác định bởi đặc tính của sự thừa thãi truyền thông
(communicative abundance).
So với thời đại dân chủ đại diện,
khi văn hoá in ấn vàmedia nghe nhìn phổ hẹp đã sắp hàng sát hơn nhiều với các đảng
chính trịvà/hay các chính phủ, thời đạidân chủ giám sát chứng kiến sự săm soi công
khai không ngớt vàcác cuộc cãi vặt về quyền lực, đến điểm nơi nó có vẻ cứ như
không có tổ chức hay lãnh đạo nào bên trong các lĩnh vực của chính phủ hay đời
sống xã hội được miễn trừ khỏi rắc rối chính trị. Sự thay đổi đã được định hình
bởi một sự đa dạng của các lực, kể cả sự sa sút của nghề làm báo tự hào về cam
kết của nó đối với ‘tính khách quan’ dựa vào sự thực (một lý tưởng được sinh từ
thời đại dân chủ đại diện) vàsự nổi lên của các phong cách mang tính đối kháng và
‘gotcha-đánh bẫy’ của nghề làm báo thương mạibị thúc đẩy bởi các sự đánh giá, sự
bán hàng và các vụ bê bối. Các nhân tố kỹ thuật, như bộ nhớ điện tử, sự sắp
kênh sít hơn, sự phân bổ tần số mới, sự phát trực tiếp từ vệ tinh, sự chỉnh số
và các kỹ thuật nén tiên tiến, cũng đã quan trọng. Nhân tố chính trong số nhân
tố kỹ thuật này là sự đến của truyền thông máy tính hoá được kết nối qua cáp và
vệ tinh, mà từ cuối các năm 1960 đã gây ra các sự đổi mới cả sản phẩm lẫn quá
trình trong hầu như mọi lĩnh vực của media ngày càng bị thương mại hoá. Thiên
hà media này đã không có tiền lệ lịch sử nào. Được tượng trưng bởi một trong
các thành phần cốt lõi của nó, Internet, nó là một hệ thống thế giới hoàn toàn
mới của các công cụ media chồng lấn và kết nối với nhau mà tích hợp văn bản, âm
thanh và hình ảnh và cho phép truyền thông xảy ra qua nhiều điểm người dùng, trong
thời gian được chọn, hoặc theo thời gian thực hay bị trễ, bên trong các mạng modular
vàcuối cùng toàn cầu,có giá phải chăng và có thể truy cập được bởi nhiều trăm
triệu người rải rác khắp thế giới.
Tất cả các định chế trong công việc
săm soi quyền lực dựa rất nhiều vào các đổi mới media này; nếu thiên hà mới của
sự thừa thãi truyền thông đột nhiên nổ tung, thì dân chủ giám sátsẽ không kéo
dài lâu. Dân chủ giám sátvà các mạng media số cư xử cứ như chúng là các trẻ
sinh đôi dính vào nhau. Nói điều này là không phải rơi vào cái bẫy cho rằng các
mạng truyền thông gắn với máy tính hình dung trước một thế giới không tưởng mới
tinh, một lễ hội của ‘các cộng đồng ảo’ sống tự túc trên biên cương điện tử, một
‘cuộc cách mạng cyber’ mang lại sự truy cập bình đẳng của tất cả các công dân tới
mọi media, bất cứ đâu và bất cứ lúc nào. Thời đại mới của sự thừa thãi truyền
thông thực tế tạo ra các hình thức khác nhau của sự suy đồi media:các sự thất vọng,
sự bất ổn định vàcác sự tự mâu thuẫn, chẳng hạn trong mở rộng các khoảng cách
quyền lực giữa người giàu truyền thông và người nghèo truyền thông, những người
có vẻ hầu như không cần đến với tư cách các nhà truyền thông, hay với tư cách
những người tiêu dùng các sản phẩm (Keane 2009b). Một đa số của dân số thế
giới là quá nghèo để tiến hành một cuộc gọi điện thoại; chỉ một thiểu số nhỏ có
truy cập Internet. Sự chia rẽ giữa những người giàu media vànghèo media làm tàn
rụi tất cả các nền dân chủ giám sát; nó mâu thuẫn với nguyên tắc cơ bản của
chúng rằng mọi công dân có quyền bình đẳng để truyền đạt ý kiến của họ, và cho
các đại diện được bầu và không được bầu một chuyến đi nhọc nhằn theo định kỳ.
Bất chấp các mâu thuẫn và thất vọng
gây lo ngại như vậy, có các thứ mới và quan trọng đang xảy ra về mặt chính trị
bên trong thiên hà cuộn xoáy của sự thừa thãi truyền thông. Đặc biệt nổi bật là
cách các lĩnh vực của ‘đời sống tư’ và ‘sự riêng tư’ và sự mặc cả bất lương ‘kín
đáo’ về quyền lực đã bị đặt vào thế phòng thủ. Các thế hệ quá khứ sẽ thấy toàn
bộ quá trình gây kinh ngạc trong quy mô toàn cầu và cường độ dân chủ của nó. Với
cái bấm lách tách của một camera, hay sự gõ nhẹ của một nút chuyển mạch, thế giớiriêng
tư đột ngột có thể biến thành công khai. Mọi thứ từ phòng ngủ đến phòng họp của
ban quản trị, bộ máy quan liêu và chiến trường, có vẻ sẵn sàng cho media vồ lấy.
Nhờ các câu chuyện được kể bởi nhà chuyên nghiệp và các nhà báo công dân, những
người hoạt động như các đại diện không được bầu của công chúng, thời đại này mà
trong đó các tin nhắn văn bản riêng tư bật lên một cách công khai, để tiết lộ sự
không trung thành hôn nhân vàbuộc một bộ trưởng của chính phủ phải từ chức.
Trong một thời đại mà trong đó các cameracầm tay hiệu Sony được sử dụng bởi các
phóng viên off-air, được biết đến như ‘các embed’, để dựng các video đang diễn
ra vàcác blognêu bật các ứng viên bầu cử được phát trực tiếp,không bị ngắt vàkhông
có kịch bản; và đấy là thời đại mà trong đó cảnh video chứng minh rằng các binh
lính ở các vùng chiến tranh đã hãm hiếp phụ nữ, đã khủng bố trẻ em và đã tra tấn
dân thường vô tội. Trong thời đại thừa thãi truyền thông, cuộc sống riêng tư của
các chính trị gia được bầu và các đại diện không được bầu (và trong trường hợp
của những người nổi danh thì các cuộc lãng mạn, các buổi tiệc, sức khoẻ, các
thói quen ma tuý, các cuộc cãi cọ và ly hôn của họ) là các điểm tán chuyện tiềm
năng cho hàng triệu người. Vànhờ các talk show, các blogvàcác hoạt động media khác,
có một cuộc diễu hành vô tận của ‘các dân thường’ tán chuyện công khai về các nỗi
sợ, các ý nghĩ kỳ quặc, các hy vọng và các kỳ vọng riêng của họ. Vài trong số họ
đôi khi đủ may mắn để biến thành các ngôi sao media, nhờ các cuộc bầu được bắt
chước, mà trong đó các khán thính giả được các công ty media cấp cho một ‘phiếu
bầu’ thôi thúc để trao sự ưa thích hơn của họ cho ngôi sao được lựa chọn của họ,
qua sự hoan hô nhiệt liệt, điện thoại di động hay Internet.
Được giúp đỡ bởi nghề báo thương
mại hấp dẫn mà dựa vào phong cách tường thuật quan tâm ít đến tính chân thực
hơn đến‘tin sốt’ và các tin riêng rất thành công, sự thừa thãi truyền thông cắt,
giống con giao cắt vào các mối quan hệ quyền lực của chính phủ vàxã hội dân sự.
Là dễ để phàn nàn về các phương pháp của nghề báo mới. Nó săn theo bầy, nó để mắt
đến các tin xấu,bị thúc giục bởi phòng tin tức nói rằng các sự thực phải chẳng
bao giờ được phép ngáng đường của các câu chuyện. Nó yêu sự kích thích, sử dụng
tin không truy được nguồn gốc, lấp đầy các lỗ trống tin tức – trong thời đạidân
chủ giám sát tin tức chẳng bao giờ ngủ – quay tin giật gân, và tập trung quá
nhiều vào cá tính, hơn là vào ngữ cảnh gắn với thời gian. Nghề làm báo mới mang
tính công thức vàtrở nên bị chán quá nhanh; và nó thích cúi đầu với quyền lực
công ty vàcác thông cáo báo chí của chính phủ. Nhưng các lời buộc tội này chỉ
là một nửa của câu chuyện. Vì bất chấp mọi thứ, nghề báo hấp dẫn, bây giờ được tăng
cường bởi sự tăng trưởng nhanh của các hình thức khác nhau của sự viết blogvà
nghề làm báo công dân, giúp giữ sống các sự không tưởng cũ về săm soi quyền lực,
về ‘quyền tự do thông tin’, ‘chính phủ trong ánh sáng mặt trời’ và‘minh bạch’ lớn
hơn trong việc ra các quyết định. Căn cứ vào việc quyền lực không bị kiểm soát
vẫn đè nặng lên đầu các công dân, nhờ nghề làm báo mới và các sáng chế giám sát
mới nên không ngạc nhiên rằng sự phản đối công khai các việc làm sai trái và
tham nhũng là việc tầm thường trong thời đạidân chủ giám sát. Dường như không
có sự chấm dứt nào của các vụ bê bối; và thậm chí có lúc khi các vụ bê bối, giống
các vụ động đất, động ầm ầm dưới chân của toàn bộ chính phủ.
Trong thời đạidân chủ giám sát, một
số vụ bê bối đã trở thành truyền thuyết, như tiếng om sòm công khai gây ra bởi
sự phát hiện vô ý về bằng chứng của việc bẻ khoá ăn trộm bí mật tại trụ sở Uỷ
Ban Bầu cử Quốc gia Đảng Dân chủ trong Khách sạn Watergate ở Washington DC, và
cơn lở tuyết sau đó của các sự kiện mà đã trở thành vụ Watergate, dẫn đến các
đe doạ phế truất và cuối cùng đến sự từ chức của Tổng thống Nixon ở Hoa Kỳ
(trong tháng Tám 1974). Bên kia Đại Tây dương, các vụ bê bối lớn đã gồm sự điều
tra toàn quốc của cảnh sát và các thẩm phán Ý về hệ thống sâu rộng của tham
nhũng chính trị được gọi tên là ‘bribesville-thành phố đút lót’ (Tangentopoli)
– một cuộc điều tra mà đã cấp năng lượng cho chiến dịch mani pulite(bàn
tay sạch bằng tiếng Ý) đã dẫn đến sự biến mất của nhiều đảng chính trịvà sự tự
tử của một số chính trị gia và nhà lãnh đạo công nghiệp sau khi tội lỗi của họ
được phơi bày. Cũng đã có sự từ chức của bộ trưởng ngoại giao Pháp vàsự thú nhận
của tổng thống Pháp trên truyền hình rằng các đặc vụ của cơ quan mật vụ Pháp (DGSE)
đã chịu trách nhiệm trong tháng Bảy 1985 về việc giết một nhà hoạt động
Greenpeacevàđánh bom tàu hỗ trợ của họ, tàu Rainbow Warrior, một tàu đã phải dẫn
đầu một đội yacht để phản đối Pháp thử vũ khí hạt nhân tại Đảo San Hô Mururoa ở
Thái Bình Dương. Và không được quên các sự nói dối trơ trẽn về sự tồn tại của
‘vũ khí huỷ diệt hàng loạt’ phịa ra bởi những người bảo vệ sự xâm lấn quân sự
tai hại vào Iraq trong các năm đầu của thế kỷ thứ hai mươi mốt.
Các vụ bê bối này và các vụ ‘-gate’ khác nhắc nhở chúng ta về một
vấn đề lưu niên đối mặt với dân chủ giám sát: Không thiếu các nỗ lực có tổ chức
của những kẻ hùng mạnh để thao túng nhân dân ở dưới chúng; và, vì thế, công việc
chính trị bẩn thỉu để lôi quyền lực từ bóng tối và tải nó lên, hay quăng nó vào
đèn halogen sáng chói của sự quảng cáo, vẫn hết sức quan trọng. Không ai nên bị
đùa để nghĩ rằng thế giớidân chủ giám sát, với nhiều định chế săm soi quyền lực
của nó, là một sân chơi bằng phẳng – một thiên đường của sự bình đẳng cơ hội giữa
tất cả các công dân của nó và các đại diện được bầu và không được bầu của họ. Sự
kết hợp của dân chủ giám sátvà sự thừa thãi truyền thông tuy vậy tạo ra dòng chảy
thường xuyên, một sự không nghỉ bất tận được dẫn dắt bởi các sự kết hợp phức tạp
của các người chơi tương tác khác nhau và các định chế, thường xuyên đẩy và kéo,
nhấc lên và kéo căng, đôi khi hoạt động cùng nhau, đôi khi chống lại nhau. Các
đại diện được bầu và không được bầu thông thường cố gắng để định rõ vàđể xác định
ai nhận được gì, khi nào và ra sao; nhưng những người được đại diện tận dụng lợi
thế của các công cụ săm soi quyền lực khác nhau, để theo dõi các đại diện của họ
– đôi khi với thành công gây ngạc nhiên. Động học của dân chủ giám sát như thế
không thể mô tả được bằng việc sử dụng các ẩn dụ không gian đơn giản được kế thừa
từ thờidân chủ đại diện. Nói về ‘chủ quyền’ của quốc hội, hay về chính quyền ‘địa
phương’ đối lại chính phủ ‘trung ương’, hay về những sự tranh giành giữa ‘các
nhóm áp lực’, các đảng chính trịvà các chính phủ, đúng là quá đơn giản. Về mặt
hình học chính trị, hệ thống dân chủ giám sát là cái gì đó khác và khác biệt: một
mạng lưới phức tạp của các cơ quan giám sát có quy mô khác nhau và ít nhiều phụ
thuộc lẫn nhau mà có tác động, nhờ sự thừa thãi truyền thông, của sự liên tục
khêu gợi các câu hỏi về ai được gì, ở đâu và như thế nào, cũng như đòi những
người thực hiện quyền lực có trách nhiệm giải trình công khai, dù họ ở đâu.Các
nền dân chủ giám sátđầy xung đột. Chính trị không teo đi.
Có cái gì hoàn toàn mới về toàn bộ
xu hướng. Từ các nguồn gốc của nó trong các cuộc tụ họp cổ xưa của Syria-Mesopotamia,
dân chủđã luôn luôn mở đường (cắt) qua thói quen và thành kiến và các thứ bậc của
quyền lực (Keane 2009a). Nó đã gây ra cảm giác rằng người dân có thể định hình và định
hình lại cuộc sống của họ như những người bình đẳng, và không ngạc nhiên nó đã
thường đưa sự chấn động vào thế giới. Trong thời đạidân chủ giám sát, sự săm
soi công khai liên tục đối với quyền lực bởi hàng loạt cơ quan giám sát có quy
mô khác nhau với các vết chân to và nhỏ làm cho nó là hình thức năng động nhất,
sôi nổi nhất của dân chủtừ trước tới nay. Nó thậm chí chứa các cơ quan (như mạng
lưới Kiểm toán Dân chủ và Minh bạch Quốc tế) chuyên môn hoá về cung cấp các sự
đánh giá công khai về chất lượng của các cơ chế săm soi quyền lực hiện tồn và mức
độ mà chúng đại diện chính đáng cho các lợi ích của các công dân. Các cơ quan
khác chuyên môn hoá về cách hướng các câu hỏi tới các chính phủ trên một dải rộng
các vấn đề, trải từ các hồ sơ nhân quyền, các kế hoạch sản xuất năng lượng của
chúng đến chất lượng nước uống của các thành phố của chúng. Các công ty tư nhân
bị tra hỏi về các dịch vụ và sản phẩm của chúng, các kế hoạch đầu tư của chúng,
chúng đối xử với nhân viên của mình thế nào,và quy mô của tác động của chúng đến
sinh quyển. Các whatdog [con chó (tổ chức) giám sát] và chó dẫn đường [guide
dog] và chó sủa [barking dog] liên tục làm việc, đòi trách nhiệm giải trình trước
dân lớn hơn đối với những người thực hành quyền lực. Những kẻ hùng mạnh vì thế
cảm thấy cái véo liên miên của những người không quyền lực.
Khi chúng làm công việc của mình
tốt, các cơ chế giám sát có nhiều tác dộng tích cực, trải từ sự cởi mở và công
bằng lớn hơn bên trong các thị trường vàsự huýt còi lên các quyết định ngu xuẩn
của chính phủ đến sự làm phong phú chung của sự thảo luận công khai và sự trao
quyền cho các công dân, hoặc thông qua các sơ đồ có ý nghĩa của việc tham gia
và bầu cử, hay bằng cho phép họ đồng nhất công khai với các đại diệnưa thích
không được bầu của họ, những người được kính trọng hay tôn kính một cách khác
nhau bởi vì sự sẵn sàng của họ để chia sẻ với công chúng về cơ sở của tài
chuyên môn, tính chất tinh thần, các thành tựu suốt đời của họ, sự dũng cảm của
họ khi đối mặt với đau khổ và các phẩm chất khác. Tất nhiên, sự giám sát quyền
lực của các đại diện được bầu và không được bầu này có thể là không có hiệu quả,
hay phản tác dụng. Các đợt vận động tịt ngòi hay được nhắm tồi; những kẻ nắm
quyền lực khéo tìm ra các kẽ hở và các cách từ chối hay đơn giản bỏ qua các nhà
phản biện của chúng. Có những lúc khi số đông công dân thấy các chiến lược giám
sát của các cá nhân, các tổ chứcvàcác mạng lưới quá rụt rè, hay bị lẫn lộn, hoặc
đơn giản không thích hợp với đời sống của họ như các người tiêu dùng, các công
nhân, các cha mẹ, dân cư cộng đồng và các công dân trẻ hơn và già hơn. Và có
các thời khắc nguy hiểm lớn – suy thoái toàn cầu sau-2007 là một thí dụ – khi các
cơ chế giám sáttỏ ra quá yếu hay không có khả năng để ngăn chặn các bệnh dịch của
các quyết định tồi, sự điên rồ mù quáng và sự hoảng loạn giữa các elite.
Bất chấp những sự thụt lùi như vậy,
các động lực học chính trị và ‘cảm giác’ tổng thểcủa các nền dân chủ giám sátlà
rất khác với thời đại dân chủ đại diện. Chính trị trong thời đạidân chủ giám
sát có một chất lượng ‘vi rút’ rõ rệt về nó. Các tranh cãi quyền lực được gây
ra bởi các cơ chế giám sát đi theo các con đường không ngờ và tới các đích đến
gây ngạc nhiên. Các nhóm sử dụng điện thoại di động, các bản tin (bulletin
boards), các nhóm tin (news groups), các wiki vàcác blog đôi khi tìm được cách,
bất chấp những khó khăn đáng kể, để ngăn trở công khai các chính trị gia, các đảng
và các quốc hội, hoặc thậm chí toàn bộ chính phủ. Các cơ quan giám sát quyền lực như Human
Rights Watch hoặcAmnesty International thường xuyên làm việc như thế, thường với
sự giúp đỡ từ các mạng lưới của những người ủng hộ. Nghĩ một lát về bất kể sự
tranh cãi công khai hiện thời nào mà thu hút sự chú ý rộng rãi: tin về các đường
nét của nó và các bình luận và các tranh luận về tầm quan trọng của nó thường
được tiếp âm bởi nhiều tổ chức săm soi quyền lực, lớn, vừa và nhỏ, ở nhiều vị
trí. Trong thế giớidân chủ giám sát, loại đó của hình mẫu được kết hình mắt cáo
– vi rút, được nối mạng – là điển hình, không phải ngoại lệ. Nó có các hệ luỵ
sâu sắc cho các định chế nhà nước-định khung của dân chủ đại diện cũ, thấy mình
ngày càng bị vướng víu vào các mạng lưới ‘dính’ của các định chế săm soi quyền
lựcmà thường đánh trúng mục tiêu của chúng, đôi khi từ khoảng cách xa, thường bằng
phương tiện của các hiệu ứng boomerang.
Trong thời đạidân chủ giám sát, mỗi
khi các thứ tiến triển tốt cho các nhà giám sát công độc lập,quyền lực độc đoán
không còn có thể ẩn náu thoải mái đằng sau các mặt nạ riêng; các quan hệ quyền
lực ở mọi nơi chịu các nỗ lực được tổ chức bởi một vài người, với sự giúp đỡ của
media, để nói cho những người khác – các công chúng có quy mô khác nhau – về
các vấn đề mà trước kia đã bị che giấu, ‘kín đáo’. Việc làm biến chất này của
quyền lực thường là một công việc lộn xộn, vànó thường được bao bọc trong sự cường
điệu, tất nhiên. Một số người cũng than phiền về các tác động của nó, như ‘quá
tải thông tin’ và ‘sự không tin cậy và ngời vực’ quá đáng, nhưng từ quan điểm của
dân chủ giám sát sự thừa thãi truyền thông có các hệ quả tích cực sau khi cân
nhắc kỹ. Bất chấp tất cả sự cường điệu và quay cuồng của nó, thiên hà media mớihích
nhẹ để kéo sự chú ý vàmở rộng tầm nhận thức của người dân. Nó kèm ý thức của họ
về chủ nghĩa đa nguyên vàthúc giục họ gánh vác trách nhiệm lớn hơn cho việc họ
giao thiệp thế nào, khi nào và vì sao. Những ngày khi người dân đã không có lựa
chọn nào ngoài việc nghe radio phổ hạn chế hay xem các chương trình TV một mình,
hay với gia đình họ – những ngày của dân chủ đại diệnvàphát thanh truyền hình
và giải trí hàng loạt cho đám đông – đã qua rồi. Cũng thế là những ngày khi
hàng triệu người, túm tụm với nhau như các đám đông trong bóng của quyền lực
toàn trị, thấy các buổi trình diễn radio và film được dàn dựng khéo léo của các
nhà mị dân là quyến rũ, và làm yên lòng (cũng đã qua).
Các nền dân chủ bão hoà-thông điệp,
ngược lại, khuyến khích sự nghi ngờ của người dân về quyền lực không có trách
nhiệm giải trình. Tất cả ngựa của nhà vua và tất cả người của nhà vua chắc
không đảo ngược xu hướng. Bên trong thế giới dân chủ giám sát, số ngày càng
đông người dân đang nhận ra rằng quyền lực không có trách nhiệm giải trình công
khai thường sinh ra sự xấc xược, dối trá, tham nhũng, các quyết định không hiệu
quả và không có hiệu lực (Flyvbjerg et al. 2003). Họ đang học rằng vì thế họ
phải để mắt đến quyền lực và các đại diện của nó, rằng họ phải đưa ra các phán
xét và lựa chọn các tiến trình hành động của riêng họ. Các công dân như thế được
xúi giục để nghĩ cho chính họ; để nhìn cùng thế giới theo những cách khác nhau,
từ các góc khác nhau;vàđể làm sắc ý thức tổng thể của họ rằng các mối quan hệ
quyền lực thịnh hành là không “tự nhiên’, mà là tuỳ thuộc.Sự thừa thãi truyền
thôngvàcác định chế giám sát kết hợp để thúc đẩy cái gì đó của một ‘chuyển mạch
Gestalt’ trong nhận thức phổ cập về quyền lực. Ý tưởng siêu hình về một ‘thực tế’
khách quan, ở-đó-trong-khoảng-cách đã bị yếu đi; cũng thế là giả định rằng ‘sự
thật có thực’ ngoan cường là cao hơn quyền lực. Sự phân biệt hư cấu giữa cái
người dân có thể thấy bằng mắt họ vàcái họ được bảo về quần áo mới của hoàng đế,
sụp đổ. ‘Thực tế’, kể cả ‘thực tế’ của những kẻ hùng mạnh, được hiểu luôn luôn
như ‘thực tế được tạo ra’, một vấn đề về diễn giải – và quyền lực để buộc các
diễn giải cá biệt về thế giớixuống dưới họng của những người khác.
Phải thú nhận chẳng có gì tự động
hay phép diệu kỳ về bất cứ cái nào trong số các tác động tích cực này. Trong thời
đạidân chủ giám sát, truyền thôngluôn luôn là chủ đề của sự che giấu động cơ, sự
thương lượng, sự thoả hiệp và các xung đột quyền lực, theo một cách nói, là một
vấn đề chính trị. Sự thừa thãi truyền thông vì lý do đó không đảm bảo sự thắng
lợi của hoặc tinh thần hay các định chế của dân chủ giám sát bằng cách nào đó một
cách tự động. Các xã hội bão hoà thông điệp có thể và có các tác động mà có hại
cho dân chủ. Ở một số nơi, chẳng hạn, sự bão hoà media gây ra sự không chú ý của
công dân đến các sự kiện.Trong khi họ được kỳ vọng như các công dân tốt để để mắt
tới công việc chung, để quan tâm đến thế giớivượt quá hộ gia đình và láng giềng
trực tiếp của họ, không ít người thấy càng ngày càng khó hơn để chú ý đến sự đổ
tràn bao la của media. Sự thừa thãi sinh ra sự lẫn lộn. Có nhữnglúc,chẳng hạn
khi các cử tri bị một tràng quảng cáo bầu cử giáng tới tấp trong thời gian vàng
của truyền hình đến mức họ phản ứng một cách lạnh nhạt. Bất bình, họ đứng lên
khỏi sofa, ra khỏi phòng khách, thay đổi kênh, hay tắt tiếng, kết thúc với một
tiếng thở dài rằng bạn biết càng ít, càng tốt cho bạn. Chỉ vài bước từ đó đến
cái gì đó gây lo ngại hơn: sự lan truyền không chủ tâm của một văn hoá thờ ơ
không suy nghĩ kỹ. Dân chủ giám sát chắc chắn sống bằng sự thừa thãi truyền
thông, nhưng một trong các tác động tai ác hơn của nó là để cổ vũ các cá nhân
trốn thoát sự phức tạp lớn của thế giới bằng việc cắm đầu họ vào cát của sự ngu
dốt cố ý, hay để trôi nổi một cách vô liêm sỉ trên thuỷ triều và sóng cuộn và
xoáy lốc của thời trang – để thay đổi đầu óc họ, để nói và hành động một cách
khiếm nhã, để đi theo hoặc thậm chí ca tụng những điều ngược lại, để chào tạm
biệt tính chân thực, để trượt vào cánh tay của cái một vài người gọi một cách
thận trọng là ‘chuyện nhảm nhí’ (Frankfurt 2005).
Các ảo tưởng ngu xuẩn, sự vô liêm
sỉ và sự bất mãn là trong số các cám dỗ lớn nhất đối mặt các công dân và các đại
diện được bầu và không được bầu của họ. Dù dân chủ giám sátsẽ có sống sót hay
không, về các tác động chí tử của nó hãy để tương lai nói cho chúng ta.
Tài liệu
tham khảo
Dunn,
J. (2010) ‘Democracy and its discontents’, The National Interest 106
(March–April).
Eco,
U. (1999) Kant and the platypus: Essays on language and cognition.
London: Secker and Warburg.
Flyvbjerg,
B., N. Bruzelius and W. Rothengatter (2003) Megaprojects
and risk: An anatomy of ambition. Cambridge and New York: Cambridge
University Press.
Frankfurt,
H. G. (2005) On bullshit. Princeton and Oxford: Princeton
University Press.
Fung,
A. and E. O. Wright (2003) ‘Thinking about empowered
participatory governance’, in A. Fung and E. O. Wright, Deepening
democracy: Institutional innovations in empowered participatory governance.
London and New York: Verso, pp. 3–42.
Hayek,
F. von (1979) Law, legislation and liberty: The political order of a
free people. London and Henley: Routledge.
Keane,
J. (2009a) The life and death of democracy. London: Simon
& Schuster.
Keane,
J. (2009b) Media decadence and democracy. Senate Occasional
Lecture. Canberra: Parliament of Australia.
Rosanvallon,
P. (2008) Counter-democracy: Politics in an age of distrust.
Cambridge and New York: Cambridge University Press.
[1] Monitory Democracy? Chương 9 của cuốn The Future of Representative Democracy do Sonia Alfonso, John Keane
và Wolfgang Merkel biên tập, Cambridge University Press, 2011. Nguyễn Quang A dịch.