Thể chế nào phù hợp cho Việt Nam
Trần Trương Sa
Sau nhiều
năm nghiên cứu đặc tính của dân tộc và xã hội Việt Nam tôi thấy rằng người Việt
có một số tính cách như sau khi tham gia bầu cử :
1. Phần lớn cử tri chọn lựa ƯCV bằng tình cảm của con tim
(yêu-ghét, tốt-xấu).
2. Ít cử
tri đủ năng lực đánh giá cụ thể xã hội đang cần gì ; ƯCV nào có khả năng giải
quyết những vấn đề đó; ƯCV nào phù hợp trong vai trò hành pháp hay lập pháp.
3. Nhiều cử
tri xem việc đi bầu như là một nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện cho xong (đây
là hậu quả của chế độ “dân chủ bề ngoài” dưới sự lảnh đạo độc tôn của đảng cộng
sản).
4. Tình trạng
mua phiếu cũng có nhiều tiềm năng xảy ra.
Cho nên,
tôi đề xuất một số đặc điểm cần có trong bầu cử để thiết lập nhà nước như sau :
1. Không bắt
buộc cử tri đi bầu. Tỷ lệ số phiếu chỉ tính trên số cử tri đi bầu.
2. Không được
phép vận động trực tiếp “từng” cử tri đi bầu. Chỉ được vận động chung toàn thể
cử tri trên các phương tiện truyền thông. Chỉ đưa hòm phiếu phục vụ tận nơi cho
cử tri khi có yêu cầu trực tiếp của cử tri đó.
3. Số lần
toàn dân tham gia bầu cử nên giãm đến mức thấp.
Qua tìm hiểu
các thể chế dân chủ đã được áp dụng trên thế giới, để phù hợp với dân tộc tính
và tình hình xã hội dân chủ quá non trẻ, tôi đề xuất một thể chế chính trị như
sau :
1.
Thể chế “Bán tổng thống – nữa đại nghị”
: Sở dĩ gọi tên như thế
là vì trong thể chế này người dân xây dựng hai cơ quan hành pháp độc lập. Thủ
tướng không do Tổng thống chỉ định - Quốc hội thông qua mà Thủ tướng do Quốc hội
bầu ra - Tổng thống phê chuẩn.
Những người
tham gia cơ quan hành pháp hoặc tư pháp bắt buộc phải rời khỏi cơ quan lập
pháp.
Tổng thống là người đứng đầu quốc gia về mặt danh nghĩa. Đồng
thời Tổng thống là người đứng đầu cơ quan hành pháp thứ nhất được gọi là Phủ Tổng thống. Phủ Tổng thống bao gồm
ba tổng : Tổng Ngoại giao, Tổng Quốc phòng và Tổng tiền tệ (Tổng trưởng tiền tệ
đồng thời là Thống đốc Ngân hàng nhà nước).
Tổng thống
(kèm theo 1 Phó Tổng thống) do toàn dân bầu ra.
Thủ tướng là người đứng đầu cơ quan hành pháp thứ hai được
gọi là Chính phủ. Chính phủ bao gồm
các Bộ cần thiết (không có Bộ ngoại giao, bộ Quốc phòng và Ngân hàng nhà nước).
Thủ tướng
(kèm theo 1 Phó Thủ tướng) do Quốc hội bầu ra.
2. Dân chỉ bầu trực tiếp “Đại biểu nhân dân” (có thể gọi là Đại cử tri). Người dân chỉ
đi bầu 4 năm một lần bao gồm: Bầu Tổng thống và bầu Đại biểu nhân dân.
Tất cả các cuộc bầu cử (dân bầu trực tiếp hoặc đại
biểu bầu) đều có thể phải trải qua hai vòng nếu ở vòng một ƯCV không đạt được số
phiếu quá bán (số cử tri đi bầu hoặc số đại biểu)
Người nào
tham gia cơ quan hành pháp hoặc tư pháp thì phải từ bỏ vai trò Đại biểu nhân
dân.
Đơn vị cơ sở
xây dựng Hội đồng Đại biểu nhân dân là cấp Quận, Huyện. Số lượng đại biểu nhân
dân chiếm chừng 1-2 phần ngàn dân số (tỷ lệ những nơi thưa dân phải cao hơn nơi
đông dân). Đại biểu nhân dân không hưởng lương, chỉ nhận công tác phí khi tham
gia bầu cử.
Mỗi Quận,
Huyện nên có khoảng 5-10 phần trăm Đại biểu nhân dân dự khuyết để Hội đồng Đại
biểu nhân dân bầu bổ sung vào vị trí chính thức khi có sự khiếm khuyết trong hội
đồng.
Hội đồng Đại
biểu nhân dân các Quận, Huyện trong tỉnh, thành phố hợp thành Hội đồng Đại biểu
nhân dân tỉnh, thành phố. Hội đồng Đại biểu nhân dân các Quận, Huyện trong cả
nước hợp thành Hội đồng Đại biểu nhân dân quốc gia.
Lưu ý rằng “Hội đồng Đại biểu nhân dân” chỉ là tập
hợp các Đại cử tri chứ không phải là cơ quan dân cử. Đại biểu nhân dân tham gia
bầu cử là bắt buộc.
3. Xây dựng chính quyền dân cử cấp Quốc gia.
Hội đồng Đại
biểu nhân dân quốc gia bầu ra
- Nghị viện (Thượng nghị viện) gồm 96 nghị sĩ chính thức và 12 nghị sĩ dự
khuyết. Các ƯCV ra tranh cử theo liên danh. Mỗi liên danh có 8 ứng viên chính
thức và 1 ứng viên dự khuyết. Các Đại biểu nhân dân bầu chọn 12 liên danh.
Hội đồng Đại
biểu nhân dân cấp tỉnh bầu ra
- Một số lượng
dân biểu (theo luật định) đại diện cho cử tri tỉnh
mình để tham gia vào Dân viện (Hạ
nghị viện).
Các ƯCV nghị
sĩ hoặc dân biểu phải là Đại biểu nhân dân.
Nghị viện
và Dân viện hợp thành Quốc hội.
Quốc hội là
cơ quan dân cử thường trực có hưởng lương. Quốc hội bầu ra :
- Thủ tướng
(kèm theo 1 Phó Thủ tướng); thông qua các chức danh Bộ trưởng (kèm theo 1 thứ
trưởng) do Thủ tướng đề cử. Quốc hội có quyền bãi nhiệm các chức danh này.
- Hội đồng
thẩm phán tối cao. Các ứng cử viên phải có trình độ luật học nhất định (do hiến
pháp quy định). Nhiệm kỳ thẩm phán tối cao là suốt đời. Thẩm phán chỉ rời vị
trí khi chết, mất tích …hoặc được bầu vào các vị trí khác hoặc từ chức hoặc bị
phế truất (Quốc hội bỏ phiếu).
- Quốc hội
có quyền triệu tập Hội đồng Đại biểu nhân dân quốc gia để bỏ phiếu biểu quyết
các vấn đề hệ trọng của Quốc gia (xem như trưng cầu dân ý) hoặc truất phế Tổng
thống, Phó Tổng thống, Tổng trưởng, Phó Tổng trưởng nếu đương sự bị Hội đồng thẩm
phán tối cao luận tội.
4. Xây dựng chính quyền dân cử cấp tỉnh, thành.
Hội đồng Đại
biểu nhân dân cấp tỉnh bầu ra
- Tỉnh,
Thành trưởng (kèm theo 1 phó).
Hội đồng Đại
biểu nhân dân quận, huyện bầu ra :
- Một số lượng
nghị viên (theo luật định) tham gia
vào Hội đồng nhân dân tỉnh, thành. Các ƯCV nghị viên phải là Đại biểu nhân dân.
Hội đồng
nhân dân tỉnh, thành là cơ quan dân cử thường trực có hưởng lương. Hội đồng
nhân dân tỉnh, thành bầu ra :
- Hội đồng
thẩm phán tỉnh, thành. Các ứng cử viên phải có trình độ luật học nhất định (do
hiến pháp quy định). Nhiệm kỳ thẩm phán là suốt đời. Thẩm phán chỉ rời vị trí
khi chết, mất tích …hoặc được bầu vào các vị trí khác hoặc từ chức hoặc bị phế
truất (Hội đồng nhân dân tỉnh, thành bỏ phiếu).
- Hội đồng
nhân dân tỉnh, thành có quyền triệu tập Hội đồng Đại biểu nhân dân cấp tỉnh để
bỏ phiếu biểu quyết các vấn đề hệ trọng của tỉnh có nhiều ý kiến trái chiều hoặc
bãi nhiệm Tỉnh, Thành trưởng; Phó Tỉnh, Thành trưởng .
- Hội đồng
nhân dân tỉnh, thành thông qua các chức danh Sở trưởng (kèm theo 1 phó) do Tỉnh,
Thành trưởng đề nghị và có quyền bãi nhiệm các chức danh này.
5. Xây dựng chính quyền dân cử cấp địa phương.
Hội đồng Đại
biểu nhân dân quận, huyện bầu ra :
- Quận, Huyện
trưởng (kèm theo 1 phó). Các ƯCV các chức danh này phải ra ứng cử cùng lúc với
các đại biểu nhân dân (không ứng cử cùng lúc cả 2 chức danh Đại biểu nhân dân
và Quận, Huyện trưởng).
- Hội đồng
thẩm phán quận, huyện. Các ứng cử viên phải có trình độ luật học nhất định (do
hiến pháp quy định). Nhiệm kỳ thẩm phán là suốt đời. Thẩm phán chỉ rời vị trí
khi chết, mất tích …hoặc được bầu vào các vị trí khác hoặc từ chức hoặc bị phế
truất (Hội đồng Đại biểu nhân dân quận, huyện bỏ phiếu).
- Hội đồng
nhân dân quận, huyện (khoảng 10-15 ủy viên). Các ƯCV phải là Ủy viên nhân dân của
đơn vị. Đây là cơ quan dân cử địa phương có hưởng lương.
- Hội đồng
nhân dân quận, huyện cử từ các ủy viên nhân dân khác: một (hoặc hai) ủy viên
nhân dân cho mỗi phường, xã (có hưởng lương thường xuyên).
- Hội đồng
nhân dân quận, huyện thông qua : việc bổ nhiệm một ủy viên pháp lý cho mỗi phường,
xã do Hội đồng thẩm phán quận, huyện đề cử; một Phường, Xã trưởng (kèm theo 1
phó) cho mỗi phường, xã do Quận, Huyện trưởng đề cử. Hội đồng nhân dân quận,
huyện có quyền bãi nhiệm các chức danh này.
- Hội đồng
nhân dân quận, huyện có quyền triệu tập Hội đồng Đại biểu nhân dân quận, huyện
để bỏ phiếu biểu quyết những vấn đề hệ trọng của địa phương có nhiều ý kiến
trái chiều; bỏ phiếu bầu bổ sung hoặc phế truất một số chức danh dân cử.