Ông Vương Trí Nhàn |
Vương Trí Nhàn: "Văn học hiện nay đơn điệu tẻ nhạt. Nó đang trong giai đoạn cuối của một nền văn học trung cổ theo nguyên tắc “văn dĩ tải đạo”. Trên nhiều phương diện, nó như còn tồn tại theo kiểu văn học dân gian. Mà lại là cái dân gian thoái hóa, nhập với văn hóa đại chúng của xã hội hiện đại. Gọi tên cái thực tế văn học ngổn ngang này không phải dễ, giới nghiên cứu còn đang bất lực trong việc lý giải nó.
Tôi cũng không đồng ý với ông ở chỗ người nghiên cứu văn học phải lảng tránh trước các vấn đề nhạy cảm."
PV:
Trong giới nghiên cứu, người ta thường nói tới ông như một người chuyển từ phê
bình văn học sang cái mà tôi tạm gọi là phê bình văn hóa.Ông nghĩ sao về những
nhận xét loại đó.
Vương
Trí Nhàn: Chính tôi cũng thấy như thế. Chỉ lưu ý thêm hai điểm.
Một là chữ phê bình ở đây phải được hiểu theo nghĩa rộng. Phê bình
tuy là bám theo thời sự nhưng phải đi tới những khái quát lý thuyết cơ bản. Phê
bình viết ngay về các hiện tượng tươi sống nhưng lại phải dựa chắc vào nghiên
cứu lâu dài. Và thứ nữa là tôi đang làm song song cả hai. Trong văn học tạm gọi
là chuyên nghiệp. Còn trong văn hóa là “tự do” với nghĩa một công việc tự lựa
chọn, tự đào tạo, tay trái, nghiệp dư.
PV: Nhìn
vào tình hình phê bình văn học tôi thấy nó ngày càng khó. Đời sống văn học hiện
ra vô cùng vô tận, phong phú và phức tạp, và có thể nói là “nhạy cảm” hơn, đòi
hỏi người phê bình phải cố gắng nhiều mặt.
Vương Trí
Nhàn: Ở chỗ này tôi xin phép không đồng ý với ông. Văn học hiện
nay đơn điệu tẻ nhạt. Nó đang trong giai đoạn cuối của một nền văn học trung cổ
theo nguyên tắc “văn dĩ tải đạo”. Trên nhiều phương diện, nó như còn tồn tại
theo kiểu văn học dân gian. Mà lại là cái dân gian thoái hóa, nhập với văn hóa
đại chúng của xã hội hiện đại. Gọi tên cái thực tế văn học ngổn ngang này không
phải dễ, giới nghiên cứu còn đang bất lực trong việc lý giải nó.
Tôi cũng
không đồng ý với ông ở chỗ người nghiên cứu văn học phải lảng tránh trước các
vấn đề nhạy cảm. Không đồng ý ở hai khía cạnh:
1/Yêu cầu chủ
yếu với người nghiên cứu là phải bảo đảm tính khách quan, tính khoa học. Chỉ có
các quan chức, vì phải làm việc với bộ máy của mình, mới cần lưu ý tới tính
nhạy cảm như cái nghĩa mà tất cả chúng ta hiện nay đều hiểu.
2/ Riêng ở ta
thời gian gần đây, rất nhiều người lại hô lên rằng một tiêu chuẩn là trí thức
là phải phản biện. Cho phép tôi nghĩ khác. Trí thức chỉ có trách nhiệm nghiên
cứu thuần túy. Khi anh bước sang lĩnh vực phản biện tức anh đã đi vào hành
động, hoặc nói theo ngôn ngữ thời nay, là anh trở thành một chiến sĩ đấu tranh
cho một mục tiêu xã hội nào đó. Anh cần sự nhạy cảm để tự bảo vệ. Nhưng không
vì thế mà coi nhạy cảm là yêu cầu bắt buộc với mọi trí thức nói chung.
PV: Một
lý do khác khiến cho người viết phê bình văn học khó khăn: chúng
ta đang phải đối diện với nhiều hệ thống lý thuyết văn học khác
nhau. Cả giới sáng tác lẫn giới phê bình cùng băn khoăn khi chọn lựa nên
bám/dựa vào lý thuyết nào cho phù hợp và đắc dụng.
Vương Trí
Nhàn: Nhiều người trong giới nghiên cứu ở nước ta, những nhà
hàn lâm nửa mùa đang ngợp trước lý luận và chỉ lo viết để minh họa cho lý luận
mà họ học được ở các trường đại học ngoại quốc. Do xuất phát từ đời sống văn
học nên tôi không bị ngợp. Tôi chỉ sử dụng các lý luận khi thấy cần và lúc nào
cũng tiến hành song song. Trong khi nghiên cứu thực tiễn thấy cần thì học thêm
lý luận; trong khi tìm hiểu lý luận thấy có cái gì thích hợp với Việt Nam liền
lo áp dụng thử xem; áp dụng cái này nhưng vẫn tìm cách tiếp cận với cả những
cái khác. Tôi luôn bị ám ảnh bởi câu nói đại ý “thế giới này quá phức tạp; phải
dùng tới nhiều công cụ khác nhau mới hiểu được nó”.
PV: Ý ông
muốn nói quá trình chuyển từ phê bình văn học sang phê bình văn
hóa cũng là một bước phiêu lưu?
Vương
Trí Nhàn: Quả có vậy. Trong một bài giới thiệu lý luận về tiểu thuyết
của Trung quốc, nhà nghiên cứu Phạm Tú Châu có giới thiệu khái niệm “dã sinh”
vốn chỉ phổ biến ở Trung quốc. “Tiểu thuyết phải dã sinh”, tức tiểu thuyết –
cũng như văn học nói chung -- phải là một thứ con hoang năm cha ba mẹ, không
chịu ảnh hưởng của một lý luận nào duy nhất.
Thì cũng
chính là do thói quen tạm gọi là dã sinh này mà khi tìm đọc văn học tôi xoay xở
đủ cả văn học đương đại lẫn văn học tiền chiến, văn học cổ VN, rồi văn học Nga
văn học Trung quốc sau 1976. Ngoài ra là các sách khoa học xã hội khác như lịch
sử, dân tộc học, xã hội học…và tất nhiên là văn hóa trong sự phát triển lịch sử
của nó.
Tôi lấy một
ví dụ. Một hai chục năm gần đây, người ta chú ý rất nhiều tới Phan
Khôi. Nhưng người ta xem xét ông, ca ngợi ông, định vị ông bằng những thước đo
thường dùng với người viết văn, người nghiên cứu hôm nay. Với tôi muốn nghiên
cứu một người viết uyên thâm lịch lãm như Phan Khôi mà không biết gì về văn hóa
triết học Trung quốc cổ, rồi sự tiếp nhận phương Tây của nước Trung Hoa cuối
thế kỷ XIX đầu XX, thì làm sao mà hiểu nổi cả thế hệ nhà nho cuối cùng như ông,
từ đó phân tích mổ xẻ đánh giá ông chính xác.
Ý tôi muốn
nói Phan Khôi là loại tác giả thích hợp nhất để chứng minh rằng phê bình văn
học phải ngả sang phê bình văn hóa học. Nó là một trong những khuynh hướng vốn
có của nghiên cứu văn học ở Đông cũng như ở Tây. Chỉ ở nước Nga của Stalin và ở
nước Tầu của Mao Trạch Đông, mới có loại nhà nghiên cứu văn học chỉ biết mỗi
văn học và chỉ xác lập mối quan hệ giữa văn học với tư tưởng mà thôi.
Trở lại
trường hợp của bản thân. Từ chỗ dã sinh, như tôi vừa nói, chỉ cần “tìm hoa quá
bước” một chút là tôi đã chuyển sang phê bình văn hóa rồi.
PV: Đấy
là sự chuẩn bị trong đầu óc. Còn trong thực tế công việc?
Vương
Trí Nhàn: Từ khoảng 1982, bên Thông tấn xã VN cho ra tờ Thể
thao và văn hóa, với hai anh Hữu Vinh và Hà Vinh làm nòng cốt. Các anh ở
đấy vốn rất thạo về văn hóa phương Tây. Khi rủ tôi làm, các anh cho
phép tôi được viết về văn học theo cách của mình, bằng thứ ngôn ngữ
báo chí hiện đại mà tôi học được qua các bài các anh dịch hoặc viết lại từ báo
chí nước ngoài
Mấy năm
đầu, làm với TT&VH tôi chỉ giữ trang văn học. Chợt xảy ra một sự kiện. Từ
năm 1991, bên Viện khoa học xã hội được nhà nước giao cho làm
một chương trình nghiên cứu về văn hóa, trong đó có đề tài Đề cương văn
hóa Việt nam trong giai đoạn mới (KX 04-17).Nhà văn Tô Hoài được phân công
quản đề tài này. Ông chọn Hoàng Ngọc Hiến, Ngọc Trai và tôi làm chân rết. Trong
thời gian làm thư ký cho đề tài này, tôi có dịp đọc khá rộng từ lý luận văn hóa
nói chung tới các công trình nghiên cứu về văn hóa VN trước đây. Bản
thân tôi đã viết được một tiểu luận hơn trăm trang đánh máy mang tên Sơ
bộ tìm hiểu di sản văn hóa Việt Nam (đã đưa lên trang blog của tôi).
Sẵn các tri
thức tích lũy được từ thời gian làm việc trong nhóm của ông Tô Hoài, lại được
các anh ở báo TT& VH cổ vũ, -- nói theo ngôn ngữ trong nghề là “có tờ báo
trong tay” – tôi mạnh dạn xông ra viết các bài phiếm luận về văn hóa, ngoài
TT&VH gửi đăng cả trên Tuổi trẻ, Nông thôn ngày nay , Người đại
biểu nhân dân, Thời báo kinh tế Sài gòn … và sau này đã tập hợp lại
một phần trong hai cuốn sáchNhân nào quả ấy (2002) và Những
chấn thương tâm lý hiện đại(2009).
PV: Các
bài viết trong mục Thói hư tật xấu người Việt cũng được hình
thành trong thời gian này?
Vương Trí Nhàn: Đúng thế. Khi
viết riêng về các nhà văn, tôi đã mang tiếng là chỉ thạo về việc nhìn ra thói
xấu của con người. Khi nhìn chung ra cả xã hội, tôi cũng cứ chứng nào tật ấy.
Thế thì làm sao mà dám đi vào nghiên cứu văn hóa như tôi định làm.
May quá một
lần, tôi tìm được những gợi ý.
Trong khi ước
ao đi tới một sự khái quát về văn hóa VN, ngoài việc đọc lý luận chay, tôi
thường tìm đọc các cuốn lịch sử văn hóa nước ngoài, lấy đó là mẫu để
học theo. Có một điều thú vị là mở đầu các cuốn lịch sử văn hóa ấy, các tác giả
ngoại quốc thường dành khá nhiều tâm lực cho việc trình bày lý luận chung về
văn hóa và ở đó tôi tìm được điểm tựa cho các lý lẽ mà tôi mới chỉ nhận biết
theo cảm tính. Lần ấy tôi tìm được cuốn Đại cương lịch sử văn hóa
Trung Quốc Ngô Vĩnh Chính và Vương Miện Quý chủ biên, Lương Duy
Thứ và các đồng sự VN lo việc dịch ra tiếng Việt , nxb Văn hóa—thông
tin H.2004. Ở bộ ssch này, tôi đọc được cả một chương mang
tên Tinh hoa và căn bã của văn hóa Trung quốc, trong
đó nêu lên một khái quát: “Đương nhiên văn hóa Trung quốc có mặt ưu tú nhưng
cũng có mặt lạc hậu thậm chí thủ cựu thối nát.” (Sđd tr 22). Trong
phần viết về ảnh hưởng của triết lý tới dân tình, phong
tục, các tác giả này có đoạn viết liên quan tới toàn bộ tính cách dân
tộc Trung Hoa: Tinh thần nhân văn thành thục quá sớm của triết học cổ đại
Trung Quốc, sự lan tràn của luân lý đạo đức, cách nhấn mạnh quá đáng tới sự hài
hòa và trung dung, tất cả những đặc điểm đó cũng đem lại nhiều ảnh hưởng tiêu
cực cho dân tộc ví như thiếu tinh thần mạo hiểm, vượt khó, năng lực tự lập tự
giải quyết mọi việc thấp kém, tập quán tư duy thiên về hình như thượng [một
thuật ngữ nay ít dùng; thời trước nó được xem là tương đương với khái niệm siêu
hình học], các quan niệm truyền thống mang tính tuần hoàn phong bế… Rồi sự
hình thành tính cách dân tộc nội khuynh, bảo thủ thuận tòng, không tranh
đấu…Những điều đó cần thẳng thắn nhìn nhận (sđd, tr 83).
Từ lúc nhồi
được cái thứ đó vào đầu, tôi thêm cả quyết dành hẳn một phần công việc cho mục
thói hư tật xấu.
PV: Tức
là ông đã được giải phóng về mặt tư tưởng.
Vương Trí
Nhàn: Tôi cũng định nói như vậy. Nên nhớ là tôi đi vào con
đường nghiên cứu văn hóa một cách nghiệp dư. Phần lớn các nhà nghiên cứu hiện
thời thiên về tìm cách nói một chiều, nói tốt, nói theo hướng ca
ngợi hết lời đối với văn hóa VN. Hóa ra họ chỉ minh họa các ý tưởng mà người ta
đặt hàng cho họ. Do không bị bó buộc vào một nhiệm vụ nào được giao – đúng ra
là không kiếm sống, kiếm danh vị và lợi lộc từ công tác nghiên cứu, tôi cảm
thấy mình có được chút tự do tối thiểu. Nhưng tôi vẫn bị cái lý luận chính
thống về văn hóa đương thời chi phối. Nhờ nhìn rộng ra các nền văn hóa khác và tìm
được những cơ sở lý luận khác, tôi mới thực sự tự do với nghĩa đi
trên một con đường riêng tôi thấy đúng đắn nhất.
PV: Tôi
nhớ lúc đầu ông đã bị ăn đòn vì loạt bài thói hư tật xấu này.
Vương Trí
Nhàn:Về chuyện bị đám đông ném đá thì không nói là gì. Tôi còn
bị cả bạn bè chê bai, hiềm khích, bác bỏ.
Tôi nhớ
khoảng những năm 90, đọc các phác thảo của một người nay trở thành giáo sư đầu
ngành của giới nghiên cứu văn hóa, tôi có bảo với ông mấy ý:
* chỗ
kiểm tra để biết một hướng nghiên cứu có đúng hay không là đối chiếu nó với
thực tiễn.
* bởi lẽ văn
hóa là cái làm nên nội lực của một cộng đồng, cho nên, với bức tranh văn hóa
như anh miêu tả, thì tôi nghĩ là dân VN sẽ không có một cuộc sống khó khăn bế
tắc như hiện nay.
* Anh cho
phép tôi đi tới cùng của sự suy nghĩ nhá. Với một dân tình như hiện nay bức
tranh văn hóa mà anh vẽ ra thậm chí có tác dụng ru ngủ họ, làm hại họ. Nghĩa là
nguy hiểm cơ đấy.
Ông ta giận
tôi lắm. Sau khi gọi điện xỉ vả tôi là dân nghiên cứu nghiệp dư mà đã ti
toe, không đọc nhiều sách bằng ông nên không thể nói liều …, không
bao giờ ông muốn nhìn mặt tôi nữa.
PV: Theo
ông, cái đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ của phê bình văn hóa nên xác định như thế
nào?
Vương Trí
Nhàn: Hồi đầu cách mạng ta có Hội văn hóa Cứu quốc, tập hợp mọi
trí thức khoa học xã hội và tự nhiên trong đó có các nhà văn nghệ. Tới 1948,
Hội này còn mở Đại hội lần II. Nhưng sau đó Hội Văn hóa này -- nghe nói là
thuộc quyền ông Trần Huy Liệu - gần như tự giải tán. Trong bàn tay
lèo lái của ông Tố Hữu, văn học và các ngành nghệ thuật khác tách ra thành Hội
Văn nghệ VN sau đó thành các Hội riêng. Trên thực tế, văn học bị tách ra khỏi
khối văn hóa mà đặt trọng tâm vào việc làm công tác tư tưởng. Lâu
dần, chất tư tưởng át đi cả văn hóa. Mà việc nghiên cứu tổng quát về văn hóa sau
này có được tổ chức thì cũng quá yếu ớt.
Thành
ra người nghiên cứu văn hóa hiện nay như đứng trước một cánh đồng hoang. Tôi
chỉ là một cá nhân đơn thương độc mã trên đường, không chịu trách nhiệm với ai,
vả chăng cũng đang mầy mò, nên chẳng biết nói gì ngay về những cái gọi là đối
tượng, phạm vi, nhiệm vụ mà ở trên ông đặt câu hỏi. Chỉ biết rằng từ
lịch sử văn hóa tới mối quan hệ văn hóa VN và nước ngoài, từ phong tục tập quán
văn chương nghệ thuật tới các vấn đề chính trị xã hội …chả cái gì mà tôi thấy
không cần thiết cả. Chắc là ông không thể ngờ là trong nhiều cuốn nghiên cứu
văn hóa từng quốc gia, từng cộng đồng riêng, tôi thấy người ta đều dành rất
nhiều giấy mực cho việc tổ chức xã hội, việc quản lý quốc gia…Làm sao mà bây
giờ tôi lại dám đề nghị rằng nhiệm vụ của các nhà nghiên cứu văn hóa VN cũng
bao gồm cả những việc đó. Có đề nghị cũng không ai làm. Vì có ai được chuẩn bị
làm việc theo quan niệm đó bao giờ.
PV: Với
cách xác định đó, nhìn lại, chắc là ông thấy hoạt động phê bình văn hóa lâu nay
có nhiều chỗ bất cập ?
Vương Trí
Nhàn: Bởi nó đã giống Nga, giống Tầu thời trước, mà lại làm kém
đi và bây giờ bên Nga, bên Tầu người ta cũng làm khác rồi nên rút lại, thấy nó
chẳng giống ai cả.
PV: Thiếu
sót lớn nhất của nó là gì?
Vương Trí
Nhàn: Là không chịu làm cái việc mà xã hội cần là giúp vào việc
tự nhận thức của cộng đồng, mà lại loanh quanh làm những việc vá víu
lặt vặt.
PV: Một
công việc như phê bình văn hóa tất nhiên phải dựa trên các cơ sở lý
thuyết, tức là nó phải có cơ sở lý luận của nó. Theo chỗ chúng tôi biết thì
trên thế giới, văn hóa học đã hình thành và phát triển hơn 100 năm rồi với
nhiều trường phái khác nhau, ở ta chậm hơn nhiều nhưng cũng đã có từ nhiều chục
năm nay. Và chúng ta cũng đã tiếp thu nhiều lý thuyết văn hóa khác nhau từ bên
ngoài vào. Các lý thuyết khác nhau đã làm nền tảng cho hoạt động phê bình văn
hóa. Từ kinh nghiệm cá nhân, theo ông, tại thời điểm hiện tại, ở nước ta, công
việc phê bình văn hóa nên có sự lựa chọn lý thuyết như thế nào để có thể nói là
khả dĩ phù hợp nhất?
Vương Trí
Nhàn: Đầu tháng 2-2015, chính tạp chí Văn hóa Nghệ An đã
in bài của Lê Văn Hảo liên quan tới vấn đề này. Nhưng trong bài đó ông Hảo dùng
chữ văn hóa học với nghĩa một ngành nghiên cứu. Có một nền văn hóa học
Việt Nam tức là có một ngành nghiên cứu về văn hóa Việt Nam.
Còn trong câu
hỏi vừa rồi có phải ông hiểu văn hóa học tức là các lý thuyết về văn hóa ?
PV: Tôi
tưởng ý mình nói cũng đã rõ.
Nếu thế thì
cái thời gian mà ông dùng để xem xét việc hình thành các lý luận đó, lại
chẳng có ý nghĩa gì hết. Mười năm cho đến ba bốn chục năm nữa là quá
ngắn ngủi với một xã hội vốn trì trệ và ngành nghiên cứu khoa học xã hội thì
lại cổ lỗ không biết xếp vào ngạch bậc nào của thế giới.
Trên tôi đã
trình bày, ở nước Nga xô viết cũng như ở Trung Hoa lục địa, văn hóa đều bị gộp
vào công tác tư tưởng, lúc đó ở họ quan niệm sử học thì cổ lỗ mà nhìn chung gần
như không có xã hội học văn hóa học gì hết. Sau khi có những thay đổi, các nhà
nghiên cứu cho du nhập thẳng những quan điểm lý thuyết của Anh- Mỹ, nơi mà lý
thuyết về văn hóa phát triển đến những đỉnh cao có ảnh hưởng khắp thế giới.
Tôi nói điều
này là dựa trên hai cuốn sách đang có trong tay
1/Trung
Hoa văn hóa sử của Phùng Thiên Du, Hà Hiểu Minh, Chu Tích
Minh hai tập thượng hạ Thượng hải nhân dân xuất bản xã, 2005.
2/ Văn
hóa học thế kỷ XX. Bách khoa toàn thư. Nxb Sách tổng hợp thuộc
quỹ hỗ trợ khoa học và văn hóa Sankt- Peterburg 1996.
Nga và
Trung quốc đã vậy, tôi nghĩ rằng chúng ta cũng chẳng có sự lựa chọn nào khác.
PV: Tính
cấp thiết của việc du nhập lý luận văn hóa phương Tây là gì?
Vương Trí
Nhàn: Là ở đó, tất cả các thuật ngữ khái niệm đều có một ý
nghĩa khác so với cách hiểu của chúng ta hôm nay. Đó là một. Thứ hai, là chỉ
với những định hướng của nó, ta mới gỡ ra được những vướng mắc cơ bản đang níu
kéo ta lại. Ví dụ, các nhà nghiên cứu văn hóa hiện nay quá tin tưởng vào thuyết
tương đối văn hóa. Theo thuyết này, mỗi dân tộc đều có nền văn hóa riêng, các
nền văn hóa này đều bình đẳng với nhau. Ta dùng lý luận này để đề cao tính độc
đáo của văn hóa ta, từ đó chấp nhận cả những cổ hủ lạc hậu trong văn hóa cổ
truyền. Trong khi đó, bên cạnh lý thuyết tương đối, người ta còn nói tới sự
tiến hóa về văn hóa. Mỗi nền văn hóa phải tiến triển theo những quy luật chung.
Quá trình tự hoàn thiện một nền văn hóa đi kèm với sự cộng sinh tiếp biến các
nền văn hóa ngoại lai, nhiều khi chính yếu tố ngoại lai lại có ý nghĩa quyết
định chứ không phải yếu tố bản địa. Nếu đi theo hướng này ta sẽ hiểu hơn và làm
tốt hơn công việc tự đánh giá gia tài quá khứ và cũng như mang lại cho sự hội
nhập quốc tế những kết quả thực sự.
Đây tôi mới
nói về một ví dụ chứng minh cho cái mức độ cấp thiết của việc du nhập lý thuyết
phương Tây và lại nói rất thô thiển. Tôi sẽ đề cập vấn đề này trong một dịp
khác.
PV: Trở
lại với các công việc cụ thể , theo ông, hiện tại, ở nước ta, hoạt
động phê bình văn hóa hoặc nghiên cứu văn hóa nói chung nên tập
trung vào những vấn đề nào, những mặt nào, lĩnh vực nào ?
Vương Trí
Nhàn: Tôi hơi ngại dùng hai chữ tập trung.Tôi muốn nói những
việc không thể bỏ qua. Trong nghiên cứu có những công việc mà thiếu nó thì mọi
việc khác đều vô nghĩa. Ngoài việc du nhập lý luận, nay cần sớm có những người
tách ra khỏi cái ngổn ngang trước mắt để đi vào lo tìm hiểu lịch sử văn hóa. Mà
khi đi vào lịch sử, thì nhớ phải có một quan niệm về văn hóa rộng
rãi, trong đó đặt mỗi nền văn hóa trong cái văn mạch chung mà người ta gọi là
địa văn hóa. Riêng tôi lúc này đây tôi nghĩ rằng nếu có thời gian thì nhất
thiết phải để công sức vào tìm hiểu lịch sử quan hệ văn hóa VN với các nền văn
hóa khác như văn hóa Trung Hoa, văn hóa phương Tây.
Nhân đây, tôi
có một đề nghị với cả những người nghiên cứu văn hóa lẫn những người quản lý
việc này nói chung.
PV: Điều
gì vậy?
Vương Trí
Nhàn: Hiện nay các học giả quốc tế đang rất quan tâm
đến Việt Nam và họ đang có nhiều phát hiện. Nhưng tất cả những thành
tựu của họ lại xa lạ với tất cả các giới khoa học xã hội nước ta. Về phần mình,
sau khi nói rằng VN có một nền văn hóa vô cùng rực rỡ không kém một
ai, các nhà nghiên cứu VN có thói quen cho rằng chỉ ta là mới hiểu được ta. Với
các thành tựu của người nước ngoài, ta chỉ sử dụng một vài tên tuổi làm nền và
giúp vào việc minh họa cho quan niệm của người trong nước.
Còn sau
khoảng trên hai mươi năm đi vào tìm hiểu văn hóa VN, kinh nghiệm lớn nhất của
tôi lại là hoàn toàn ngược lại.
Tôi thiết tha
mong các đồng nghiệp đang đi vào nghiên cứu văn hóa nhất là các bạn trẻ học lấy
ngoại ngữ, trực tiếp đọc vào các tài liệu nghiên cứu lịch sử và văn hóa Việt
Nam của người nước ngoài, từ đó các bạn sẽ tìm ra con đường đi của mình, phương
pháp thích hợp với mình.
Sở dĩ tôi
muốn nói điều này cả với các nhà quản lý công tác nghiên cứu bởi lẽ
sau. Các cán bộ trẻ không thể làm việc một cách nghiệp dư tài tử như tôi. Họ
phải gắn bó với những yêu cầu, những đơn đặt hàng của nhà nước. Để lập danh. Mà
cũng để kiếm sống. Nếu trong các bài giảng trong nhà trường, các thầy giáo
không sử dụng các tài liệu này; nếu trong các công trình nghiên cứu ban đầu là
các luận án thạc sĩ, tiến sĩ, không có yêu cầu bắt buộc phải tham khảo các tài
liệu này, thì các nhà nghiên cứu trẻ sẽ không bao giờ tự động tìm đọc cả. Nếu
như chỉ thỉnh thoảng báo chí có được một vài bài viết ngả sang cái hướng này
thì nhanh chóng chúng cũng bị quên lãng.
PV: Cảm
ơn ông.
Phan Thắng thực hiện
Nguồn: Theo Văn Hóa Nghệ An