BÀI 1
Ảnh: Dòng Mekong cách đập Xayaburi hơn 297 km trong tình trạng khô nước nghiêm trọng (nguồn National Geographic) |
Tôi nói thẳng
luôn là Mekong Delta không thoát hạn được. Người dân Mekong Delta phải học cách
sống chung với hạn và mặn.
HIỆN TRẠNG
và TƯƠNG LAI
Tôi chưa
đi hết các ngóc ngách của đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) nhưng cũng đã từng khảo
sát, đánh giá về nhiều khía cạnh của ĐBSCL ở hầu hết các tỉnh thành và lặp lại
trong vòng 10 năm qua. Việc quan sát diễn biến và tác động của biến đổi khí hậu
cho tôi cái nhìn ít lạc quan về tương lai đồng bằng.
Năm 2016,
xâm nhập mặn lần đầu tiên tiến đến Cần Thơ vào ngày 14/3. Tôi nhớ rõ ngày hôm
đó, vì khi đó tôi đang là người phụ trách kỹ thuật cho dự án quan trắc nước mặn
tự động của thành phố Cần Thơ.
Đó được
coi là một mốc lịch sử quan trọng về sự tiến sâu của xâm nhập mặn. Cả năm 2016,
60-80% diện tích lúa vụ 3 ở các tỉnh Trà Vinh, Bến Tre, Kiên Giang, Bạc Liêu bị
mất trắng. Nhiều thửa ruộng không thể canh tác lại trong vụ tiếp theo.
Năm nay
thì sao? Xâm nhập mặn diễn ra từ đầu tháng 12 và đạt mốc lịch sử mới từ giữa
tháng 1/2020. Như vậy là nó vừa phá mốc lịch sử 2016 vừa diễn ra trước 2 tháng.
Nhận định
của tôi là việc xâm nhập mặn và hạn hán sẽ vô vùng khốc liệt trong 2 tháng tiếp
theo, ngay cả khi ĐBSCL đón những cơn mưa trái mùa vào tháng 4.
Lý do là
lượng nước lâu nay dùng để canh tác và sinh hoạt ở ĐBSCL chủ yếu là nước thượng
nguồn về theo các nhánh sông. Nước mưa tại đồng bằng sẽ không được giữ lại ở đồng
bằng vì không có hồ chứa nên mưa bao nhiêu sẽ chảy hết ra biển bấy nhiêu. Đất
đang khô, háo nước nên mưa không đủ ngấm vào đất thì làm gì đủ cho tích trữ.
Số liệu mà
tôi có hiện nay cho thấy khoảng 83.300 hộ dân đang gặp khó khăn về nước sinh hoạt.
39.000 ha lúa vụ 3 đang chết khô và con số này sẽ gia tăng hơn nữa trong vòng một
tháng tới đây.
Tại Tiền
Giang, người dân đang phải mua nước với giá 300.000 VND một m3 nước ngọt để tưới
sầu riêng. Phía Tây Nam Bộ, giá nước ngọt đang là 150.000-200.000 VND một m3.
Lưu ý, đây là nước ngọt chứ không phải nước tinh khiết để uống được liền. Nước
này có thể là nước sông và cũng có thể là nước máy.
Tại Cà
Mau, hàng trăm điểm sạt lở và sụt lún xảy ra trong vòng một tháng qua phá hủy
nhà dân và nhiều công trình hạ tầng giao thông. Ở hầu hết các địa phương không
còn khả năng khai thác nước ngầm vì mạch nước ngầm đã tụt sâu do khai thác quá
mức.
NGUYÊN
NHÂN GỐC RỄ
1- Siêu đập
thủy điện thượng nguồn
Trong vòng
7 năm qua, đã có 7 siêu dự án thủy điện chặn dòng chính Mekong được vận hành và
đưa vào sử dụng, trong đó có 6 dự án dòng chính ở Trung Quốc và 1 dự án dòng
chính trên đất Lào.
Tháng
7/2019, Thủy điện siêu lớn Xayaburi âm thầm đi vào hoạt động mà không thông báo
cho các nước thành viên của Ủy hội Mekong. Ngay thời điểm đó, tôi đã dự báo về
một đợt hạn khốc liệt ở Mekong Delta vì nhận thấy lượng mưa về sườn Tây Trường
Sơn ít hơn 60% trung bình các năm.
Ngày
20/02/2020, tại hội nghị bộ trưởng ngoại giao Mekong – Lan Thương, ngoại trưởng
Trung Quốc đã tuyên bố sẽ xả nước giúp các quốc gia láng giềng chống hạn.
ĐỪNG MƠ và
ĐỪNG NGHE LỜI HỨA HÃO của Trung Quốc.
Mà ngay cả
Trung Quốc có xả đập thì nước cũng không về đến hạ lưu Mekong Delta, bởi đập thủy
điện Xayaburi bên Lào đã chặn lại rồi.
Nếu có
chút nước nào xuống thì người Thái cũng chờ sẵn để họ lấy nước vào sông Loei trong
chiến lược của siêu dự án 75 tỷ USD Kong-Loei-Chi-Mun của họ.
Vậy nên
tôi dự báo là đến hết tháng 5 chưa chắc đã hết hạn, mặn.
Hạn và mặn
chỉ có thể giảm nếu mùa mưa đến sớm ở miền Trung và với điều kiện mưa nhiều ở
Tây Trường Sơn.
2- Đóng cống
ngăn mặn làm tụt mực nước ngầm (đây là nhận định của cá nhân tôi, chưa có
nghiên cứu cụ thể để chứng minh)
Khi Mekong
Delta bắt đầu bị hạn mặn vào đầu tháng 12 thì phản ứng tự nhiên của Việt Nam đó
là chặn nước biển vào sông. Việc này là phản ứng bình thường, vì nếu không đóng
cống sẽ có nguy cơ không gieo cấy được lúa vụ 3 ở hầu hết các tỉnh. Không những
thế, mặn có thể xâm nhập sâu, và các nhà máy nước sinh hoạt có thể không lấy được
nước để cấp nước cho các đô thị.
Tuy nhiên,
việc không cho nước biển vào, kết hợp với nước nguồn không về, khiến cho mực nước
ở các lòng sông hạ thấp kỷ lục.
Khi nước ở
các lòng sông hạ thấp thì nước ngầm ở các vườn cây ăn trái, ở kênh mương nội đồng
sẽ bị tụt theo. Đây là cơ chế bình thường trong tự nhiên khi nước luôn lắng xuống
chỗ trũng. Nếu chỗ trũng đầy nước nó sẽ dâng lên chỗ cao dù chỗ cao là nước hay
là đất.
Như vậy có
thể thấy, việc đóng cống ngăn mặn có thể bước đầu giữ được lượng nước ngọt ít ỏi
từ thượng nguồn về. Nhưng về lâu dài, cụ thể là đến thời điểm này trở đi, việc
đóng cống ngăn mặn không giải quyết được vấn đề nữa vì có còn nước ngọt đâu mà
giữ! Nếu giữ thì có thể ngăn nó không lên cao quá Cần Thơ ảnh hưởng nước sinh
hoạt đô thị và diện tích lúa vụ 3 của các tỉnh ở giữa đồng bằng.
3- Khai
thác nước ngầm quá mức
Tôi nhiều lần nói về việc này ở nhiều hội nghị khoa học bằng các số liệu thống kê về số lượng các nhà máy cấp nước nông thôn (có đến 90% lấy nước ngầm để cấp nước ở các huyện ven đô tp Cần Thơ – link bài báo của tôi phía dưới), và gần như 80% các hộ dân có giếng nước ngầm tại nhà. Ở các tỉnh cuối nguồn tình trạng khai thác nước ngầm dữ dội hơn nữa.
Việc lấy
nước ngầm để sinh hoạt và tưới tiêu vô cùng nguy hiểm và nghiêm trọng cho hiện
tại và tương lai, vì nó làm sụt lún đất và nước mặn vào sâu thêm.
Nhưng giờ
muộn rồi. Mekong Delta đang chìm dần.
Tôi đã có
nhận định về điều này và trả lời một tạp chí nước ngoài từ năm 2018 (link ở phần
cuối bài). Đến năm 2019, Đại học Utreck của Hà Lan, sau đó là tạp chí nổi tiếng
Nature đưa ra nghiên cứu chỉ ra rằng Mekong Delta sẽ biến mất trong vòng 100
năm nữa nếu kịch bản khai thác nước ngầm như hiện tại và nước biển tiếp tục
dâng do biến đổi khí hậu.
4- Tưới
tràn
Hầu hết hệ thống canh tác nông nghiệp ở Mekong Delta đang áp dụng phương pháp tưới tràn. Cách tưới này phù hợp với bối cảnh xưa, khi các đập thủy điện thượng nguồn chưa có. Nhưng giờ đây cách này là cách phí phạm nguồn nước nhất.
5- Canh
tác lúa vụ 3
Khi nguồn nước có hạn, cơ quan hoạch định chính sách về điều tiết nước cần phải xác định dùng nước ưu tiên cho các ngành và lĩnh vực phù hợp để không bị ‘’chết chùm’’ cùng nhau.
Theo tôi,
mức độ ưu tiên cho cấp nước cần tính đến số dân số bị tác động đầu tiên và ưu
tiên nước sinh hoạt đầu tiên. Sau đó là ưu tiên cho gia súc, gia cầm, sản xuất
công nghiệp nhẹ và đến nông nghiệp. Việc trồng lúa vụ 3 đã ngốn một lượng nước
khổng lồ của các ngành khác, khiến giờ đây lúa cũng không cứu được, cây ăn trái
cũng không cứu được và người dân thiếu nước sinh hoạt.
6- Ô nhiễm
các dòng sông
Nhiều nhánh sông ở Mekong Delta vẫn còn nước ngọt, nhưng đã bị ô nhiễm nghiêm trọng. Hoạt động chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, khu công nghiệp… đẩy hết chất thải xuống sông, và vì thế nước có còn cũng không dùng được nữa.
P/S: Chiều
nay tôi giật mình khi thấy tin người dân ĐBSCL cào lớp đất phù sa đi để bán.
Tôi thấy buồn và lo lắng vô cùng. Đang rất bận nhưng tôi vẫn cố gắng viết nhanh
về vấn đề chống hạn ở đồng bằng. Định viết một bài nhưng thông tin nhiều quá
nên tôi sẽ viết thành 2 bài. Bài sau sẽ phân tích về giải pháp.
Người dân ĐBSCL cào lớp đất phù sa đi để bán. |
Dưới đây là
link các bài báo tôi có đề cập trong bài viết:
- Báo The
Culture Trip phỏng vấn tôi về tương lai đồng bằng
- Bài báo
về mâu thuẫn trong cơ chế cấp nước ở khu vực ngoại ô
----------------------
Bài 2
GIẢI PHÁP CHO MỘT MEKONG KHÁT NƯỚC
(Bài rất dài nên mọi người kiên nhẫn đọc nhé. Share thoải mái và share đến
các cán bộ quản lý tôi cảm ơn)
Trong bài
trước tôi đã nói rằng Mekong Delta không thể thoát hạn được với những lý do về
việc vận hành của các con đập thủy điện ở thượng nguồn và kịch bản xấu của biến
đổi khí hậu trong tương lai.
Việc Trung
Quốc không chia sẻ nguồn nước, việc người Lào tự biến mình thành cục pin của
Đông Nam Á và phía dưới là người Thái với siêu dự án hàng chục tỷ đô chuyển nước
Kong-Loei-Chi-Mun. Sông Mekong thật sự đã và đang bị chặt khúc thành những vũng
“hồ trên sông’’, và điều này vô cùng nguy hiểm.
Hạn và mặn
không còn là nguy cơ mà đã hiện hữu như chúng ta đã thấy.
Nhưng còn
một nguy cơ nữa đó là lũ lớn. Một khi mưa quá lớn xảy ra trong thời gian dài ở
các tỉnh phía Tây Trung Quốc, Lào và Cambodia thì sau một tháng Mekong Delta sẽ
ngập lụt nghiêm trọng.
Nguy hiểm
nhất của thủy điện trên dòng Mekong Delta đó là liên hồ thủy điện dòng chính và
phụ, nhưng không có kế hoạch vận hành liên hồ thủy điện, mạnh ai nấy xả.
Một khi
các hồ ở Trung Quốc quá tải và xả nước cấp tập thì các thủy điện dòng chính dưới
trung lưu và hạ lưu cũng phải mở cửa xả đáy để cứu đập. Kịch bản về lượng mưa lớn
xảy ra liên tục không phải là không có, vì vậy nên giải pháp chống hạn ở Mekong
Delta cũng phải đi kèm với phương án dự phòng chống lũ.
Với Mekong
delta, sẽ không có một giải pháp hoàn hảo mà chỉ có một giải pháp tốt hơn các
giải pháp khác mà thôi.
Dưới đây
tôi đưa ra quan điểm của mình về chống hạn, mặn và lũ cho Mekong delta. Đây là
quan điểm cá nhân và tôi tin rằng sẽ tạo ra nhiều tranh luận trái chiều, đặc biệt
là trong giới làm khoa học, nhà quản lý. Nhưng không sao. Tôi chào đón mọi quan
điểm trái chiều, nhiều phản biện với tinh thần cùng xây dựng.
I.- GIẢI
PHÁP CÔNG TRÌNH
1)
Hồ Chứa nội đồng và Liên Hồ Chứa trên các nhánh sông nhỏ
Mọi người
sẽ nghĩ: “Ồ tưởng gì, hồ chứa thì ai mà chẳng nghĩ ra”! Nhưng thực sự khái niệm
về hồ chứa của tôi đưa ra khác với cách nghĩ về hồ chứa mà các công trình ngàn
tỷ đang phơi khô ở miền Trung.
Các loại hồ
chứa cho Mekong delta gồm các loại sau:
- Hồ chứa nước trên các nhánh sông:
Các hồ chứa
này là những nhánh sông và kênh rạch nội đồng được nạo vét sâu, làm các cửa cống
lấy nước tự nhiên vào mùa mưa và đóng lại vào mùa khô. Những nơi cần nguồn nước
cấp chủ động có thể lắp hệ thống máy bơm 2 chiều để tích nước được nhiều hơn.
Như vậy,
thay vì làm cống chặn nước mặn vào, ta làm cống giữ nước để nước ngọt không đi
ra ngoài.
Các hệ thống
cống giữ nước ngọt vào mùa mưa, sử dụng trong mùa khô chỉ nên áp dụng ở các
nhánh sông nhỏ không có thuyền bè qua lại, và điều quan trọng là nó ít, nó
không phá vỡ cân bằng sinh thái, không làm ảnh hưởng đa dạng sinh học.
- Hồ chứa nội đồng - phân làm hai loại:
+ Loại có
diện tích lớn
Loại hồ
này nên được quy hoạch theo tỉnh và bắt buộc phải được kết nối với các kênh rạch
tự nhiên để có thể lấy nước tự chảy từ hệ thống sông tự nhiên vào mùa lũ và
đóng cống trong mùa hạn.
Các hồ nước
này cần được bảo vệ nghiêm ngặt và được vận hành bởi một ủy ban điều phối nguồn
nước liên tỉnh hoặc ít nhất là cấp tỉnh.
Nhiệm vụ của
hồ nước này là cấp nước cho hệ nước sinh hoạt, nước cho gia súc gia cầm, chế biến,
tưới tiêu và sau cùng mới đến các ngành khác.
+ Loại có
diện tích vừa
Loại này
nên có ở quy mô các huyện, xã, nhằm điều phối cho nhu cầu sử dụng nước tưới tiêu.
Các hồ chứa có chức năng tích nước vào mùa mưa và cấp nước vào mùa hạn.
Các hồ chứa
nội đồng sẽ “ngốn” một diện tích đang trồng lúa nhất định.
Tuy nhiên
thà mất một phần diện tích đất lúa để có nước để cứu cả huyện hơn là cả huyện
khát khô.
- Hồ chứa quy mô gia đình:
Ở hầu hết
các hộ nuôi tôm và vườn cây ăn trái đều có các nhiều hồ nước. Hiện nay đa số là
các hồ nước mặn để phục vụ nuôi tôm, hoặc là hồ cạn dạng kênh mương ở các vườn
cây ăn trái.
Tuy nhiên,
hiện nay, vào mùa mưa thì việc tích nước ngọt vào các hồ này cũng khá khó khăn
do lịch đóng/mở cống ngăn mặn ngoài cửa biển ảnh hưởng đến mực nước có thể lấy
được vào hồ.
Chỉ cần điều
chỉnh thời gian mở cống là có thể có được nước ngọt nhất là những khu vực không
trực tiếp giáp biển như Sóc Trăng, Bạc Liêu.
Những hồ
chứa này có thể giúp người dân chủ động bảo vệ nguồn nước tưới tiêu và cân bằng
độ mặn ở các ao nuôi tôm khi hạn xảy ra.
Việc tạo
các hồ chứa và liên hồ chứa đòi hỏi kèm theo là hệ thống dẫn nước đến với các
công trình hạ tầng xử lý nước và cấp nước. Việc này có thể phát sinh kinh phí
nhưng nếu chúng ta nhìn với tầm nhìn dài hạn thì việc đầu tư này sẽ rẻ hơn và
hiệu quả hơn là xây cống và đê ngăn mặn.
Việc đào hồ
cũng cho chúng ta số lượng đất rất lớn để đôn cao nền làm nơi trồng cây, đắp đường.
Mô hình hồ
chứa hộ gia đình có thể giúp giảm tải về nhu cầu nước từ nguồn chung rất lớn và
chính quyền các tỉnh, huyện nên khuyến khích người dân tự đào hồ tích nước ngọt.
Các hồ nước phải đủ sâu (từ 1-2 mét nước) được bảo vệ nghiêm ngặt tránh đuối nước
và tránh ô nhiễm.
2) Không
xây thêm Cống Ngăn Mặn ở cửa biển
Đã có rất
nhiều cống ngăn mặn chặn các dòng chính hoặc nhánh lớn nối ra biển ở Mekong
Delta. Trong kế hoạch quản lý nguồn nước, ở hầu hết các tỉnh đề đề xuất xây cống
ngăn mặn.
Theo tôi
đây là một giải pháp không phù hợp với Mekong Delta trong bối cảnh hiện tại và
kịch bản biến đổi khí hậu trong tương lai.
Mekong
Delta vốn dĩ là một đồng bằng bồi đắp bởi phù sa, và vì vậy đây là một nền đất
yếu, tương đối bằng phẳng và thấp. Với địa hình như vậy, việc xây cống phải đi
kèm với việc xây đê, vì nếu cống mà không có đê nước mặn cũng vào ruộng đồng.
Nhưng nếu xây đê thì vô cùng tốn kém, bởi Mekong Delta không những có những
nhánh sông kết nối với biển, mà có cả những phần đất thấp là các ruộng, vườn, rừng
kết nối với bờ biển. Việc kết nối này khiến nước biển khi dâng lên sẽ dễ dàng
tràn vào các dòng sông. Nếu đầu tư xây đê bao xung quanh Mekong Delta thì bà
con đồng bằng có trồng lúa, nuôi tôm 7 đời cũng không đủ tiền trả nợ cho việc
xây đê, kè biển.
Việc xây cống
cũng sẽ ảnh hưởng trong quản lý rủi ro lũ lụt.
Các cống
ngăn mặn cỡ lớn sẽ cản trở quá trình thoát lũ khi có sự cố thủy điện thượng nguồn,
và nguy cơ ngập lụt ở khu vực giữa đồng bằng sẽ cao.
Việc xây cống
ngăn mặn ở các nhánh lớn của sông Mekong cũng gây tổn hại nghiêm trọng đến đa dạng
sinh học.
Cửa sông
là nơi các loài cá di cư đi vào sông để đẻ trứng. Khi sông bị chặn, chúng không
còn khả năng sinh sản và giảm dần về số lượng, mật độ trong loài. Việc biến mất
của một loài không chỉ mỗi loài đó bị tuyệt chủng mà nó kéo theo các loài khác
trong chuỗi thức ăn. Và vì thế, sinh kế của ngư dân Mekong Delta cả bên trong
sông và ngoài biển sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Vựa cá tôm trù phú của Mekong
Delta cũng vì thế mà biến mất.
Chúng ta
cũng không nên so sánh với Hà Lan và đặt câu hỏi vì sao Hà Lan lại áp dụng biện
pháp trị thủy bằng xây đê. Đơn giản là việc xây đê, xây cảng biển ở Hà Lan nó đẻ
ra tiền, bởi nơi đây là nơi trung chuyển hàng hóa đường thủy lớn nhất Châu Âu,
và cũng từ đây Châu Âu kết nối với các châu lục khác.
Giá trị từ
việc trị thủy của Hà Lan đem lại cho họ nguồn thu rất lớn từ vận tải và thương
mại trong khi đó ở Mekong Delta giá trị của việc trị thủy của chúng ta mới chỉ
có nguồn thu từ cây lúa. Mà trồng lúa 7 đời chắc gì đủ tiền xây một con đê nhỏ?
3) Sử dụng
điện năng lượng mặt trời chạy máy lọc nước lợ thành nước ngọt
Đây không
phải là giải pháp viễn vông mà thực tế đã được áp dụng cả quy mô gia đình và
quy mô cấp nước theo cụm.
Trước mắt
tôi đề nghị các Trung tâm Nước sạch Nông thôn ở các tỉnh chuyển đổi ngay các mô
hình lấy nước từ nước ngầm sang lấy nước lợ dưới sông để lọc qua RO và cấp nước
cho người dân.
Bà con phải
chấp nhận giá nước cao hơn để đảm bảo mạch nước ngầm không bị tụt và đất không
bị lún.
Khi giá nước
cao hơn, người dân sẽ tự ý thức trong việc bảo vệ nguồn nước.
Trong cuốn
sách ‘Con Đường Thoát Hạn’ của Israel, bên cạnh thành công về công nghệ, người
Do Thái còn thành công trong quản trị nước bằng cách nâng cao giá nước để người
dân quý từng giọt nước.
Nếu tính
giá lắp hệ thống lọc RO hiện tại thì không quá đắt nếu dùng lâu dài và dùng cho
nhiều hộ gia đình. Chẳng hạn nếu đầu tư 30 triệu có thể có được một hệ thống lọc
RO lọc từ nước lợ từ dưới sông với công suất 300-500 lít/h đủ cho sinh hoạt và
tưới nhỏ giọt cho một cụm gia đình.
4) Chấm dứt
tuyệt đối việc khai thác nước ngầm
Việc khai
thác nước ngầm khiến ĐBSCL càng ngày càng bị lún sâu và chẳng mấy chốc bị thấp
hơn mặt nước biển. Việc khai thác nước ngầm quá nhiều cũng khiến nước ngọt ở các
sông hồ bị tụt theo.
Vì vậy, chấm
dứt từng bước và triệt để theo kế hoạch chuyển đổi chậm nhất trong 2 năm tới là
cần thiết. Việc chấm dứt này kèm theo việc thay thế bằng hệ thống lọc RO quy mô
cụm gia đình và gia đình cần được tiến hành đồng thời.
5) Trữ nước
mưa quy mô hộ gia đình và cơ quan đoàn thể
Mỗi năm
Mekong Delta có lượng mưa tương đối tốt vào các tháng từ 7-11. Những tháng này
đủ lượng nước cho các bể chứa hộ gia đình để dùng cho nước uống.
Tôi đã từng
đi Marshall Islands, nơi một đảo giữa biển không hề có hồ chứa và con sông nào
cả. Chính quyền thành phố đã đào một bể nước mưa ngầm bên cạnh sân bay để chứa
nước mưa làm nước cấp. Đi đến hộ dân nhà nào cũng có bể chứa nước mưa, và họ có
quy trình sử dụng nước khoa học để tái sử dụng nước mưa. Chẳng hạn dùng nước vo
gạo, rửa rau để tưới cây và cho gia súc uống.
II.- GIẢI
PHÁP PHI CÔNG TRÌNH
6) Tiết kiệm
nước
Người dân
đồng bằng cần thay đổi suy nghĩ về nguồn nước vô tận như trước kia và phải quý
giá từng giọt nước.
Người dân
Israel những năm 1940s không có nước để làm được gì cả, vì xung quanh toàn sa mạc,
nhưng sau đó họ có một con đường nước quốc gia, họ có công nghệ lọc nước biển
thành nước ngọt, họ có công nghệ lọc nước thải thành nước uống từ những năm
1970s bằng các giải pháp công nghệ. Nhưng hơn tất cả, họ biết tiết kiệm nước bằng
tưới nhỏ giọt được áp dụng từ những năm 1960s.
Đến nay,
Israel đủ nước dùng cho nền nông nghiệp trù phú và cả nước xuất khẩu sang các
nước láng giềng.
Ngay trong
những ngày hạn nhất, với giá nước lên đến 250.000-300.000 VND một m3 mà người
dân vẫn dùng vòi nước phun tưới cho cây thì quả là lãng phí!
Đối với một
số cây ăn trái thì việc tưới nước nhỏ giọt nên áp dụng sớm để có thể tiết kiệm
đến 9/10 nguồn nước so với tưới phun hoặc tưới tràn.
Tiết kiệm
nước cũng thể hiện ở việc chuyển đổi mô hình canh tác lúa. Từ tưới tràn cả vụ
chuyển sang các mô hình tưới ướt – khô xen kẽ.
7) Chuyển
đổi từ đất lúa vụ 3 sang các mô hình tôm lúa hoặc tôm
Việc chuyển
đổi đất lúa vụ 3 này sang nuôi tôm sẽ giúp tiết kiệm một lượng nước vô cùng lớn
dùng cho các nhu cầu khác trong mùa hạn.
Vào đầu
tháng 12, tôi đi đến các tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau, và gặp gỡ với các Sở
Nông nghiệp, các Phòng Khuyến nông, Thủy lợi. Đi đâu tôi cũng khuyên mọi người
phải bỏ lúa vụ 3, bởi tôi dự đoán hạn sẽ khốc liệt năm nay.
Nhiều địa
phương vẫn bơm một lượng nước khá lớn để phục vụ lúa vụ 3, và bây giờ thì héo
khô hết cả, trong khi nước cho cây ăn quả và sinh hoạt thì khan hiếm!
Việc chuyển
đổi này phải tiến hành đồng bộ cho cả vùng Mekong Delta chứ không chỉ riêng ở hạ
lưu. Bởi nếu trồng vụ 3 ở thượng nguồn thì nước bị lấy vào ruộng ở thượng nguồn
cũng ảnh hưởng đến lượng nước ngọt về hạ lưu.
Đây là một
kế hoạch cần ủy ban điều phối nước liên ngành quản lý.
8) Đưa
giáo dục và thực hành tiết kiệm nguồn nước vào trường học và khu dân cư
Xây vạn hồ
chứa mà người dân không nhận thức được tầm quan trọng của nước thì cũng bỏ đi!
Việc đưa
giáo dục về bảo vệ nguồn nước vào cộng đồng cần đồng bộ cho toàn vùng Mekong
Delta và giáo dục cho cả khách du lịch đến với đồng bằng. Họ phải được tuyên
truyền ý thức bảo vệ các hồ chứa, các nguồn nước từ kênh rạch để không làm ô
nhiễm nguồn nước.
Các cộng đồng
có thể xây dựng các hương ước để có sự đồng thuận trong từng ấp để bảo vệ các
dòng kênh và giám sát lẫn nhau.
Việc đưa
vào trường học nhằm giáo dục cho thế hệ sau của đồng bằng rằng Mekong Delta cạn
rồi. Chúng ta không còn dồi dào nguồn nước và cần tiết kiệm.
*
Trên đây
là những giải pháp tôi đưa ra với góc nhìn cá nhân của mình và bằng việc cân nhắc
rất nhiều các giải pháp khác.
Tất nhiên
nghe thì chung chung như “văn kiện đại hội”, nhưng nếu chia nhỏ và chi tiết hóa
các đề xuất trên thì chúng ta vẫn còn có nước ở lại với đồng bằng.
Nếu không,
tôi không nhìn ra thêm giải pháp nào khác cả!
Trong bài,
tôi không đề cập đến khía cạnh ngoại giao nguồn nước. Việc đó cũng cần, nhưng
tôi sẽ nói ở một bài khác.
Rất
welcome tất cả mọi ý kiến đóng góp, kể cả phản biện trái chiều để cùng xây dựng.
H.N.
Nguồn:
- Phần
1: FB Huy
Nguyen
- Phần
2: FB Huy
Nguyen