25/03/2020 14:45 GMT+7
TTO - Có thể có độ vênh về số liệu thực tế giữa sản lượng gạo còn tồn trong dân và số liệu mà Bộ Công thương nắm được nên bộ đã đề xuất Thủ tướng Chính phủ cho thời gian để xác minh lại và có phương án điều hành tốt nhất.
Việc dừng xuất khẩu gạo là một ví dụ điển hình về hạn chế của chế độ độc tài, khi ra quyết định thì nặng về thể hiện quyền lực, hơn là cân nhắc toàn diện về ảnh hưởng tới muôn dân.
Mấy ngày qua xuất hiện một số ý kiến ủng hộ quyết định ngày 23/3/2020 của Thủ tướng về việc dừng xuất khẩu gạo, và phản đối kiến nghị ngày 24/3/2020 của Bộ trưởng Bộ Công thương về việc tiếp tục thực hiện xuất khẩu gạo.
Hôm nay, bên cạnh mấy ý kiến phân tích rằng dừng xuất khẩu gạo là không hợp lý hoặc không cần thiết, còn có cả ý kiến phê phán về việc tư vấn bất nhất của Bộ Công thương.
Không rõ trên thực tế việc Thủ tướng quyết định dừng xuất khẩu gạo có xuất phát từ đề nghị của Bộ Công thương hay không (mặc dù báo chí đã đăng tin như vậy). Nhưng, kể cả trong trường hợp ấy, thì người đáng phê phán nhất chính là bản thân Thủ tướng. Vì sao?
Ra quyết định vào ngày 23/3/2020, mà có hiệu lực dừng xuất khẩu gạo từ 0 giờ ngày 24/3/2020 (tức là sau chưa đầy 1 ngày). Thử hỏi, ai có thể trở tay kịp?
Ra một quyết định như vậy, mà không quan tâm đến những người phải chịu thiệt hại bởi quyết định. Không hiểu Thông báo số 121/TB-VPCP ngày 23/3/2020 có đề cập đến biện pháp cụ thể nào không, nhưng trên báo chí thì không thấy biện pháp nào được đưa ra để bù đắp thiệt hại. Thiệt hại không chỉ là những doanh nghiệp xuất khẩu gạo, mà cả hàng triệu nông dân lam lũ. Ai sẽ đứng ra trả khoản tiền bồi thường cho phía nước ngoài do phá vỡ hợp đồng xuất khẩu? Ai sẽ đứng ra trả những khoản nợ mà nông dân đã vay để sản xuất vụ lúa vừa qua? Và ai sẽ nuôi những người nông dân bán thóc không đủ tiền trả nợ?
Nếu cùng với quyết định dừng xuất khẩu gạo, Thủ tướng đồng thời quyết định Chính phủ đứng ra mua số gạo dự định xuất khẩu, hoặc chi một khoản kinh phí tương ứng, để bù đắp thiệt hại cho những người chịu thiệt hại, thì đi một lẽ. Đằng này, Thủ tướng không nghĩ rằng Chính phủ phải có trách nhiệm như vậy. Đó là hạn chế của bản thân Thủ tướng, không thể đổ tội cho Bộ trưởng Bộ Công thương! Đó cũng là một ví dụ điển hình về hạn chế của chế độ độc tài, khi ra quyết định thì nặng về thể hiện quyền lực, hơn là cân nhắc toàn diện về ảnh hưởng tới muôn dân. Nhân danh vì an ninh lương thực, nhưng có lẽ quan tâm nhiều hơn tới an ninh chính trị. Nhân danh quyền lợi muôn dân, nhưng lại phớt lờ quyền lợi hàng triệu nông dân nghèo khổ.
Đối với Trung Quốc, nếu không mua gạo của Việt Nam thì họ sẽ mua gạo của nước khác. Việt Nam không cản trở nổi Trung Quốc mua gạo, mà chỉ đánh mất thị trường và mất tín nhiệm trong quan hệ thương mại quốc tế. Nhưng đối với nông dân Việt Nam, nếu Chính phủ quyết định dừng xuất khẩu gạo, mà không có đền bù thiệt hại, thì họ không có lối thoát.
Chính phủ đã rất thành công trong việc ngăn chặn dịch. Nhưng khi đăng bài ca ngợi về thành công của Chính phủ, thì nên lưu ý rằng: Chính phủ mới thể hiện vai trò lãnh đạo về mặt hành chính, y tế, an ninh và quân đội; còn về mặt kinh tế, tài chính thì hình như chưa đưa ra biện pháp nào, ngoài biện pháp dừng xuất khẩu gạo.
HXP
Thứ trưởng Bộ Công thương Trần Quốc Khánh khẳng định cần thời gian để xác minh lại số liệu - Ảnh: NGỌC AN |
Trả lời Tuổi Trẻ Online sáng 25-3, Thứ trưởng Bộ Công thương Trần Quốc
Khánh khẳng định không có chuyện yêu cầu doanh nghiệp hủy hợp đồng xuất khẩu gạo mà
là giãn tiến độ hợp đồng xuất khẩu trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến căng
thẳng, hạn mặn xảy ra và nhu cầu lương thực thế giới tăng cao.
Quan điểm điều hành trong bối cảnh hiện
nay là ưu tiên đảm bảo an ninh lương thực cho người dân lên hàng đầu và hạn chế
thiệt hại cho doanh nghiệp, người nông dân.
Ông Khánh cho biết trong 2 tháng đầu năm
xuất khẩu gạo đã đạt 930.000 tấn, tăng 32% so với cùng kỳ năm trước, trong đó
một số thị trường có mức tăng tương đối mạnh. Giá cả trong nước cũng có biến
động theo chiều hướng chung, tăng từ 20-25% tùy theo từng chủng loại.
"Đứng trước tình hình đó nếu như việc
xuất khẩu gạo vẫn diễn tiến như 2 tháng đầu năm thì Việt Nam có thể đối diện
với rủi ro là thiếu gạo cho tiêu dùng trong nước" - ông Khánh nhấn mạnh.
* Nhưng chỉ trong thời gian rất ngắn mà Bộ Công thương đã cùng lúc
đưa ra hai kiến nghị khá bất nhất về việc tạm giãn và sau đó cho xuất khẩu gạo
trở lại. Vậy lý do là gì, thưa ông?
- Với sản lượng hiện nay đã thu hoạch 9
triệu tấn thóc, tương đương 4 triệu tấn gạo, trong điều kiện bình thường tôi
khẳng định sẽ không thiếu gạo, mà còn vừa đáp ứng đủ nhu cầu trong nước và xuất
khẩu. Thế nhưng những tháng đầu năm nay, dịch COVID-19 diễn biến đã và đang gây
ra những ảnh hưởng hết sức nghiêm trọng không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế
giới.
Nhu cầu với một số mặt hàng thiết yếu nhu
yếu phẩm, trong đó có gạo, đang tăng rất nhanh và đã bắt đầu xuất hiện nhu cầu
tăng dự trữ lương thực để bảo đảm cuộc sống cho người dân. Giá cả trên thị
trường thế giới biến động mạnh. Điều này gây nên sự bất định vì không biết lúc
nào dịch bệnh mới được kiểm soát, nhu cầu dự trữ gạo của thế giới ra sao.
Thêm nữa, hiện nay giá cả mặt hàng gạo
trong nước cũng đã tăng từ 20-25%. Dịch bệnh được dự báo diễn biến phức tạp nên
có thể tác động tiềm ẩn tới tâm lý của người dân, có thể vì dịch bệnh mà người
dân đổ xô đi mua tích trữ.
Vì vậy, trên cơ sở dự phòng yếu tố bất
định, các số liệu đã có, Bộ Công thương đã kiến nghị Chính phủ hai phương án,
trong đó có phương án là tạm giãn tiến độ xuất khẩu gạo tới tháng 5-2020. Tuy
nhiên, tôi xin nhấn mạnh rằng đây là yêu cầu giãn tiến độ hợp đồng xuất khẩu
chứ không hủy hợp đồng.
Tuy nhiên, sau đó Bộ Công thương nhận được
phản ánh của doanh nghiệp, hiệp hội và các địa phương vùng ĐBSCL, cho rằng có
thể số lượng gạo tồn kho ở trong dân lớn hơn, tình hình xuất khẩu trong tháng 3
có thể không tăng mạnh như dự báo, nên xuất hiện nhu cầu phải xác minh lại.
Vì vậy chúng tôi đã kiến nghị Thủ tướng
cho Bộ Công thương thời gian để làm việc với các địa phương, hiệp hội, doanh
nghiệp, cho phép kiểm tra lại một lần nữa số lượng sản lượng vụ đông xuân,
lượng tồn kho trong dân, số lượng tồn kho ở các doanh nghiệp, lượng hợp đồng
xuất khẩu đã ký, để Thủ tướng sẽ xem xét, quyết định.
* Bộ Công thương có vai trò trong quản lý, điều hành hoạt động
xuất nhập khẩu, vậy tại sao lại có độ vênh về số liệu với các địa phương, doanh
nghiệp, thưa ông?
- UBND các tỉnh và doanh nghiệp cho rằng
có thể có độ vênh về mặt số liệu giữa sản lượng và kim ngạch xuất khẩu trong tháng
3. Doanh nghiệp cho biết lượng gạo xuất khẩu trong tháng 3 chững lại và không
lớn. Một số tỉnh cũng cho biết lượng tồn kho còn trong dân và lượng dự trữ có
thể lớn hơn.
Có độ vênh về số liệu cũng là dễ hiểu. Bởi
trước đây lượng gạo sản xuất, lượng gạo ký hợp đồng gạo tồn kho Bộ Công thương
nắm rất chắc thông qua Hiệp hội Lương thực Việt Nam, doanh nghiệp. Tuy nhiên
sau khi có nghị định 107/2018/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo thì Bộ Công
thương không còn số liệu này nữa do thị trường gạo đã tự do hóa hoàn toàn.
Theo đó, mọi số liệu chính thống mà bộ có
được là từ Hiệp hội Lương thực, Bộ Nông nghiệp, Tổng cục Thống kê… và chúng tôi
điều hành trên cơ sở này. Tôi nhấn mạnh, trong trường hợp bình thường, với sản
lượng hiện nay thì hoàn toàn có thể cân đối phù hợp, nhưng trong bối cảnh dịch
bệnh diễn biến phức tạp, hạn mặn, nhiều bất ổn khó lường nên cần phải có thời
gian để đánh giá kỹ lưỡng hơn.
Vì vậy, chúng tôi kiến nghị Thủ tướng cho
thêm thời gian để xác minh lại với doanh nghiệp. Nếu Thủ tướng đồng ý thì chúng
tôi sẽ làm việc sớm với UBND các tỉnh ĐBSCL và doanh nghiệp xuất khẩu chủ chốt
để nắm lại số lượng chuẩn xác nhưng trên tinh thần đảm bảo an ninh lương thực
quốc gia.
* Hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo vẫn phải thực hiện theo
chỉ đạo là tạm dừng xuất khẩu gạo. Vậy bộ có đánh giá tác động doanh nghiệp hay
không và có hỗ trợ gì?
- Chúng tôi có đánh giá. Cụ thể, khi đưa ra một số
phương án cho Thủ tướng và Thường trực Chính phủ lựa chọn, chúng tôi đưa ra hai phương án, một là tạm giãn tiến độ xuất khẩu gạo đến
giữa tháng 5 và hai là đưa ra chế độ giấy phép, miễn là làm sao kiểm soát xuất
khẩu, vừa đảm bảo tiến độ hợp đồng đã ký và đảm bảo an ninh lương thực cho
người dân là yếu tố quan trọng nhất.
Sau khi cân nhắc ý kiến các bộ ngành, Thủ
tướng quyết định tạm giãn tiến độ trong 2 tháng đến cuối tháng 5-2020. Khi tạm
giãn như vậy sẽ xuất hiện một số vấn đề, đó là với hợp đồng đã ký với bên ngoài
doanh nghiệp có thể sử dụng biện pháp đây là trường hợp bất khả kháng, quyết
định của Chính phủ, không phải là hủy hợp đồng mà là tạm giãn tiến độ, phần nào
cho thấy doanh nghiệp tiếp tục thực hiện hợp đồng đó.
Nếu doanh nghiệp gặp khó khăn vì phải vay
vốn ngân hàng thì dự kiến Bộ Công thương sẽ làm việc với ngân hàng để giãn thời
gian trả nợ. Chúng ta cần phải có kiểm soát đảm bảo an ninh lương thực cho
người dân, đặt mục tiêu đó là cao nhất. Còn những câu chuyện khó khăn đến với
doanh nghiệp cũng là dễ hiểu, nhưng chúng tôi cũng đã tính toán để có phương án
giảm thiểu khó khăn và thiệt hại cho doanh nghiệp.
Doanh nghiệp gạo bức xúc
Ông Phạm Thái Bình,
giám đốc Công ty cổ phần nông nghiệp công nghệ cao Trung An (Cần Thơ), tỏ ra
bức xúc trước việc đột ngột "cấm" xuất khẩu gạo.
"Thiệt hại rất lớn
cho doanh nghiệp khi không kịp trở tay. Hàng hóa đã đóng bao, in nhãn mác, đóng
container đưa ra cảng chuẩn bị xuất khẩu rồi nằm đó thiệt hại ai chịu trách
nhiệm. Hợp đồng đã ký với đối tác giờ không thể giao được phải đền bù, ảnh
hưởng đến uy tín ai chịu trách nhiệm. Giá lúa ngay lập tức đã giảm xuống sau
lệnh cấm xuất khẩu gạo, thiệt hại chính là người nông dân. Việt Nam không thiếu
gạo xuất khẩu, lẽ ra nhân cơ hội thế giới đang cần thì phải khuyến khích xuất
khẩu với giá cao", ông Bình cho biết.
Cũng theo ông Bình,
quyết định tạm ngưng xuất khẩu gạo chưa khảo sát tình hình kinh doanh của các
doanh nghiệp.
"Bài học cấm xuất
khẩu gạo năm 2008 vẫn còn đó, chúng ta lỡ cơ hội xuất khẩu giá cao mà còn bị
ảnh hưởng uy tín trong xuất khẩu các năm tiếp theo", ông Bình nói.
Theo ông Vũ Duy Hải -
tổng giám đốc Công ty Vinacam, quyết định ngưng xuất khẩu gạo là quá đột ngột
và không dựa vào những thông tin về mùa vụ và đánh giá cơ hội xuất khẩu của gạo
Việt Nam khiến doanh nghiệp không thể trở tay kịp với "lệnh cấm" này
khi hợp đồng đã ký và nguy cơ đền hợp đồng là rất lớn.
Ông Hải phân tích trong
thời gian qua có hiện tượng gạo trong nước hút hàng bởi tâm lý lo lắng của
người dân vì dịch bệnh. Theo đó, nhiều người tăng mua gạo để dự trữ trong nhà
dẫn đến siêu thị hết hàng và đẩy mạnh mua từ các nhà cung cấp gạo.
"Nhưng dân mua nhiều
thì gạo chỉ chuyển từ kho nhà máy vào nhà dân chứ gạo không mất đi. Người dân
cũng không thể tăng tiêu thụ gạo lên gấp đôi ngày thường được do đó trong 5-6
tháng tới gạo sẽ giảm giá", ông Hải nói.
Đối với xuất khẩu, ông
Hải cho rằng Bộ NN&PTNT cho biết Việt Nam có thể xuất khẩu 6,5 triệu tấn
gạo trong năm nay. ĐBSCL đang thu hoạch rộ lúa đông xuân là nguồn cung quan
trọng nhất của cả năm.
Người dân thời gian qua
bị thiệt hại nặng nề do giá cả nông sản giảm sút, tình hình hạn mặn nghiêm
trọng lẽ ra được bán lúa giá cao thì nay lại khó tiêu thụ nếu như doanh nghiệp
ngưng mua vì không thể xuất khẩu.
"Lẽ ra trong bối
cảnh hiện tại thì phải khuyến khích xuất khẩu để tăng giá mua lúa cho nông dân.
Trong khi đó cần định hướng xuất khẩu gạo giá cao để tận dụng cơ hội thay vì
ngưng xuất khẩu", ông Hải chia sẻ quan điểm.
Theo PGS.TS Trần Tiến
Khai (Trường đại học Kinh tế TP.HCM), quyết định tạm ngưng xuất khẩu gạo không
nên đột ngột như vậy với một mặt hàng xuất khẩu quan trọng như lúa gạo.
"Đúng là trong
tình hình dịch bệnh phức tạp thì cần chú trọng an ninh lương thực trong nước
nhưng phải dựa trên căn cứ vào số liệu sản xuất, tình hình tiêu thụ, an ninh
lương thực và khả năng xuất khẩu. Nếu chưa rõ ràng thì có nhiều hình thức để
hạn chế và kiểm soát xuất khẩu để đạt mục giảm xuất khẩu, tăng giá trị mà không
cần phải ngưng ngay. Lịch sử đã cho thấy chúng ta đã lỡ cơ hội xuất khẩu gạo
giá cao khi cấm xuất khẩu gạo trước đây".
TRẦN MẠNH
NGỌC AN thực hiện