19 mars 2020

NHẬN XÉT BÀI BÁO “TÌNH CẢNH MEKONG NGƯỜI VIỆT NÊN TỰ TRÁCH MÌNH”


Tô Văn Trường


Bài báo “Tình cảnh Mekong – Người Việt nên tự trách chính mình” của tác giả Đăng Khoa rất cần được quan tâm, thảo luận. Tác giả có công sưu tầm nhiều thông tin tư liệu về hệ thống thủy điện ở sông Hồng, sông Mekong và Tây Nguyên với nhiều nhận định, đánh giá tương đối khách quan nhưng có những điểm chưa được chuẩn xác, cần phải hiệu chỉnh.

Nhận xét chung
 
Về phương diện thủy học, tác giả nhận xét đúng vì các đập thủy điện trên sông Lancang ở Trung Quốc không làm cho sông Mekong và Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) ở hạ lưu khô cạn, nhưng không đúng khi cho rằng các đập thủy điện "ngăn chặn" nước chảy xuống hạ lưu. Điểm đặc biệt là tác giả đã giải thích lý do vì sao người ta "chửi bới và đổ lỗi cho Trung Quốc xây đập trên thượng nguồn xa lắc".
Việc đổ lỗi cho Trung Quốc gây tác hại lớn ở ĐBSCL đúng ra là do tư tưởng bài Trung hơn là do các phân tích khoa học và chiến lược hợp lý của VN. Những người la lên việc này thường được nhiều người hoan nghênh ca ngợi nên dù có nói không có cơ sở cũng vẫn nói lấy được. Như năm nay cả Tây Nguyên cũng đang bị hạn trầm trọng vì mưa quá ít từ cuối năm ngoái, nhưng nhiều người vẫn gán cho hạn ở ĐBSCL trước hết là do Trung Quốc chặn nước thuỷ điện. Thậm chí có vị là văn nghệ sĩ không hiểu biết gì về bài toán thủy văn, thuy lực và thủy điện nhưng cũng lên mạng bình loạn “chém gió” về tác hại của thủy điện Luang Prabang (đập dâng) đến ĐBSCL .
Về chiến lược tốt hơn VN nên khuyến khích các nước thượng lưu gần Trung Quốc như Lào, Thái, Cambodia bị ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề hơn lên tiếng mạnh mẽ hơn, thay vì mình ở xa ít ảnh hưởng mà cứ la ầm ĩ, rồi còn chịu ơn xả nước chống hạn tuy chẳng được đáng kể khi nước từ Trung Quốc chảy về đến VN.
Nhìn chung, bài báo của tác giả Đặng Khoa gợi lại cho các đọc giả vấn đề thủy điện không riêng gì sông Hồng và sông Mekong. Các quốc gia Âu Mỹ Nhật, họ cũng làm thủy điện triệt để, đã xong lâu rồi, nhưng đã khắc phục và phát triển tiếp tục.


Nhận xét cụ thể

 

Về nguyên lý: Có hồ thượng lưu thì dòng chảy thay đổi: lũ giảm, bình quân kiệt tăng. Nếu ai đã đi tham quan thấy Paris có hai bờ sông Seine đẹp, Vienna có hai bờ sông Danube cũng đẹp và thơ mộng. Các thành phố ấy ở trung lưu, từng bị lũ lụt, sau khi có nhiều hồ thượng lưu, họ có điều kiện quay mặt ra sông. Còn Hà Nội ta phải quay lưng ra sông, giữa sông và phố là con đê chống lũ, đấy là tự nhiên lịch sử. Nay thì lũ đã được khống chế thì Hà Nội có điều kiện phát triển hai bờ sông và bãi giữa thành không gian sạch đẹp. Bao giờ làm được là tùy mình. Cũng nên biết, hồ thượng lưu đã làm tăng lượng nước bình quân mùa khô cho sông Hồng , nhưng mực nước sông vẫn thấp xuống là do lòng sông đã xói sâu xuống (hiện tượng thủy động lực học sau khi phù sa dòng sông giảm mạnh), khiến cống thủy lợi khó lấy nước, nhưng giao thông thủy không phải nạo luồng lạch nữa.
Xin lưu ý: Đối với lưu vực sông Hồng, việc xây dựng các hồ chứa lớn ở thượng lưu cộng với việc khai thác cát quá mức ở hạ lưu đã làm cho đáy các con sông ở vùng Đồng bằng sông Hồng bị hạ thấp, dẫn đến việc hạ thấp mực nước trên hệ thống sông Hồng trong mùa kiệt. So với năm 2000 thì mực nước bình quân trong mùa kiệt tại Sơn Tây trên sông Hồng hiện nay đã thấp hơn xấp xỉ 3m. Với sự có mặt của các hồ chứa lớn ở thượng du thì các trận lũ nhỏ hàng năm cũng đã được các hồ chứa điều tiết cắt lũ, do đó không xảy ra lũ ở hạ du.
Tuy nhiên, tác giả Đăng Khoa phân tích trong bài báo nhận định rằng “Hà Nội gần như vĩnh viễn không bao giờ sợ vỡ đê” là chưa chính xác bởi vì việc hạ thấp mực nước chỉ xảy ra với các cấp lưu lượng nhỏ, đối với các trận lũ lớn tương đương lũ thiết kế hoặc cao hơn thì chưa được kiểm chứng. Tác giả cũng nhận định đê Yên Phụ được hạ thấp là không chính xác bởi việc cải tạo đoạn đê Yên Phụ là thay thế đê đất bằng đê bê tông, cao trình đê vẫn được giữ nguyên như ban đầu. Chỉ có các thay đổi so với trước đây là phần thân đê được làm bằng bê tông (như 1 tường chắn), có chiều dày mỏng hơn rất nhiều so với đê đất trước đây, nên có thể sử dụng phần không gian còn lại (mặt đê, mái đê) để mở rộng đường giao thông.
Tôi nói có sách, mách có chứng:
1) Đối với sông Hồng:
Trước hết có thể hiểu tác giả Đăng Khoa muốn mang hình ảnh sông Hồng với tác động của thủy điện ở thượng nguồn để so sánh với sông Mekong. Tuy nhiên, các thông tin đưa ra chủ yếu lại liên quan đến dòng chảy lũ ở sông Hồng.
Cần nói rõ là dưới tác động của các hồ chứa thì lượng nước sông Hồng hạ lưu giảm hơn về mùa lũ. Còn vào mùa kiệt, trên thực tế lưu lượng dòng chảy về hạ du dưới sự điều tiết của các hồ đều tăng so với trước đây, tuy nhiên vùng đồng bằng sông Hồng vẫn bị thiếu nước là do mực nước trên sông bị hạ thấp, nguyên nhân chính là do hạ thấp lòng dẫn. Trên thực tế cùng một cấp lưu lượng về hạ du thì mực nước hiện nay cũng giảm nhiều so với trước đây.

Hình bên trái (diễn biến dòng chảy tại Sơn Tây) cho thấy sau khi có các hồ chứa thì dòng chảy mùa kiệt về hạ du sông Hồng không hề giảm (đường màu xanh lá cây). Trong khi mùa lũ (màu đỏ) giảm mạnh. Trong khi hình bên phải (so sánh mực nước - lưu lượng tại Sơn Tây) cho thấy mặc dù lưu lượng xả về tăng nhưng mực nước vẫn giảm.
Như vậy nguyên nhân chính của việc khó khăn nguồn nước ở đồng bằng sông Hồng là do lòng dẫn bị hạ thấp, không phải do các hồ chứa.
Nếu về địa lý, nói đầy đủ thì sông Hồng có 3 nhánh chính là sông Đà, sông Thao và sông Lô. Sông Đà hợp với sông Thao tại Trung Hà trước khi hợp với sông Lô (sông Lô hợp với sông Gâm rồi sông Chảy rồi mới về đến Việt Trì) tại Việt Trì tạo thành dòng chính sông Hồng chảy về hạ du.


Một số thông tin về dòng chảy lũ:
- Ngoài hồ Hòa Bình, còn có các hồ khác tham gia cắt lũ cho sông Hồng, bao gồm hồ Sơn La và hồ Hòa Bình trên sông Đà là 7 tỷ m 3 , hồ Tuyên Quang là 01 tỷ m 3 , hồ Thác Bà là 450 triệu m 3 .
Trên thực tế mực nước lũ tại Hà Nội chỉ giảm mạnh sau khi xây dựng hồ Sơn La.
Phân tích đỉnh lũ lớn nhất năm thực đo và hoàn nguyên tại Hà Nội từ năm 1993- 2015 (Hình dưới) cho thấy: Trước năm 2007, trong nhiều trận lũ, hồ Hòa Bình và Thác Bà đã cắt giảm đỉnh lũ năm tại Hà Nội từ 0,15-0,97 m. Khi thủy điện Tuyên Quang đi vào vận hành, hệ thống 3 hồ chứa (Hòa Bình, Thác Bà và Tuyên Quang) đã cắt giảm mực nước đỉnh lũ năm tại Hà Nội từ 1,5-2,2 m. Khi hồ Sơn La đi vào hoạt động, hệ thống 4 hồ chứa đã giúp mực nước đỉnh lũ năm tại Hà Nội cắt giảm mạnh (từ 1,1-4,2 m).

Như vậy, hiện nay hệ thống hồ chứa trên thượng nguồn đã điều tiết lũ rất tốt cho vùng đồng bằng sông Hồng, trong đó thủ đô Hà Nội được bảo vệ với lũ 500 năm.
- Đối với đê Yên Phụ (thực ra chỉ có đoạn Nghi Tàm) không hạ thấp cao trình chống lũ 13,4m cho Hà Nội, mà chỉ thay thế đê đất chiếm diện tích lớn bằng đê bê tông, mục đích là mở rộng giao thông)
- Đối với dòng chảy lũ khu vực Hà Nội: Đúng là từ khoảng 10 năm trở lại đây, sau khi có thêm hồ Tuyên Quang (trước đó đã có hồ Hòa Bình và Thác Bà) thì vùng bãi khu vực Hà Nội gần như không bị ngập. Tuy nhiên, trên thực tế, đoạn ngoài đê vẫn là hành lang thoát lũ, đê sông Hồng được thiết kế chống lũ 500 năm ở cao trình thiết kế 13,4 m. Khi xảy ra lũ thiết kế, hoặc lũ cực đoan hơn như 700 năm 1000 năm - với vùng đô thị đặc biệt quan trọng như Hà Nội thì việc tính đến các kịch bản cực đoan, lũ PMF là cần thiết - thì các vùng từ đê trở ra vẫn ngập hết và đảm bảo an toàn thoát lũ theo thiết kế. Việc xảy ra lũ lớn bất thường, bất kể do nguyên nhân tự nhiên (mưa cực đoan, tổ hợp mưa lớn diện rộng, mưa lớn khi hồ tích đầy) hay nguyên nhân con người vỡ đập, Trung Quốc xả lũ ồ ạt...) là hoàn toàn có thể xảy ra, dù rất hiếm nhưng với vùng quan trọng như Hà Nội vẫn phải tính đến. Tuy nhiên có một vấn đề cũng cần lưu ý là sẽ khó có trường hợp đê Hà Nội phải chịu đến mức nước trên 13,4m, vì khi đó có 2 khả năng/phương án xảy ra: 1) Đê dọc sông Hồng trên thượng nguồn đã vỡ rồi, hoặc 2) Luôn sẵn sàng có các phương án phân lũ ở thượng nguồn, thậm chí hy sinh những vùng không quá quan trọng nhằm giảm nguy cơ cho Hà Nội. 


2) Đối với sông Mekong:
- Trên thực tế ngoài thủy điện Trung Quốc ở thượng nguồn thì các hoạt động khai thác dọc sông, bao gồm các đập dự kiến xây trên dòng chính thuộc Lào, Cambodia, và đặc biệt là trên các dòng nhánh sẽ góp phần nhiều hơn vào việc làm suy giảm dòng chảy về ĐBSCL. Một vấn đề quan trọng nữa là do biến đổi khí hậu, cái này nói thì chung chung nhưng thực tế là có ảnh hưởng.
- Về nguồn nước, sông Mekong tụ hợp nguồn nước của rất nhiều phụ lưu lớn như lưu vực Lancang thuộc Trung Quốc, sông Ruak thuộc Myanmar, các sông Nam Ou, Nam Ngum, Nam Theun, Se Bangfai, Se Banghiang, Nam Mun, Sedone, Sekong... thuộc Lào, TonleSap thuộc Cambodia... nên việc khai thác thủy điện trên các nhánh này đều ảnh hưởng đến nguồn nước của ĐBSCL.

- Theo như bảng trên, nguồn nước từ Trung Quốc chỉ chiếm 16% tổng lượng dòng chảy vào Mekong. Đập thấp nhất thuộc Trung Quốc (Cảnh Hồng) được xây dựng từ năm 2003, hoàn thành 2008 với tổng dung tích 249 triệu m 3 không phải là lớn, tác động về tổng lượng không phải lớn so với hàng trăm hồ đập khác trên các dòng nhánh, đặc biệt tại Lào và một phần là Việt Nam (lưu vực 3S). Tuy nhiên, nếu chỉ xét về mùa kiệt, vai trò của các hồ chứa trên Trung Quốc lại lớn, do trong khi lượng mưa mùa kiệt trên các lưu vực thuộc Lào, Thái Lan, Cambodia và Việt Nam bị suy giảm, lượng nước tại các hồ chứa không điều tiết được nhiều, thì đối với các hồ phía Trung Quốc, trong đó có Cảnh Hồng, lại có nguồn nước bổ sung từ tuyết tan, do đó có tác dụng điều tiết thêm cho dòng chính Mekong, trong trường hợp các nước có sự hợp tác và thỏa thuận tốt.
Hồ thủy điện dòng chính sông Mekong làm tăng bình quân kiệt cho hạ lưu (thực tế không tưới trực tiếp, không tiêu hao nước). Thủy điện dòng chính Sesan và Srepok không tưới trực tiếp ở Tây Nguyên, chi có tác động xuống Campuchia nhưng sau khi VN đã xây hồ điều hòa Sesan4A và Srepok 4A, cũng không còn tác động ấy nữa. Nay Campuchia xây Sesan 2 là hồ lớn, vậy không thế nói Sesan-Srepok của VN tác động gì cho ĐBCSL. Các biến động trên lưu vực ở Tây Nguyên là do các hoạt động nông lâm nghiệp và thủy lợi tại chỗ.

Kết luận
 
Lưu vực sông Hồng và sông Mekong đều có nguồn nước bắt nguồn từ Trung Quốc. ĐBSCL chịu các loại tác động của phát triển trên lưu vực Mekong bao gồm (i) Hồ chứa lớn trên dòng chính ở Trung Quốc, và hồ chứa lớn trên nhánh lớn ở Lào; (ii) Các thủy điện dòng chính của Lào, Campuchia và Thái Lan, các thủy điện này chủ yếu là đập dâng hồ chứa nhỏ so với dòng chảy; (iii) Các hồ thủy điên và thủy lợi khác trên sông nhánh cả 5 quốc gia (phần lưu vực Mekong ở Myanmar không đáng kể); (iv) Các khai thác đất và nước tại chỗ cuả chính ĐBSCL đã và đang tự gây tác động trực tiếp; (v) Biến đổi khí hậu tác động ngày một tăng.
Bài báo của tác giả Đăng Khoa tuy có những điểm chưa chính xác phải hiệu đính như trên nhưng có tác dụng tốt giúp cho bạn đọc cần thấy bản chất của khai thác tài nguyên, tránh các nhận xét nhầm lẫn. Tuy nhiên, xin nhấn mạnh về Trung Quốc trong vấn đề Mekong, họ không có thiện chí hợp tác vì lợi ích chung trên lưu vực,mà chỉ muốn đứng ở thế mạnh chính trị gây ảnh hưởng đến các quốc gia hạ lưu.