Trích đoạn Hồi ký Trần Quang Cơ
"NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI AN NINH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TA: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI SÁCH
(Viết theo yêu cầu của Thường trực BCT và đã gửi các đồng chí Thường trực BCT ngày 20.6.1993)
II. Nguy cơ lớn nhất và thúc bách nhất đe doạ an ninh và phát triển của ta là từ đâu ?
[...] Trước hết chắc chắn đó không phải là Nhật hay Thái Lan. Đó chỉ có thể là Mỹ hay Trung Quốc.
1. Chiến lược của Mỹ và ý đồ Mỹ đối với Việt Nam
Riêng với Trung Quốc, Mỹ rất coi trọng vai trò của đất nước có hơn 1 tỷ
dân này trong kế hoạch tạo lập một trật tự quốc tế mới. Mỹ cần thúc đẩy
và tranh thủ sự hợp tác của Trung Quốc trong nhiều vấn đề, nhất là
trong việc xử lý các cuộc xung đột khu vực trong Hội đồng Bảo an LHQ mà
Trung Quốc là một thành viên có quyền phủ quyết. Vì vậy chắc chắn Mỹ sẽ
không vì Việt Nam mà làm ảnh hưởng xấu đến quan hệ với Trung Quốc. Mỹ sẽ
không trực tiếp can thiệp vào các tranh chấp song phương giữa Việt Nam
và Trung Quốc nếu tranh chấp đó không đụng chạm đến lợi ích của Mỹ và
đến ổn định của cả khu vực.
Song cũng vì lợi ích chiến lược của
Mỹ, Mỹ không thể khuyến khích hoặc làm ngơ để Trung Quốc tự do bành
trướng xuống Đông Nam Á. Trong chiến lược châu Á - Thái Bình Dương của
Mỹ, chính quyền Clinton đã tỏ ra coi trọng vai trò Đông Nam Á hơn trước
[…]
......
2. Chiến lược của Trung Quốc và ý đồ của Trung Quốc đối với Việt Nam
Trái với Mỹ, Trung Quốc thấy ở những biến đổi lớn trong cục diện thế
giới ngày nay, một “cơ hội ngàn năm có một”.[…] Do hiện nay (1993) thế
cũng như lực chưa đủ mạnh, nên họ thực hiện ý đồ một cách tính toán thận
trọng tuỳ theo diễn biến của tình hình khu vực, phản ứng của các đối
thủ và thực lực của chính họ.
Trước mắt Trung Quốc đang ra sức
thực hiện ý đồ nhanh chóng trở thành một cường quốc ở châu Á - Thái Bình
Dương, có địa vị ngang hàng với Mỹ, Nhật ở khu vực này. Trung Quốc đặt
mục tiêu lấn chiếm toàn bộ biển Đông ở vị trí ưu tiên hàng đầu. Trung
Quốc coi trọng vị trí chiến lược của biển Đông, vì kiểm soát được biển
Đông tức là khống chế được cả Đông Nam Á và cả con đường giao lưu huyết
mạch từ Thái bình dương qua Ấn Độ Dương, và cũng là khu vực giầu tài
nguyên nhất là dầu khí (trữ lượng dầu ở khu vực này ngang Vịnh Ba Tư) mà
Trung Quốc đang cần để đẩy nhanh tốc độ phát triển.
Đáng chú ý
là trong khi Trung Quốc mở một chiến dịch hoạt động ngoại giao rộng lớn
nhằm tranh thủ tăng cường quan hệ hợp tác phát triển với tất cả các nước
công nghiệp hoá phương Tây, tranh thủ các nước đang phát triển và không
liên kết hòng khôi phục vai trò lãnh đạo thế giới thứ ba, cải thiện
quan hệ với các nước láng giềng cùng chung biên giới, đặc biệt là gần
đây tăng cường lôi kéo các nước khu vực Đông Nam Á để phá thế “quần lang
đấu hổ”, thì Trung Quốc luôn tập trung mũi nhọn gây sức ép và lấn dần
Việt Nam trên mọi vấn đề, mặc dù ta đã dùng đủ phương sách để tỏ rõ thái
độ cầu hoà và hữu hảo với họ. Phải chăng vì Trung Quốc cho rằng Việt
Nam là điểm yếu và dễ tính để lấn nhất lúc này (khó về quân sự, nghèo về
kinh tế, đơn độc về chính trị) mà lại chiếm một vị trí chiến lược quan
trọng ở Đông Nam Á và là trở ngại lớn nhất cho kế hoạch biển Đông của
Trung Quốc.
Những hoạt động bất lợi đối với Việt Nam của Trung
Quốc sẽ không dừng lại ở trạng thái hiện nay mà sẽ còn được tiếp tục đẩy
tới […] Sức ép của Trung Quốc đối với ta sẽ phát triển thuận chiều với
sự phát triển các mặt của Trung Quốc.
3. Những phân tích tình
hình trên đây có thể dẫn đến kết luận: Trước mắt cũng như trong tương
lai dự báo được, Trung Quốc là nguồn xuất xứ chính của những thách thức
đe doạ đối với chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, cũng như đối với an ninh
và phát triển của Việt Nam. Những thách thức đe doạ trên nhiều mặt của
Trung Quốc đối với ta đều đang là những vấn đề hiện thực, đang xảy ra và
ta đang phải xử lý, khác với những thách thức đe doạ của các đối tượng
khác, kể cả Mỹ, có phần nào còn là giả định và dự phòng. Những mâu thuẫn
về lợi ích trên các mặt giữa ta với Trung Quốc có nhiều hơn với các đối
tượng khác.
III. Kiến nghị đối sách
1. Xét về so sánh lực
lượng giữa Việt Nam và Trung Quốc, Việt Nam là nước nhỏ so với Trung
Quốc là nước lớn, có trọng lượng và ảnh hưởng chính trị rộng lớn hơn ta
nhiều. Nếu tách riêng mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc với những vấn đề
tranh chấp hiện có cũng như tiềm tàng thì tình hình hoàn toàn bất lợi
cho ta. Nhưng nếu gắn mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc vào trong tổng
thể quan hệ quốc tế của thế giới và khu vực, thì ta có khả năng vận dụng
được những xu thế lớn của thời đại, như tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa
các quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu được quốc tế hoá cao và xu thế
chung muốn duy trì và củng cố hoà bình và ổn định để đẩy mạnh phát triển
kinh tế, để cải thiện thế chính trị của ta trong cuộc đấu tranh nhằm
giải quyết các vấn đề tranh chấp với Trung Quốc bảo vệ lợi ích chính
đáng của ta.
Vì bên cạnh những chỗ mạnh so với ta trên mặt trận
đối ngoại Trung Quốc có những điểm yếu cơ bản mà ta có thể và cần biết
cách khai thác để có thể hạn chế Trung Quốc trong chính sách lấn ép ta
trên nhiều mặt. Những điểm yếu đó là:
a. Để thực hiện ưu tiên tối
cao là đẩy nhanh hiện đại, Trung Quốc cần Mỹ hơn là Mỹ cần Trung Quốc.
Do đó tuy giữa Mỹ - Trung Quốc có đấu tranh và thoả hiệp, nhưng rõ ràng
Trung Quốc ngại phản ứng của Mỹ, không dám thách thức Mỹ trong khi thế
và lực của Trung Quốc còn có hạn. Thế giới cũng như các nước khu vực đều
coi Mỹ là đối trọng có hiệu quả nhất trong việc kiềm chế Trung Quốc.
Cũng vì thế Trung Quốc rất không muốn Mỹ cải thiện quan hệ và đi tới
bình thường hoá quan hệ với Việt Nam.
b. Trong lúc chưa xây dựng
được lực lượng kinh tế cũng như quân sự đủ mạnh, Trung Quốc rất ngại các
nước khu vực Đông Nam Á - đối tượng bành trướng trước mắt của Trung
Quốc – liên kết với nhau, đặc biệt là giữa ASEAN và Việt Nam, thành thế
“quần lang đấu hổ” chống lại nguy cơ chung. Chính vì vậy mà Trung Quốc
đang tìm mọi cách lôi kéo phân hoá Đông Nam Á thành những mảnh riêng
biệt, thậm chí có thể chống đối nhau.
c. Trước xu thế mạnh mẽ của
chung trên thế giới và trong khu vực muốn có ổn định để tập trung ganh
đua phát triển kinh tế, Trung Quốc rất ngại bị dư luận quốc tế, trước
hết là dư luận khu vực, coi là “nhân tố gây mất ổn định” ở châu Á - Thái
Bình Dương và thế giới. Cuộc vận động của Mỹ, Nhật, nhất là ASEAN, nhằm
từng bước thúc đẩy việc hình thành một diễn đàn và tiến tới một cơ chế
về an ninh tập thể khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện nay chính là
nhằm kiềm chế Trung Quốc.
2. Để có thể tận dụng những điểm yếu
của Trung Quốc vào việc cải thiện thế chính trị trong cuộc đấu tranh
không cân sức này, ta nhất thiết cần phải chọn lựa và hình thành một
chiến lược đối ngoại hết sức linh hoạt phù hợp với chiều hướng diễn biến
chung của chính trị và kinh tế thế giới, thích ứng với những đặc điểm
lớn của cục diện quốc tế hiện tại. Cuộc đấu tranh chống lại những thách
thức đe doạ của đối tượng đặc biệt này là một nhiệm vụ hết sức thúc
bách, đòi hỏi những biện pháp tổng hợp song điển và trên mặt trận ngoại
giao là chính.
Với sự kết thúc trạng thái thế giới phân thành 2
cực đối lẫn nhau, do tính tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các
nước trên toàn cầu và trong mỗi khu vực, việc không ngừng mở rộng quan
hệ quốc tế theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá để hoà nhập vào đời
sống chung của cộng đồng quốc tế là rất quan trọng cả về chính trị lẫn
kinh tế. Đồng thời trong bối cảnh quốc tế hiện nay, an ninh của một nước
tuỳ thuộc rất lớn và trước hết vào mối quan hệ với các nước trong khu
vực. Đặc biệt việc xử lý các vướng mắc trong quan hệ quốc tế và khu vực
của ta vừa qua cho thấy việc xử lý tốt mối quan hệ với các nước lớn là
cực kỳ quan trọng đối với lợi ích an ninh và phát biểu của nước ta. Kinh
nghiệm xương máu của dân tộc ta trong những thập kỷ qua cho thấy cần có
chính sách quan hệ cân bằng giữa các nước lớn, khôn khéo lợi dụng những
sai khác về lợi ích giữa họ với nhau, và tuyệt đối không để bên ngoài
hiểu là Việt Nam có ý đồ đi với nước lớn này chống nước nọ, gần lợi ích
của ta với lợi ích an ninh và phát triển của các nước láng giềng trong
khu vực để taọ cho nước ta một thế quốc tế thuận lợi hơn.
3.
Những trọng điểm trong chiến lược đối ngoại của ta phải là các nước lớn
trong tam giác chiến lược châu Á - Thái Bình Dương và khối các nước
ASEAN, những nhân tố có khả năng tác động nhiều tới Trung Quốc.
a. Với Mỹ:
Quan hệ với Mỹ là một bộ phận quan trọng trong chính sách đa dạng hoá
quan hệ đối ngoại của ta. Hiện nay Mỹ là nhân tố duy nhất có khả năng
làm đối trọng và kiềm chế Trung Quốc, do đó ta cần kiên trì và quyết tâm
kéo Mỹ đi vào bình thường hoá quan hệ. Kéo Mỹ vào vấn đề Mỹ có lợi ích
trực tiếp ở Việt Nam, nhất là lợi ích trong lĩnh vực dầu khí ngoài khơi
Việt Nam, khiến Mỹ không thể làm ngơ trước tình hình “bất ổn định” do
Trung Quốc khiêu khích, xâm lấn gây ra. Một nhà nghiên cứu Mỹ về châu Á
đã đánh giá “một dàn khoan của Công ty Mobil Oil (Mỹ) ở biển Đông có giá
trị ngang với cả một Hạm đội 7.” […]
Việc ta vừa giữ hoà khí với
Trung Quốc vừa có quan hệ bình thường với Mỹ và thúc đẩy quan hệ với
Nhật, phương Tây và ASEAN và các nước khác sẽ tạo ra cho ta thế mạnh
trong quan hệ cân bằng với các đôí tượng […]
Song song với các
bước cải thiện quan hệ Việt Nam và Mỹ, cần kết hợp mở rộng đường lối
“hoà hợp dân tộc” bằng những chính sách cụ thể đối với Việt kiều ở Mỹ và
các nước khác nhằm chuyển họ thành những lực lượng mạnh mẽ hỗ trợ cho
công cuộc hiện đại hoá nền kinh tế và KHKT của nước nhà. Việc làm này
tất nhiên sẽ tác động trở lại đối với việc tăng cường quan hệ hợp tác
của ta với Mỹ và các nước có người Việt sinh sống […]
d. Với Trung Quốc:
- Bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc là một yêu cầu chiến lược của
ta. Do Trung Quốc thi hành chính sách 2 mặt nên đối sách của ta cũng gồm
2 mặt vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa chủ động thúc đẩy quan hệ trên cơ
sở những thoả thuận đã đạt được, vừa kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh
thổ đồng thời giữ vững phương châm không để trở lại tình trạng đối đầu
với Trung Quốc cũng như không đặt các nước trước sự lựa chọn hoặc Việt
Nam hoặc Trung Quốc. Biện pháp tối ưu lúc này là chủ động tạo nên cục
diện các nước lớn và ASEAN có lợi ích kinh tế, an ninh ngày càng lớn
trong quan hệ với Việt Nam. Cục diện đó cộng với sự lớn mạnh càng nhanh
càng tốt của bản thân chúng ta sẽ là sự răn đe có hiệu quả nhất đối vơí
mọi hoạt động lấn chiếm của Trung Quốc.
- Kiên quyết đấu tranh
hạn chế ý đồ lấn chiếm của Trung Quốc ở biển Đông, đặc biệt ở vùng thềm
lục địa của ta; áp dụng các biện pháp khôn khéo nhưng có hiệu quả ngăn
chặn hoạt động của Trung Quốc mà không dẫn đến đối đầu về quân sự.
- Xúc tiến việc xác định phạm vi của quần đảo Trường Sa để xem xét khái
niệm “khai thác chung”, phá ý đồ Trung Quốc lợi dụng vấn đề này chia rẽ
phân hoá giữa ta và ASEAN.
- Chuẩn bị khả năng đưa ra toà án quốc tế hoặc trọng tài quốc tế vấn đề Trung Quốc vi phạm thềm lục địa của ta.
- Đến một lúc nào đó ta nên tính đến khả năng mở cảng Cam Ranh thành
một thương cảng cho các tàu quốc tế ra vào, kể cả tàu Mỹ, tạo sự có mặt
của nhiều quốc gia ở khu vực biển Đông, ngăn ý đồ độc chiếm của một
nước. Song tất nhiên ta phải có chính sách và luật pháp chặt chẽ để bảo
đảm chủ quyền và an ninh quốc gia."